Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

QUẢN TRỊ rủi RO THANH KHOẢN CHO NGÂN HÀNG ACB TRƯỚC TIN đồn THẤT THIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.92 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Tin đồn là một trong những yếu tố tác động mạnh đến hình ảnh và uy tín của một cá
nhân hoặc tổ chức ở bất cứ lĩnh vực nào trong cuộc sống. Một tin đồn tích cực có thể
nâng cao danh tiếng của một cá nhân hay tổ chức, và ngược lại, một tin đồn xấu có thể
khiến cho hoạt động của cá nhân hay tổ chức đó bị ảnh hưởng không ít. Và hệ thống ngân
hàng trong nền kinh tế Việt Nam hiện tại cũng không nằm ngoài quy luật này. Một ví dụ
điển hình cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của một tin đồn đối với hệ thống ngân hàng Việt
Nam là sự cố vào năm 2003, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) bị tung tin
đồn rằng giám đốc hiện thời của ACB là ông Phạm Văn Thiệt đã bỏ trốn. Tin đồn này đã
không những xâm hại nghiêm trọng uy tín của ACB, mà còn tạo ra tâm lý hoang mang lo
sợ trong một số khách hàng có quan hệ giao dịch với ACB, đồng thời ảnh hưởng đến cả
hệ thống ngân hàng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù sự cố này đã được giải
quyết kịp thời và nhanh chóng nhưng cũng đã để lại những thiệt hại không nhỏ đến ngân
hàng ACB, khách hàng và hệ thống ngân hàng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu các khía cạnh của tin đồn thất thiệt đối với ngân hàng ACB, nghiên cứu tầm
ảnh hưởng và hậu quả của tin đồn thất thiệt gây ra nhằm có những biện pháp và chính
sách thích hợp để quản trị rủi ro tin đồn thất thiệt.

3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu rủi ro thanh khoản gây ra bởi tin đồn thất thiệt đối với
ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu vào năm 2003.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp mô tả - giải thích, thống kê mô tả, phân tích định tính, thảo luận nhóm.

5. Kết cấu đề tài:
Phần nội dung của đề tài được chia làm 4 phần:
I. Khái quát tình hình hoạt động của ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB).


II. Những rủi ro mà ngân hàng ACB có thể gặp.
III. Phương án trên lý thuyết để quản trị rủi ro.
IV. Phương án trên thực tế để quản trị rủi ro.
1


NỘI DUNG
I. Khái quát NHTM CP Á Châu (ACB):
1. Đôi nét về ACB:
1.1. Bối Cảnh Thành Lập:
Pháp lệnh về Ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh về ngân hàng thương mại, hợp tác
xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990 đã tạo dựng một
khung pháp lý cho hoạt động ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó,
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) đã được thành lập theo Giấy phép số
0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 24/04/1993, GIấy phép số
553/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày
04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động.

1.2. Tầm Nhìn:
Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành ngân hàng
thương mại cổ phần bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam
vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp
vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân
hàng mới thành lập như ACB

1.3. Lịch sử hình thành:
 Ngan hang thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy phep số
0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngay 24/4/1993, và Giấy phép số
533/GP-UB do Ủy ban Nhan dan TP. HCM cấp ngay 13/5/1993. Ngày 04/6/1993, ACB
chính thức đi vào hoạt động.

 27/04/1996: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam phát
hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Mastercard.
 15/10/1997: ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa.

2


 Năm 1997 – Tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại: Công tác chuẩn bị nhằm
nhanh chóng đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng đã được bắt đầu
tại ACB, dưới hình thức của một chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo
dài hai năm.
 Năm 2000 – Tái cấu trúc: Với những bước chuẩn bị từ năm 1997, đến năm
2000, ACB đã chính thức tiến hành tái cấu trúc (2000-2004) như là một bộ phận của
chiến lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo
định hướng kinh doanh và hỗ trợ
 29/06/2000 – Tham gia thị trường vốn
 02/01/2002 – Hiện đại hóa ngân hàng: ACB chính thức vận hành TCBS. (The
Complete Banking Solution: Giải pháp ngân hàng toàn diện)
 14/11/2003 – Thẻ ghi nợ: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên tại
Việt Nam phát hành thẻ ghi nợ quốc tế ACB-Visa Electron.
 10/12/2006 – Công nghệ sản phẩm cao: Đưa sản phẩm quyền chọn vàng, quyền
chọn mua bán ngoại tệ, ACB trở thành một trong các ngân hàng đầu tiên của Việt Nam
được cung cấp các sản phẩm phát sinh cho khách hàng.
 Năm 2009, ACB hoàn thanh cơ bản chương trinh tái cấu truc nguồn nhân lực, tai
cấu trúc hệ thống kênh phân phối, xây dựng mô hinh chi nhánh theo định hướng bán
hàng. Tăng thêm 51 chi nhánh va phòng giao dịch. Hệ thống chấm điểm tín dụng đối với
khách hàng cá nhân và doanh nghiệp cũng đã hoàn thanh và áp dụng chính thức. Hệ
thống bán trợ giúp (help desk) bắt đầu được triển khai. Và lần đầu tien tại Việt Nam, chỉ
có ACB nhận được 6 giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam năm 2009” do 6 tạp chí
tài chính ngân hàng danh tiếng quốc tế bình chọn.


1.4. Sản phẩm dịch vụ chính:
 Huy động vốn (nhận tiền gửi khách hàng) bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng
 Sử dụng vốn (cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh) bằng đồng Việt
Nam, ngoại tệ và vàng
3


 Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện dịch
vụ ngân quỹ, chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền nhanh, bảo hiểm nhân thọ qua ngân
hàng.
 Kinh doanh ngoại tệ và vàng.
 Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ.
Vốn điều lệ: Kể từ ngày 27/11/2009 vốn điều lệ của ACB là 7.814.137.550.000
đồng (Bảy nghìn tám trăm mười bốn tỷ một trăm ba mươi bảy triệu năm trăm năm mươi
nghìn đồng)
Mạng lưới kênh phân phối: Gồm 248 chi nhánh và phòng giao dịch tại những
vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc

1.5. Nhân sự:
Tính đến ngày 28/02/2010 tổng số nhân viên của Ngân hàng Á Châu là 6.749
người. Cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93%, thường xuyên được đào tạo
chuyên

môn

nghiệp

vụ


tại

trung

tâm

đào

tạo

riêng

của

ACB.

Hai năm 1998-1999, ACB được Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) tài trợ một chương
trình hỗ trợ kỹ thuật chuyên về đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên, do Ngân hàng Far East
Bank and Trust Company (FEBTC) của Phi-lip-pin thực hiện. Trong năm 2002 và 2003,
các cấp điều hành đã tham gia các khoá học về quản trị ngân hàng của Trung tâm Đào tạo
Ngân hàng (Bank Training Center).

1.6. Thành tích và sự công nhận của xã hội:


Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2008 (Tạp chí Euromoney);



Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2007;




Cờ thi đua của Chính Phủ;



Dịch vụ Ngân hàng bán lẻ được hài lòng nhất năm 2008 và nhiều giải thưởng

khác.

