Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực thi chính sách công ở Việt Nam, Lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.28 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỤC LỤC.................................................................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG.
3
1. Khái niệm chính sách công..................................................................................................................3
2. Thực thi chính sách và ý nghĩa thực thi chính sách.............................................................................4
4. Yếu tố ảnh hưởng tới thực thi chính sách............................................................................................7
5. Mô hình tổ chức thực thi chính sách....................................................................................................9
6. Phương pháp tổ chức thực thi chính sách..........................................................................................10
II. THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM.
12
1. Chính sách công và việc tổ chức thực thi..........................................................................................12
2. Những hạn chế trong thực thi chính sách công hiện nay...................................................................14
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách công...........................................14
KẾT LUẬN.............................................................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................17

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử
dụng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ở mỗi giai đoạn phát triển,
yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách công luôn được đặt ra.
Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy trình chính sách; trong đó có tổ


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
chức thực thi chính sách - bước đặc biệt quan trọng của quy trình chính sách.
Thực thi chính sách là một khâu quan trọng quyết định sự thành bại của một


chính sách công.
Việc thực thi chính sách công không chỉ góp phần thực hiện thắng lợi
các mục tiêu của chính sách mà còn khẳng định tính đúng đắn của chính sách,
vai trò của chủ thể trong việc thực thi chính sách, góp phần nâng cao niềm tin
của đối tượng quản lý đối với chủ thể chính sách cũng như niềm tin của nhân
dân đối với các cấp ủy Đảng và chính quyền.
Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực thi chính sách;
những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc phối hợp triển khai
thực hiện các chính sách của nhà nước và đạt được những kết quả tích cực.
Nền kinh tế có bước phát triển và tăng trưởng khá; đất nước ta từng bước
vượt ra khỏi tình trạng các nước kém phát triển; chủ động tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. An ninh quốc phòng được giữ vững; chính trị
ổn định. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, góp phần xây
dựng một thế giới, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc tổ chức thực thi chính sách
trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới. Vì vậy việc nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa các
tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia vào việc tổ chức thực thi chính sách
vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nhằm khắc phục tình
trạng chồng chéo, trùng lắp, đùn đẩy, giữa các tổ chức trong hệ thống chính
trị, góp phần nâng cao hiệu quả chính sách công.
Qua kiến thức học được, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Thực thi chính
sách công ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn" làm tiểu luận môn học Chính
sách công.

NỘI DUNG

Vũ Mạnh Hùng


2

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC THI CHÍNH
SÁCH CÔNG.
1. Khái niệm chính sách công.
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính
sách công” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn
nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với
việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó
(William Jenkin, 1978).
Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm
(Thomas R. Dye, 1984).
Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng
một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy
Peter, 1990).
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan
lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà
nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and
Eloise F. Malone, 1995).
Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của
chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh

hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999).
Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính
phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách
công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì
(Clarke E. Cochran, et al, 1999).

Vũ Mạnh Hùng

3

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson, 2003).
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng
như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những
chương trình (Kraft and Furlong, 2004).
Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà
nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính
sách nói chung của mỗi nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt
động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng
hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế.
Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng

để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền
kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý
nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách
khác chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch
định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách
nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản
công, tài nguyên đất nước.
2. Thực thi chính sách và ý nghĩa thực thi chính sách.
Tổ chức thực thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí của
chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt
mục tiêu định hướng
Tổ chức thực thi chính sách có vị trí rất quan trọng, nó là một khâu hợp
thành chu trình chính sách, nếu khuyết thiếu công đoạn này thì chu trình
chính sách không thể tồn tại vì nó là trung tâm kết nối các bước trong chu
trình chính sách thành một hệ thống, nhất là với thực thi chính sách, bước này
là bước quan trọng không thể thiếu vì nó là khâu hiện thực hoá chính sách vào
Vũ Mạnh Hùng

4

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
đời sống xã hội. Chúng ta đều nhận thấy hoạch định một chính sách tốt là hết
sức khó khăn và trải qua rất nhiều công đoạn nhưng cho dù chính sách có tốt
đến mấy nhưng không được tổ chức thực thi hay thực thi kém thì nó cũng
không mang lại hiệu quả, không đạt được mục tiêu mà uy tín của Nhà nước
còn bị ảnh hưởng. Như vậy qua sự phân tích trên thì chúng ta có thể thấy