4




ACB đã trở thành một thương hiệu mạnh trong cũng như ngoài nước, nằm trong

Top 100 thương hiệu mạnh Việt Nam, 1 trong 2 ngân hàng nhận giải thưởng Tin &
Dùng của người tiêu dùng do TBKTVN bầu chọn. Cho đến nay ACB là ngân hàng đầu
tiên và duy nhất của Việt Nam trong một năm (2006) nhận 3 giải thưởng quốc tế danh
giá do tạp chí The Banker thuộc tập đoàn Financial Times, The Asian Banker và
EuroMoney trao tặng.

2. Sơ nét về tình hình tài chính của ACB:
2.1 Môi trường hoạt động (2009):
Với sự can thiệp mạnh tay của chính phủ hầu hết các quốc gia trên thế giới thông
qua chính sách nới lỏng tiền tệ và tăng chi ngân sách, năm 2009 kinh tế thế giới dần hồi
phục sau cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu 2008.
Nằm trong xu thế chung đó, kinh tế Việt Nam cũng được cải thiện hơn. Tốc độ tăng

trưởng GDP cải thiện dần qua các qu. và đạt 5,3% cả năm 2009, CPI có mức tăng dưới
1% trong suốt 10 tháng.
Cùng với chủ trương kích cầu và ngăn chặn suy giảm kinh tế, sự chuyển hướng
chính sách tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng là yếu tố tạo điều kiện để ngành ngân hàng
phục hồi đà tăng trưởng trong năm 2009, đặc biệt là về tín dụng. Bên cạnh đó, so với năm
2008 diễn biến chính sách tiền tệ năm 2009 cũng có phần ổn định hơn với chỉ 2 lần điều
chỉnh lãi suất cơ bản.
Mặc dù vậy thị trường ngân hàng năm 2009 vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp và
ảnh hưởng trực tiếp đến l.i biên, lợi nhuận cũng như tăng trưởng quy mô của các ngân
hàng. Trong đó nổi lên là các vấn đề căng thẳng ngoại tệ; sự thay đổi chính sách từ
khuyến khích tăng tín dụng đầu năm (thông qua gói cho vay hỗ trợ l.i suất 4% từ
01/02/2009) chuyển sang kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng từ cuối quí II và chấm dứt
hỗ trợ lãi suất ngắn hạn từ cuối năm 2009; cũng như quy định chấm dứt các hoạt động
kinh doanh vàng tài khoản, hoạt động của các trung tâm giao dịch vàng.

2.1. Kết quả hoạt động:
5


Về quản lí rủi ro, tỷ lệ nợ xấu của Tập đoàn cuối năm 2009 chỉ là 0,4%.
Về vốn ngân hàng, trong năm 2009 ACB đã hoàn thành tăng vốn điều lệ thêm 1.458
tỷ đồng từ chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng từ các quỹ.
Sau khi tăng vốn, ACB có tổng cộng 781.413.755 cổ phiếu đang lưu hành và 100% là cổ
phiếu phổ thông. Đến 31/12/2009 ACB có mức vốn điều lệ 7.814 tỷ đồng, thuộc hàng lớn
nhất trong nhóm các ngân hàng TMCP Việt Nam.

Trong 17 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ va ổn định,
nhất là giai đoạn 2004 – 2009. Điều nay được thể hiện bằng cac chỉ số tai chinh tin dụng
của ACB qua cac năm như sau:


6


2.3. Kế hoạch hoạt động cho cả năm 2010:
Lợi nhuận trước thuế tính đến ngày 31/12/2009 2.838 tỷ

3. Phân tích SWOT:
3.1 Cơ hội và thách thức:
a. Cơ hội:
Về dài hạn ngành ngân hàng vẫn được dự báo là ngành có tiếm năng tăng trưởng tốt
bình quân trên 16%/năm trong vòng 5 năm tới khi khách hàng và nhu cầu hợp tác với các
ngân hàng ngày càng tăng

7


Năm 2009 tiếp tục dự báo là năm khó khăn chung của ngành ngân hàng đặc biệt là
đối với ngân hàng vừa và nhỏ. Và đây cũng là cơ hội cho các ngân hàng lớn có tiềm lục
tài chính mạnh như ACB bứt phá chiếm lĩnh thị phần. Thâu tóm sát nhập các ngân hàng
có quy mô nhỏ
* Nền kinh tế Việt Nam - Hội nhập và phát triển
Với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, "Đổi mới" quá trình - Đổi mới tiếp tục được
thực hiện nhiều hơn sâu sắc và toàn diện. Nằm trong khu vực năng động nhất trên thế
giới, Việt Nam đã trải qua tốc độ tăng trưởng cao, chính trị ổn định; nhiều hơn nữa môi
trường kinh doanh hấp dẫn đã được tập hợp lợi ích của cộng đồng nhà đầu tư quốc tế.
* Ngành công nghiệp ngân hàng Việt Nam - hiện tại và tương lai
Theo một số dự đoán, tiền gửi ngân hàng sẽ tăng từ 68% hiện hành của GDP tới 910% GDP của 2010/2011 và có được 90 USD tỷ đồng.
Do đó, nhu cầu cho các dịch vụ tài chính của doanh nghiệp và cá nhân sẽ được gia
tăng mạnh mẽ.


b. Thách thức:
- Có các hoạt động chính đa dạng, bổ sung nhau: Khi thị trường chứng khoán đi
xuống trong năm 2008 và đầu năm 2009, thị trường vàng cung cấp cho ACB một nguồn
thu đáng kể.
- Kinh tế thế giới vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, khủng hoảng có thể kéo dài qua cả
năm 2009 và sang 2010. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính lớn trên thế giới có thể
phải gánh chịu các qui định ngặt nghèo hơn, khiến tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi
nhuận bị giảm sút.
- Quy trình quản trị của các ngân hàng thương mại chưa phù hợp với các nguyên tắc
và chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch còn thấp. Khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế
Việt Nam nói chung và của khu vực ngân hàng nói riêng còn rất thấp.

8


- Các ngân hàng lớn của quốc tế và khu vực như ANZ, HSBC, Citibank sẽ hiện diện
ngày càng mạnh mẽ và có cạnh tranh với các ngân hàng của Việt Nam, trong đó có ACB.
Các tổ chức này có thế mạnh về sản phẩm dịch vụ, kinh nghiệm, sự chuyên nghiệp và
nguồn vốn tạo nên những thách thức lớn cho những tổ chức tài chính trong nước .
Năng lực chấp nhận rủi ro và quản lý rủi ro: trong các hoạt động có rủi ro vốn
ACB luôn giữ nguyên tắc thận trọng. Tuy nhiên trong điều kiện mới, các cơ hội đang
xuất hiện nhiều, việc chấp nhận các rủi ro cao hơn cũng như chấp nhận các loại rủi ro
mới là điều cần thiết cho phát triển. Tuy nhiên việc chấp nhận rủi ro không diễn ra đơn
chiều mà đòi hỏi xây dựng một hệ thống định dạng và quản lý rủi ro chuyên nghiệp để
đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững.
Năng lực chớp thời cơ tạo ra bứt phá: Nhu cầu dịch vụ tài chính gia tăng, cổ
phần hóa được đẩy mạnh, thị trường bất động sản thay đổi về chất, thị trường vốn phát
triển tốc độ cao, hành vi tiêu dùng và sử dụng sản phẩm thay đổi nhanh… ACB chỉ cần
tận dụng được 1 cơ hội cũng sẽ tạo ra sự tăng trưởng đột biến về cả lượng và chất. Đặc
biệt cần chú ý năng lực lựa chọn, đầu tư và làm chủ công nghệ thích hợp.

Năng lực hợp tác và học tập: 2005-2015 sẽ là giai đoạn hợp tác, tạo dựng các liên
minh, xây dựng và phát triển thị trường (là một phần của quá trình hội nhập)… Năng lực
hợp tác và học tập để tiếp nhận các kiến thức mới sẽ là động cơ quan trọng để một ngân
hàng như ACB có thể lớn lên nhanh.Năng lực cạnh tranh và đối đầu: Chấp nhận cạnh
tranh trực tiếp đối đầu, đủ năng lực – bao gồm cả năng lực tài chính – để khai phá các sản
phẩm mới, khách hàng mới… đòi hỏi các giải pháp phi truyền thống.
Năng lực sáng tạo và đi tiên phong: Các sản phẩm ngân hàng truyền thống hiện
nay tại Việt Nam khá đơn giản, dễ bắt chước và khó tạo nên sự khác biệt. Các sản phẩm
như thẻ tín dụng, cho vay mua nhà, tiêu dùng, sản xuất kinh doanh hộ gia đình và dịch vụ
địa ốc tạo nên sự khác biệt cho ACB thời gian qua. Việc nâng cao năng lực sáng tạo để
tiếp tục duy trì vị thế là yêu cầu mang tính sống còn đối với ACB.
Năng lực thích ứng và quản lý sự thay đổi nhanh, liên tục: Việc áp dụng các
thông lệ và chuẩn mực tốt nhất trong môi trường kinh doanh đang thay đổi với tốc độ
chóng mặt đòi hỏi tất cả các thành viên của hệ thống ACB phải luôn tự thích ứng với các
9


yêu cầu mới. Điều này đòi hỏi ở con người ACB sự sẵn sàng cả về tâm lý lẫn thể chất để
có thể theo kịp yêu cầu của chính hệ thống.
Kinh nghiệm của hơn 13 năm hoạt động cho phép khẳng định rằng vào những thời
điểm cần thiết ACB luôn có khả năng tập trung nguồn lực, vượt qua thách thức, tận dụng
cơ hội và phát triển bềnvững.

3.2 Điểm mạnh điểm yếu:
a. Điểm mạnh:
ACB đang có một thế đứng vững chắc trong hệ thống các ngân hàng Việt Nam.
Thị phần: ACB hiện đang nắm giữ 6% thị phần huy động tiết kiệm của cả
nước, trên 57% thị phẩn chủ thẻ tín dụng quốc tế, trên 55% thị phần chuyển tiền nhanh
Western Union. Mạng lưới của ACB đã có mặt tại các địa bàn trọng điểm phát triển kinh
tế - xã hội trên cả nước. ACB là ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất trong khối NHTMCP,

đứng thứ 5 trong toàn ngành ngân hàng.
Tăng trưởng: ACB có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững đạt gấp 2-2.5
lần tốc độ tăng trưởng của ngành trong 3 năm liên tục.
Thương hiệu: ACB đã trở thành một thương hiệu mạnh trong cũng như
ngoài nước, nằm trong Top 100 thương hiệu mạnh Việt Nam, 1 trong 2 ngân hàng nhận
giải thưởng Tin & Dùng của người tiêu dùng do TBKTVN bầu chọn. Cho đến nay ACB
là ngân hàng đầu tiên và duy nhất của Việt Nam trong một năm (2006) nhận 3 giải
thưởng quốc tế danh giá do tạp chí The Banker thuộc tập đoàn Financial Times, The
Asian Banker và EuroMoney trao tặng.
Chất lượng tài sản Có: ACB đang sở hữu danh mục tài sản Có với giá trị
hiện tại cũng như tiềm năng tăng trưởng giá trị cao. Đó là danh mục cho vay chất lượng
(Nợ quá hạn<1%, đảm bảo bằng tài sản là bất động sản chiếm 85%), đầu tư hiệu quả, tài
sản cố định khi định giá lại giá trị tăng ròng xấp xỉ 16 triệu USD.
Sản phẩm: ACB đang cung cấp cho khách hàng hơn 200 sản phẩm cơ bản
(tương đương hơn 600 sản phẩm tiện ích), là ngân hàng có danh mục sản phẩm dịch vụ
được coi là vào loại phong phú nhất trong hệ thống các NHTM Việt Nam.

10


Khách hàng: ACB đang quản lý trên 413.000 tài khoản khách hàng cá
nhân, trên 19.000 tài khoản của khách hàng doanh nghiệp. Có gần 49.000 khách hàng vay
là cá nhân và hơn 2.000 khách hàng vay là doanh nghiệp.
ACB là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam, với
hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp và gần 10.000 nhân viên làm việc, với nhiều
loại hình sản phẩm, dịch vụ đa dạng. Bên cạnh đó, chiến lược duy trì phát triển các chi
nhánh hiện tại và tăng cường mở rộng mạng lưới sẽ tạo cho nhân viên nhiều cơ hội thăng
tiến. Chính sách nhân sự của ACB ưu tiên đề bạt những nhân viên trẻ có năng lực, có
lòng nhiệt huyết, và có thành tích tốt trong công việc lên các cấp quản lý cấp trung và cấp
cao. Đây là điểm hẹn tuyệt vời cho những ai tích lũy đủ kiến thức và kinh nghiệm cần

thiết, có ước mơ vươn lên và nhu cầu tự khẳng định mình biến ước mơ thành hiện thực.
Mục tiêu của ACB là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam, do đó ngân
hàng Á Châu đã không ngừng cải thiện để trở thành nhà tuyển dụng được ưu tiên chọn
lựa của các bạn sinh viên xuất sắc, của những người có kinh nghiệm và trình độ chuyên
môn cao. ACB tự hào là ngân hàng tại Việt Nam duy nhất có Trung tâm đào tạo riêng để
đào tạo cho nhân viên. Nhân viên hàng năm được tham gia các khóa đào tạo trong và
ngoài ngân hàng để nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đối với nhân
viên mới tuyển dụng, ACB tạo điều kiện cho tiếp thu các kiến thức thực tế thông qua việc
học hỏi kinh nghiệm của các anh, chị nhân viên đi trước. Cuối mỗi năm, tất cả nhân viên
đều được đánh giá thành tích công việc. Những mục tiêu phát triển nghề nghiệp mà nhân
viên đã đăng ký từ đầu năm được thảo luận giữa nhân viên với trưởng đơn vị nhằm xác
định những điểm cần cải thiện và những điểm nổi bật. Nhân viên sẽ cải thiện các điểm
yếu thông qua nhiều hình thức đào tạo. Các điểm nổi bật sẽ được Phòng Nhân sự ghi
nhận để làm căn cứ xem xét việc phát triển nghề nghiệp của nhân viên.
Nguồn nhân lực của ACB với 93% là đại học và trên đại học được tuyển chọn, đào
tạo căn bản cả trong lẫn ngoài nước được coi là có chất lượng cao hiện nay. Tính đến
ngày 28/02/2010 tổng số nhân viên của Ngân hàng Á Châu là 6.749 người. (Trên Đại
học: 94 người, Đại học: 5.817 người, Cao đẳng, Trung cấp: 902 người). Mức Lương
Bình Quân: 8.668.000 đồng/tháng (năm 2008).

11


Đội ngũ lãnh đạo có bề dày kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao. Trong hai
ngày 16 và 17/03/2008 tại Khách sạn Melia Hà Nội, trước sự chứng kiến các CEO, các
nhà lãnh đạo, các chuyên gia tài chính ngân hàng và các cơ quan truyền thông của Việt
Nam và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Ông Đỗ Minh Toàn – Phó Tổng Giám
Đốc, kiêm Giám Đốc Khối Khách hàng doanh nghiệp và Ông Bùi Tấn Tài – Phó Tổng
Giám Đốc, kiêm Giám Đốc Khối Khách hàng cá nhân của Ngân hàng Á Châu (ACB) đã
lần lượt nhận giải “Nhà lãnh đạo trẻ triển vọng của Việt Nam năm 2007” (Promising

Young Banker Award for Viet Nam 2007) và giải “Một trong 100 nhà lãnh đạo trẻ triển
vọng nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và Vùng Vịnh năm 2007”(One of 100
Most Promising Young Bankers in the Asia Pacific and Guft region) do The Asian
Banker trao tặng. Hai ông là đại diện duy nhất của Việt Nam cùng với các nhà lãnh đạo
trẻ thuộc các quốc gia khác tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã vinh dự nhận
được giải thưởng này.

b. Điểm yếu:
- Hoạt động tín dụng của ngân hàng tập trung vào địa bàn TP Hồ Chí Minh là chủ
yếu, trong khi nhu cầu về tín dụng của các vùng miền khác là không nhỏ.
- Thị phần huy động và cho vay của ACB chiếm phần khá nhỏ trong hệ thống ngân
hàng thương mại: 4.39% và 2.43%. Qui mô nhỏ không giúp ACB có hiệu quả trên qui
mô (economy of scale).
- Những yếu kém của ngân hàng trong nước nói chung và ACB nói riêng:
Chưa thực sự chú trọng vào các chính sách nhân sự nhằm thu hút và giữ
người giỏi một cách hiệu quả. Bởi vì hầu hết các ngân hàng chỉ nghĩ đến việc dùng tiền
để giữ người và lấy người từ các ngân hàng khác. Đây là một sai lầm cơ bản. Bởi tiền
không phải là yếu tố quyết định đến việc chọn và giữ được người giỏi ở lại làm việc.
Chính sách nhân sự chưa tốt (Ví dụ : Ngân hàng Phương Nam mới gặp
phải tình huống rò rỉ thông tin tín dụng và dẫn đến một bầu không khí hoảng loạn tại các
chi nhánh tại thời điểm xảy ra khủng khoảng). Các ngân hàng cần có một chính sách
nhân sự để làm sao cho người lao động cảm thấy ngân hàng là ngôi nhà thứ hai của họ, là
nơi để nuôi sống gia đình họ. Có vậy họ mới đặt trọn niềm tin và làm việc một cách hăng
12


say nhiệt tình. Qua đó niềm tin từ nhân viên mới truyền được đến khách hàng của ngân
hàng.
Số lượng và chất lượng dịch vụ NH còn thua kém khu vực và thế giới.
Hiện nay Vietcombank là ngân hàng có số lượng sản phẩm dịch vụ lớn nhất. Tiếp theo

đến ACB, với hơn 200 sản phẩm dịch vụ. Tuy nhiên, với số lượng như vậy vẫn chưa đủ
khả năng để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài khi họ vào Việt Nam, cũng như
chưa thể đáp ứng được những nhu cầu đặc thù của khách hàng. Bên cạnh đó, thời gian
phục vụ vẫn thường chiếm khá nhiều thời gian của khách hàng.
Các dịch vụ ngân hàng trong nước còn rất đơn điệu, chất lượng chưa cao,
còn nặng về các dịch vụ truyền thống mà chưa có định hướng theo nhu cầu của khách
hàng. Huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi (chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động)
và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu (chiếm trên 80% tổng thu nhập).
Tiến độ thực hiện công việc chậm chạp, tại các ngân hàng nước ngoài
khách hàng thường chỉ mất 3-5 phút là xong một giao dịch, nhưng tại ngân hàng trong
nước cũng một dịch vụ như vậy phải mất từ 8 - 10 phút, thậm chí 15 phút. Đây cũng là
một nguyên nhân khiến cho khách hàng bắt đầu tìm đến các ngân hàng nước ngoài ngày
càng nhiều hơn.
Xu hướng của khác hàng thay đổi : Theo kết quả điều tra của Chương
trình Phát triển Liên hiệp quốc, có 45% khách hàng (là doanh nghiệp và cá nhân) sẽ
chuyển sang vay vốn của ngân hàng nước ngoài; 50% chọn dịch vụ ngân hàng nước
ngoài thay thế và 50% còn lại chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại
tệ,...
Năng lực tài chính của các ngân hàng trong nước còn rất nhỏ. Mặc dù gần
đây các ngân hàng trong nước đã bán cổ phần hoặc liên doanh liên kết để tăng thêm
nguồn vốn, nhưng mặt bằng chung là vẫn nhỏ so với thực tế.Vì vậy các ngân hàng sẽ gặp
khó khăn khi có những tình huống phát sinh liên quan đến việc chi trả tiền mặt một loạt
cho khách hàng. Không những vậy, với năng lực tài chính hạn chế thì ngân hàng khó mà
tiếp cận được các dự án đòi hỏi số vốn lớn.

4. Định hướng phát triển:
Qua phân tích Ma trận SWOT, ta có thể thấy được chiến lược phát triển của ACB
thể hiện ở một số điểm như sau:
- Mở rộng quy mô hoạt động của các phòng giao dịch, chi nhánh, mở rộng mạng
lưới trong và ngoài nước


13


- Tạo sự tiện ích cao nhất cho khách hàng, giữ khách hàng trung thành, tìm kiếm
khách hàng mới, nâng cao vị thế là đơn vị đầu tàu của ngành ngân hàng Việt Nam, vươn
lên tầm khu vực và thế giới
- Tăng cường công tác thông tin, quảng bá ngân hàng nhằm giữ vững uy tín, tránh
các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đến hoạt động chung.
- Mức độ cạnh tranh hiện nay trên thị trường Tài chính Ngân hàng ở Việt Nam
ngày càng khốc liệt với sự gia nhập không chỉ của các ngân hàng nội địa mà còn có khá
nhiều tên tuổi ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam như HSBC,
Standard Chartered, ANZ, Hong Leong (Malaysia) và Shinhan (Hàn Quốc) với nguồn
vốn mạnh, kinh nghiệm, nguồn nhân lực trình độ cao với những mô hình hoạt động hiện
đại. Do đó ACB cần tự thay đổi mình, bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới dựa trên
những thế mạnh sẵn có (so với các NH khác trong nước : vốn, nguồn nhân lực, uy tín,
khách hàng…..)

II. Những rủi ro mà ngân hàng ACB có thể gặp:
1. Những rủi ro đặc thù của ngành ngân hàng:
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong đợi mà
khi xãy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so
với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một
nghiệp vụ tài chính nhất định.
Qua khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét sau để hiểu rõ hơn về bản chất
của rủi ro:
Một là, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau
trong một phạm vi nhất định.
Hai là, khi đề cập đến rủi ro, người ta thường nhắc đến hai yếu tố mang tính đặc trưng
của rủi ro là biên độ rủi ro: mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra và tần suất xuất hiện rủi ro:

số trường hợp thuận lợi để rủi ro xuất hiện/tổng số trường hợp đồng khả năng.
Ba là, rủi ro là yếu tố khách quan nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn mà chỉ
có thể hạn chế sự xuất hiện và những tác hại của chúng gây ra.

a. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng:

14


 Rủi ro về lãi suất: Lãi suất được định nghĩa là chi phí để vay hoặc giá phải trả để
thuê vốn trong một thời gian nào đó. Trong Ngân hàng có 2 loại lãi suất : lãi suất cho
vay và lãi suất huy động, chúng tạo ra thu nhập và chi phí cho Ngân hàng. Trong nền
kinh tế thị trường, lãi suất là một loại giá cả luôn biến động theo quy luật cung cầu.
Rủi ro lãi suất mà Ngân hàng phải gánh chịu là sự biến động về lãi suất làm thay đổi
tiền lãi của Ngân hàng. Chẳng hạn, lãi suất cho vay giảm trong khi lãi suất tiền gửi
hoặc trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Những thiệt hại do rủi
ro lãi suất gây ra làm cho chi phí nguồn vốn cao hơn thu nhập từ sử dụng vốn làm
cho kinh doanh Ngân hàng bị thua lỗ.
 Rủi ro về tín dụng: Là rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng và là loại rủi ro lớn
nhất và thường xuyên nhất vì các món cho vay của Ngân hàng thương mại chiếm tới
2/3 tổng tài sản có. Hoạt động cho vay sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho các
Ngân hàng thương mại nếu các khoản tín dụng được cấp ra không gặp phải rủi ro,
ngược lại các khoản tín dụng được cấp ra cũng có thể gây nên nhiều phiền toái, tổn
thất cho Ngân hàng nếu các khoản tín dụng đó không được thu hồi cả gốc và lãi.
Trong nhiều trường hợp rủi ro tín dụng quá lớn so với vốn tự có của Ngân hàng thì
Ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thậm chí có thể bị vỡ nợ hoặc phá sản.
 Rủi ro về ngoại hối: Tỷ giá của các đồng ngoại tế biến đổi không ngừng dẫn đến
việc kinh doanh ngoại hổi cũng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro . Những rủi ro này có
thể phát sinh thông qua các hoạt động khi ngân hàng giao dịch các đồng tiền nước
ngoài nhằm phục vụ cho khách hàng hoặc cho chính bản thân mình. Vì vậy bị ảnh

hưởng từ loại rủi ro này không chỉ là phía ngân hàng mà con cả đối với khách hàng.
Hoạt động ngoại hối của ACB chủ yếu nhằm phục vụ thanh toán quốc tế cho khách
hàng doanh nghiệp. Các hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường quốc tế chiếm tỉ
trọng không lớn.
 Rủi ro về thanh khoản: Rủi ro thanh toán phát sinh khi dân chúng mất lòng tin vào
Ngân hàng hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính
trước được đòi hỏi Ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình
thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều phải đối phó với tình huống
15


tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng
vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán một số tài sản có
độ thanh khoản thấp càng ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả người gửi tiền đồng
loạt yêu cầu chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn đến Ngân hàng chỉ đang từ chỗ
phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản.
 Rủi ro từ hoạt động ngoại bảng: của ACB chủ yếu bao gồm các khoản cam kết cho
vay và các hình thức bảo lãnh. Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt
động của một Ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Theo
định nghĩa hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản
( nội bảng). Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng tới trạng thái tương
lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra
những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Ví dụ về hoạt động
ngoại bảng của Ngân hàng như phát hành tín dụng dự phòng bảo lãnh cho công ty
phát hành trái phiếu. Rất nhiều công ty không thể phát hành được trái phiếu nếu
không có bảo lãnh thư của ngân hàng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoai bảng là Ngân hàng thu được lãi
trong khi không phải sử dụng vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích các hoạt
động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, những hoạt động này cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì

Ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty đó
phát hành, điều này dẫn đến bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân
đối tài sản nội bảng, nghĩa là Ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để
trang trải những gì cam kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những trường hợp thua
lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành những nguyên nhân
chính khiến cho Ngân hàng có thể phá sản.
 Rủi ro luật pháp: liên quan đến những sự cố hoặc sai sót trong quá trình hoạt động
kinh doanh làm thiệt hại cho khách hàng và đối tác dẫn đến việc ngân hàng bị khởi
kiện. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro này là do con người hoặc hệ thống công nghệ
thông tin.
16


 Rủi ro khác: liên quan đến các trường hợp bất khả kháng như: thiên tại, lụt lội, cháy,
nổ v.v… Ngoài ra còn có rủi ro vận hành: là những tổn thất phát sinh do cơ chế vận
hành của ngân hàng không thích hợp, không tuân thủ đúng các qui trình, quy định
nội bộ, nhầm lẫn của con người, các hành động ngoại vi như lừa đảo, tin tặc v.v…

b. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng: có 3 nhóm
nguyên nhân dẫn đến rủi ro:
Nhóm nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị ngân hàng:
 Do không quản lý chặt chẽ thanh khoản dẫn đến thiếu khả năng chi trả
 Cho vay và đầu tư quá mức, ví dụ tập trung cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp
hoặc một ngành nào đó; trong đầu tư chỉ chú trọng vào một loại chứng khoán có rủi
ro cao
 Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ
dẫn đến cho vay hoặc đầu tư không hợp lý.
 Do hoạt động kinh doanh trái pháp luật, tham ô...
 Do cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ
 nghiệp vụ.

Nhóm nguyên nhân thuộc về phía khách hàng:






Do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý.
Do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả.
Khách hàng kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng hoá không tiêu thụ được.
Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu khả năng thanh khoản.
Chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo.

Nhóm nguyên nhân khách quan từ môi trường hoạt động kinh doanh:






Do thiên tai, hoả hoạn.
Tình hình an ninh, chính trị trong nước, khu vực không ổn định.
Do khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, lạm phát, mất cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế dẫn đến tỷ giá hối đoái biến động bất thường.
Môi trường pháp lý bất lợi, lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô.

c. Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Rủi ro xảy ra sẽ gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng. Những tổn thất thường gặp là
mất vốn khi cho vay, gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị của
tài sản,...

Rủi ro làm giảm uy tín của ngân hàng, sự tín nhiệm của khách hàng và có thể đánh
mất thương hiệu của ngân hàng. Một ngân hàng kinh doanh bị lỗ liên tục hoặc thường
17


xuyên không đủ khả năng thanh khoản có thể dẫn đến một cuộc rút tiền quy mô lớn và
con đường phá sản là tất yếu.
Rủi ro khiến ngân hàng bị lỗ và bị phá sản, sẽ ảnh hưởng đến hàng ngàn người gửi
tiền, hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp ứng vốn... làm cho nền kinh tế bị suy
thoái, giá cả tăng cao, sức mua giảm sút, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội, và
hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng trong nước và khu vực. Ngoài
ra, sự phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng loạn của hàng loạt ngân hàng khác
và ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế.

2. Rủi ro thanh khoản do tin đồn thất thiệt:
a. Rủi ro thanh khoản:
Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại được xem như khả năng tức thời (the
short-run ability) để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam
kết. Như vậy, rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng
đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với chi
phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả
năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay
mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Quản trị rủi ro thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản (tính
lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn.
Bản chất của hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng có thể đúc kết ở
hai nội dung sau:
Một là, hiếm khi nào tại một thời điểm mà tổng cung thanh khoản bằng với tổng cầu
thanh khoản. Do vậy, ngân hàng phải thường xuyên đối mặt với tình trạng thâm hụt hay
thặng dư thanh khoản.

Hai là, thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau, nghĩa
là một tài sản có tính thanh khoản càng cao thì khả năng sinh lời của tài sản đó càng thấp
và ngược lại; một nguồn vốn có tính thanh khoản càng cao thì thường có chi phí huy
động càng lớn và do đó, làm giảm khả năng sinh lời khi sử dụng để cho vay.
Ngân hàng cần dự trữ thanh khoản để chi trả những chi phí thường xuyên, như lãi tiền
gửi..., và cả những cú sốc thanh khoản không mong đợi, như một cuộc rút tiền gửi hàng
loạt hay yêu cầu vay vốn lớn. Một ví dụ điển hình cho cú sốc thanh khoản là nhiều người
18


đổ xô đến ngân hàng rút tiền ở cùng một thời điểm. Trong hoàn cảnh đó, hầu như không
một ngân hàng nào có thể đáp ứng hết những yêu cầu này và dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ,
ngay cả khi ngân hàng đó chưa mất khả năng thanh toán. Tất nhiên, khả năng dự trữ
thanh khoản kém chưa hẳn sẽ đưa đến sự sụp đổ của một ngân hàng, nhưng chắn chắc,
ngân hàng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để ứng phó với một cú sốc thanh khoản
không lường trước. Và điều đó sẽ làm giảm đáng kể lợi nhuận của ngân hàng và suy đến
cùng khả năng sụp đổ là hoàn toàn có thể.
Thanh khoản mang ý nghĩa thời điểm rất lớn, theo nghĩa, một số yêu cầu thanh khoản
là tức thời hoặc gần như tức thời. Chẳng hạn, một khoản tiền gửi lớn đến hạn và khách
hàng không có ý định tiếp tục duy trì số vốn này tại ngân hàng; khi đó, ngân hàng buộc
phải tìm kiếm các nguồn vốn có thể sử dụng ngay như vay từ TCTD khác. Ngoài ra, yếu
tố thời vụ, chu kỳ cũng rất đáng quan trọng trong việc dự kiến cầu thanh khoản dài hạn.
Ví dụ, cầu về thanh khoản thường rất lớn vào mùa hè, cuối hè gắn với ngày tựu trường,
ngày nghỉ và các kế hoạch du lịch của khách hàng. Việc kế hoạch được những yêu cầu
thanh khoản này, sẽ giúp ngân hàng hoạch định được nhiều nguồn đáp ứng cầu thanh
khoản dài hạn hơn là trong trường hợp đối với cầu thanh khoản ngắn hạn.
Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản:
Nguyên nhân bên ngoài:
 Khủng hoảng nền kinh tế
 Khủng hoảng khu vực tài chính

 Các tin đồn thất thiệt …
Nguyên nhân từ phía tổ chức:







Không dự tính trước nhu cầu tài trợ khoản cho vay
Không đáp ứng nhu cầu rút tiền ngay
Thiếu da dạng hóa các loại hình tài trợ, các loại tiền
Mất cân đối về thời gian đáo hạn
Rủi ro thanh khoản cục bộ trong từng loại tiền tệ
Giảm sút uy tín đối với công chúng

b. Rủi ro thanh khoản của ngân hàng ACB do tin đồn thất thiệt:
Đầu năm 2003, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) vẫn đang kinh doanh
hiệu quả. Lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2003 của ngân hàng này tăng 20% so với cùng kì
năm 2002 (đạt xấp xỉ 170 tỷ đồng). ACB rất được khách hàng trong và ngoài nước tín
nhiệm khi gửi tiền vào. Chính vì vậy tin đồn “Tổng giám đốc của ACB Phạm Văn Thiệt
19


bỏ trốn” đã gây nên một cú “sốc” trong dư luận người dân TP.HCM, đặc biệt là những
người có tiền gửi ở ACB.
Sau đây là một số diễn biến chính của sự việc:
 Đầu tháng 10/2003, bắt đầu có những lời xì xào, bàn tán đầu tiên rằng tổng giám đốc
(TGĐ) ACB đã bỏ trốn.
 Khoảng một tuần sau, vào ngày chủ nhật(12/10) và thứ 2 (13/10), tin đồn lan rộng

trong dư luận TP.HCM.
 Ngày 14/10/2003, tình trạng căng thẳng lên đến “đỉnh điểm” khi hàng ngàn người
dân đổ xô đi rút tiển ở hội sở chính của ACB trên đường Nguyễn Thị Minh Khai và
chi nhánh tại số 30 Mạc Đĩnh Chi (Quận 1- TP.HCM). Tại hai địa điểm này dân
chúng tập trung đông đến nỗi tràn xuống cả lòng đường gây ùn tắc giao thông nhiều
giờ. Chính điều này đã đẩy tâm lí người dân đễn chỗ hoang mang, lo sợ thực sự. Rất
may, xuất hiện kịp thời trước đông đảo người dân của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam Lê Đức Thuý bên cạnh ông TGĐ Phạm Văn Thiệt cùng đại diện
chính quyền Thành phố đã là lời bác bỏ tin đồn hùng hồn nhất.
 Ngày hôm sau, 15/10, mặc dù người dân vẫn kéo đến rút tiền rất nhiều, nhưng cùng
với các cá nhân và các cơ quan có trách nhiệm, các cơ quan báo chí đồng loạt có
những tin, bài quan trong bác bỏ thông tin sai sự thật trên. Vì thế, đến cuối ngày, tình
hình đã dịu xuống. Khách hàng đã bắt đầu đem tiền gửi trở lại ACB.
 Ngày 16/10, sự cố gần như đã được dẹp bỏ.
 Sau một tuần, mọi chuyện đã trở lại bình thường. ACB khôi phục lại mọi hoạt động
của mình. Thậm chí lúc này, lượng khách hàng đến gửi tiền còn đông hơn trước lúc
xảy ra sự cố.
Có thể thấy nguyên nhân đặt ACB trước rủi ro thanh khoản trong trường hợp này
xuất phát từ nguyên nhân bên ngoài là “tin đồn thất thiệt” (TGĐ ACB bỏ trốn) dẫn
đến việc rút tiền hàng loạt. Đây là nguyên nhân được đánh giá khiến “các ngân hàng
khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết và có hiệu quả thanh khoản của ngân
hàng”.
Sự cố này chỉ thực sự diễn ra trong một thời gian rất ngắn (khoảng 3 ngày) nhưng có
tính chất vô cùng nghiêm trọng. Cũng là lần đầu tiên ngành Ngân hàng và nền kinh
tế Việt Nam phải đối phó với một tình huống đặc biệt như vậy. Nếu không nhờ
những biện pháp tích cực, đồng bộ và hợp lý thì nguy cơ xảy ra một hiệu ứng
domino trong toàn Ngành Ngân hàng (người dân sẽ rút tiền ở tất cả các Ngân hàng)
là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Lúc đó thì hậu quả thật khó mà tưởng tượng nổi.
20



III. Phương án trên lý thuyết để quản trị rủi ro:
1. Rủi ro về lãi suất: Một vài công cụ có thể sử dụng để quản lý rủi ro lãi suất
bao gồm:
-

Thỏa thuận lãi suất kỳ hạn (FRA): là một hợp đồng giao dịch trên thị trường
liên ngân hàng để mua hoặc bán các khoản hoàn trả lãi suất theo một mức vốn
góc danh nghĩa, được chuyển giao bằng tiền mặt. Người mua FRA nhận được
quyền khóa mức lãi suất cố định trong một thời hạn mong muốn bắt đầu từ một
thời điểm trong tương lai.

-

Hợp đồng tương lai về lãi suất: tính thanh khoản cao của thị trường tương lai lãi
suất và những rủi ro lãi suất khá chuẩn hóa mà các công ty phải đối mặt đã giúp
cho công cụ này trở nên thông dụng và sử dụng khá rộng rãi điển hình là : hợp
đồng EURO giao dịch trên Chicago Mercantile Exchange (CME) và hợp đồng
tương lai lãi suất theo Trái phiếu kho bạc Mỹ trên Chicago Board of Trade
(CBOT).

-

Hoán đổi lãi suất: thỏa thuận các hợp đồng nhằm trao đổi các dòng tiền thường
là các khoản thanh toán lãi suất theo hợp đồng nợ.

2. Rủi ro về tín dụng: Vận dụng một cách có hiệu quả các mô hình lượng hoá
rủi ro tín dụng như: mô hình chất lượng, mô hình Moody’s và Standard & Poor’s, mô
hình điểm số Z, và mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng. Ngoài ra còn có thể áp dụng các
biện pháp sau:

-Thiết lập quỹ dự phòng cho những khoản nợ khó đòi, nợ quá hạn.
- Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.
- Phân chia giới hạn rủi ro: không tập trung vốn cho một số khách hàng mà cho
nhiều người vay, nhiều ngân hàng cùng tài trợ cho một khách hàng, hoặc ngân hàng phân
tán rủi ro theo từng ngành nghề hoạt động kinh doanh theo xu thế phát triển và mức độ
tăng trưởng của từng ngành.
- Phân tích tình hình khách hàng theo mô hình chất lượng trước khi quyết định tín
dụng.
- Dự đoán yếu tố môi trường kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh như lạm phát, chính trị, tỷ giá hối đoái …
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng.
21


- Tham gia trung tâm thông tin tín dụng.

3. Rủi ro ngoại hối:
- Giao dịch kỳ hạn: Mục đích của các hợp đồng kỳ hạn là nhằm loại trừ những
khả năng không chắc chắn về tỷ giá giao ngay tại thời điểm tín dụng đến hạn.
Như vậy, thay vì chờ đến tận thời điểm cuối năm, mới chuyển lượng ngoại tệ thu được
thành nội tệ với một mức tỷ giá giao ngay chưa biết trước, thì ngân hàng có thể tại thời
điểm ngày hôm nay bán có kỳ hạn 1 năm lượng ngoại tệ dự tính sẽ thu được bao gồm cả
gốc và lãi tại mức tỷ giá kỳ hạn đã biết để nhận nội tệ. Việc giao nhận giữa ngoại tệ và
nội tệ được thực hiện tại thời điểm cuối năm. Như vậy, bằng cách bán kỳ hạn số ngoại tệ
dự tính thu được với một tỷ giá đã được xác định ngay ngày hôm nay, ngân hàng đã tránh
được rủi ro do tỷ giá biến động tại thời điểm cuối năm và do đó, đảm bảo được mức lợi
tức dự tính trong hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ.
- Hợp đồng tương lai: Thay vì sử dụng nghiệp vụ kỳ hạn, ngân hàng cũng có thể
sử dụng các hợp đồng tương lai được giao dịch trên cơ sở có tổ chức. Cần phải xác định
số lượng hợp đồng mà ngân hàng phải bán là số lượng mà sao cho lợi nhuận thu được từ

các hợp đồng tương lai này để bù đắp mọi thua lỗ từ khoản tín dụng bằng ngoại tệ khi giá
trị đồng ngoại tệ giảm so với đồng nội tệ.
- Giao dịch quyền chọn: Giống như hoạt động của nhà nhập khẩu và nhà xuất
khẩu, nhà đi vay và cho vay bằng ngoại tệ bảo hiểm rủi ro ngoại hối thông qua hợp đồng
quyền chọn tiền tệ, một khả năng tương tự là việc các ngân hàng cũng có thể sử dụng
được các hợp đồng quyền chọn nhằm bảo hiểm rủi ro ngoại hối. Tuy nhiên, chúng ta phải
trả một khoản chi phí nhất định khi tham gia giao dịch này và khoản chi phí này sẽ chênh
lệch nhau phù thuộc vào các yếu tố: sự tồn tại rủi ro cơ bản, tính thanh khoản của thị
trường, kỳ hạn của hợp đồng và bản chất của quyền chọn.
- Giao dịch hoán đổi tiền tệ: Hoán đổi tiền tệ được các ngân hàng sử dụng rất
phổ biến. Trong trường hợp các tiền tệ trên bảng cân đối tài sản không cân xứng với
nhau, chúng ta dễ thấy rằng trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì phần gốc và phần lãi đều
được bao gồm trong hợp đồng. Đối với giao dịch hoán đổi lãi suất thì chỉ phần thanh toán
lãi suất là bao gồm trong hợp đồng. Lý do là vì trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì cả
phần gốc và phần lãi đều bộc lộ rủi ro ngoại hối.

4. Rủi ro về thanh khoản:
22


-

Duy trì dự trữ đáp ứng nhu cầu thanh khoản:
+ Đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc
+ Đáp ứng nhu câu dự trữ theo cân đối của TCTD

-

Phân tích luồng tiền dự kiến:
+ Khối lượng rót vốn dự kiến của các khoản cho vay

+ Mức độ chấp nhận của các đơn xin vay đang xem xét
+ Mức độ quay vòng bình thường của các khoản tiền gửi có kỳ hạn
+ Thời gian đáo hạn thực của tiền gửi không kỳ hạn

-

Quản lý khe hỡ:
+ Xác định cung thanh khoản
+ Xác định cầu thanh khoản
+ Các kỹ năng xử lý khe hở thanh khoản

-

Thiết lập các hạn mức an toàn thanh khoản
+ Thang đáo hạn
+ Qui định hạn mức tỷ lệ tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền huy động ngắn hạn,

cho vay tiêu dùng….
-

Đa dạng các hình thức cho vay, đầu tư và duy trì các tài sản có tính lỏng khác
nhau

-

Xây dựng kế hoạch dự phòng để đối phó với trường hợp khủng hoảng thanh
khoản
+ Có phương án xử lý khủng hoảng
+ Tìm kiếm sự hỗ trợ của các tổ chức khác


5. Rủi ro về luật pháp:
Để phòng chống rủi ro này, Ngân hàng chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ chính
theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Đến tháng 9/2006 các quy trình nghiệp vụ chính đã được
chuẩn hóa bao gồm: nghiệp vụ tiền gủi, chuyển tiền, tín dụng, bao thanh toán, nghiệp vụ
quyền chọn, kinh doanh vàng và ngoại hối. Bên cạnh đó các quy trình trong quản lý bao
gồm: tuyển dụng, đào tạo, đánh giá nội bộ, thiết kế và phát triển sản phẩm, quản lý tài sản
khách hàng, v.v. đã được tiêu chuẩn hóa. Hệ thống công nghệ thông tin của ngân hàng
thường được cải tiến để nâng cao tính ổn định, an toàn và bảo mật. Ban pháp chế thuộc

23


Khối Giám sát điều hành của Ngân hàng có nhiệm vụ chính trong việc đảm bảo các
quyền lợi hợp lý và hợp pháp trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

IV. Phương án tối ưu: trong hiện tại và tương lai trên thực tế
1. Rủi ro lãi suất:
ACB quản lý rủi ro lãi suất theo nguyên tắc cẩn trọng. Hội đồng ALCO sử dụng
nhiều công cụ để giám sát và quản lý rủi ro lãi suất bao gồm: Biểu đồ lệch kỳ hạn tái định
giá (repricing gap). Thời lượng của tài sản nợ và tài sản có (duration). Hệ số nhạy cảm
(factor sensitivity). Báo cáo về nội dung nói trên do Phòng Quản lý rủi ro của ACB lập
định kỳ hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng cho từng loại tiền và vàng. Dựa trên báo cáo
và những nhận định về diễn biến, xu hướng của lãi suất trên thị trường trong các cuộc
họp hàng tháng của Hội đồng ALCO. Ban điều hành ngân quỹ hàng ngày sẽ quyết định
duy trì các mức chênh lệch thích hợp để định hướng cho các hoạt động của Ngân hàng.
Trong quản trị tài sản nợ - tài sản có, ACB phân loại các kỳ hạn theo đúng bản chất của
nó. Cụ thể: đối với các khoản tiền gửi rút gốc linh hoạt, khi phân tích kỳ hạn không được
dựa vào kỳ hạn khách hàng cam kết gửi mà phải đưa vào khoản tiền gửi không kỳ hạn.
Nghiêm túc thực hiện quy định về việc tính số tiền dự trữ bắt buộc phải duy trì, các
khoản tiền gửi có kỳ hạn ghi trên hợp đồng phải phản ánh đúng kỳ hạn mà khách hàng

thực gửi. Để đảm bảo an toàn hoạt động trong ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống nói
chung, các ngân hàng trong nước cần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong việc chia sẻ về kinh
nghiệm cũng như mô hình quản lý tài sản nợ - có. Nếu một ngân hàng không thực hiện
tốt công tác quản trị tài sản nợ - tài sản có sẽ dễ dàng gây ra cuộc đua lãi suất, hậu quả
của nó có thể làm sói mòn niềm tin của người dân đến toàn bộ hệ thống ngân hàng, ảnh
hưởng đến việc huy động vốn của các ngân hàng khác trong hệ thống.

2. Rủi ro tín dụng:
Từ nhiều năm nay ACB đa thực hiện chính sách tín dụng thận trọng. Để thực hiện
xét duyệt và quyết định cấp các khoản tín dụng và bảo lãnh, ACB tổ chức thành ba cấp:
Ban tín dụng tại các chi nhánh, Ban tín dụng Hội sở, Ban tín dụng phía Bắc và cấp cao
nhất là Hội đồng tín dụng. Hội đồng tín dụng ACB bao gồm 11 thành viên trong đó có
hai thành viên Hội đồng quản trị và chín thành viên của Ban điều hành. Bên cạnh việc
quyết định cấp tín dụng hoặc bảo lãnh, Hội đồng tín dụng còn quyết định các vấn đề về
chính sách tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng, hạn mức phán quyết của các ban tín dụng.
24


Nguyên tắc cấp tín dụng là sự nhất trí 100% của các thành viên xét duyệt. Các khách
hàng vay cá nhân và doanh nghiệp đều được xếp hạng trong quá trình thẩm định. Sau khi
thẩm định, phân tích và định lượng rủi ro, các hạn mức tín dụng hoặc các khoản vay độc
lập sẽ được cấp cho từng khách hàng. Ngoài ra, ACB luôn nghiêm túc thực hiện trích lập
dự phòng rủi ro tín dụng theo đúng quy định của NHNN với mức trích lập đủ các khoản
nợ quá hạn theo quyết định của HĐTD. Việc thành lập Ban Chính sách và Quản lý tín
dụng là nhằm chuyên nghiệp hóa công tác quản lý rủi ro tín dụng.
Hội đồng tín dụng phải xem xét chính sách và các biện pháp cụ thể để triển khai
và thiết lập một hệ thống Quản lý rủi ro tín dụng với hiểu biết về phạm vi, loại hình và
bản chất rủi ro, thủ thuật nhận biết, đánh giá, kiểm tra và kiếm soát liên quan đến rủi ro
tín dụng…
Việc triển khai và phổ biến mục tiêu chiến lược cũng cần nhất quán với các mục tiêu

chiến lược trong tổ chức. Tính phù hợp của chính sách quản lý rủi ro tín dụng có được
đảm bảo bởi các nội dung như vai trò, trách nhiệm của Hội đồng quản trị và Hội đồng tín
dụng; chính sách về cơ cấu tổ chức; nhận biết, đánh giá, kiểm tra, kiểm soát và giảm
thiểu rủi ro tín dụng…
Đối với việc rà soát quá trình triển khai chính sách, Hội đồng tín dụng cần theo đúng tiến
trình bằng cách xem xét lại tính hiệu quả dựa trên các báo cáo và phát hiện về tình hình
quản lý rủi ro tín dụng thường xuyên hay trên cơ sở nhu cầu cần thiết.
Hoạt động đánh giá và cải tiến là nội dung mà Hội đồng tín dụng quan tâm. Hội đồng tín
dụng hoặc tổ chức tương đương cần kiểm tra đúng mức các nguyên nhân qua phân tích
chính xác tình hình quản lý rủi ro và đánh giá hiệu quả của quản lý rủi ro; rà soát quá
trình phân tích đánh giá và cung cấp một hệ thống thực hiện cải tiến trong khu vực có vấn
đề cùng nhược điểm về quản lý rủi ro tín dụng; cung cấp hệ thống tiếp nối và rà soát để
quá trình cải tiến theo đúng thời hạn.

3. Rủi ro ngoại hối:
Quản lý rủi ro ngoại hối tập trung vào quản lý trạng thái ngoại hối ròng và các
trạng thái kinh doanh vàng (không được dương hoặc âm quá 30% vốn tự có của Ngân
hàng), tuân thủ đúng các quy định hiện hành của NHNN. Hội đồng ALCO quyết định và
định kỳ xét duyệt lại hạn mức về trạng thái mở và hạn mức ngăn lỗ cho các nhân viên
giao dịch ngoại hối. Hội đồng thẩm duyệt xem xét, quyết định và định kỳ xét duyệt lại
25


×