được vai trò quan trọng của thực thi chính sách công.
Tổ chức thực thi chính sách để từng bước thực hiện các mục tiêu chính
sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách có liên quan đến nhiều vấn
đề, nhiều lĩnh vực nên không thể cùng một lúc giải quyết hết tất cả mà phải lần
lượt, và việc thực thi chính sách công giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ
biện chứng với mục tiêu chung do đó nó có thể giải quyết các vấn đề đặt ra.
Trong thực tế mục tiêu chính sách chỉ có thể đạt được thông qua thực
thi chính sách, đồng thời các mục tiêu của chính sách có quan hệ và ảnh
hưởng đến mục tiêu chung.
Thực thi chính sách để khẳng định tính đúng đắn của chính sách có
nghĩa là chính sách này được thực thi triển khai rộng rãi trong đời sống xã hội
và được xã hội chấp nhận thì điều này cũng phản ánh tính đúng đắn của chính
sách này và ngược lại
Qua thực thi giúp chính sách ngày càng hoàn chỉnh vì chúng ta đều biết
chính sách do một tập thể hoạch định nên, nhưng cũng không tránh khỏi ý
kiến chủ quan làm ảnh hưởng tới hiệu quả của chính sách, để khắc phục điều
này thì khi chính sách được thực thi thì qua đó rút kinh nghiệm và chỉnh sửa
để hoàn thiện chính sách.
3. Các bước thực thi chính sách.
Trong thực thi chính sách gồm 7 bước cơ bản sau:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là
bước cần thiết và quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức
tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó phải có kế hoạch.
Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc
sống, các cơ quan triển khai từ Trung ương đến địa phương đều phải lập kế
hoạch bao gồm các bước sau:

Vũ Mạnh Hùng

5


Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia,
đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi
+ Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị
+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện
+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách
+ Dự kiến về quy chế, nội dung về tổ chức và điều hành thực thi chính sách
Bước 2: phổ biến, tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo
sau khi chính sách đã được thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân
dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách
được triển khai thuận lợi và có hiệu quả
Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần được đầu tư về
trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật.... Vì đây là
đòi hỏi của thực tế khách quan.
Việc tuyên truyền này cần phải thực hiện thường xuyên liên tục, ngay
cả khi chính sách đang được thực thi, và với mọi đối tượng và trong khi tuyên
truyền phải sử dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp trao đổi...
Bước 3: phân công phối hợp thực hiện chính sách. Một chính sách
thường được thực thi trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do
đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt
khác các hoạt động thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp chúng đan
xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp,
ngành để triển khai chính sách.
Nếu hoạt động này diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một
cách chủ động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định.
Bước 4: duy trình chính sách, đây là bước làm cho chính sách tồn tại

được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế.
Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của
nhiều yếu tố như nhà nước và người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều
kiện và môi trường để chính sách được thực thi tốt.
Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích
cực vào thực thi chính sách. Nếu các hoạt động này được tiến hành đồng bộ
thì việc duy trì chính sách là việc làm không khó
Vũ Mạnh Hùng

6

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
Bước 5: điều chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra thường
xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thông thường cơ quan nào lập chính sách
thì có quyền điều chỉnh).
Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của
chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động
này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.
Bước 6: theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Bất cứ
triển khai nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách này
được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra này và nếu tiến hành
thường xuyên thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính
sách từ đó có những kết luận chính xác về chính sách.
Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra
những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ xung, hoàn thiện nhằm nâng cao

hiệu quả của chính sách.
Bước 7: đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm, khâu này được tiến hành
liên tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh
giá từng phần hay toàn bộ chính sách ở việc đánh giá này phải tiến hành đối
với cả các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách.
Trong các bước trên thì bước tổ chức thực thi là quan trọng nhất vì đây
là bước đầu tiên làm cơ sở cho các bước tiếp theo, ở bước này đã dự kiến cả
việc triển khai thực hiện kế hoạch phân công thực hiện, kiểm tra... Hơn nữa tổ
chức thực thi là quá trình phức tạp do đó lập kế hoạch là việc làm cần thiết.
4. Yếu tố ảnh hưởng tới thực thi chính sách.
Trong quá trình thực thi chính sách sẽ có liên quan đến nhiều tổ chức,
cá nhân vì thế kết quả tổ chức thực thi chính sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố trong đó có yếu tố chủ quan và khách quan. Cụ thể:
- Yếu tố khách quan: là các yếu tố xuất hiện và tác động đến tổ chức
thực thi chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản lý, các
yếu tố này vận động theo quy luật khách quan nên ít tạo sự biến đổi do đó
cũng khó gây sự chú ý của các nhà quản lý nhưng lại tác động lớn đến quá
trình thực thi chính sách, đó là các yếu tố:
Vũ Mạnh Hùng

7

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
Tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố gắn liền với mỗi chính sách
nó có tác động trực tiếp đến hoạch định và thực thi chính sách có nghĩa là nếu
vấn đề chính sách đơn giản liên quan đến ít đối tượng thì thực thi sẽ dễ dàng
và đơn giản hơn. Như vậy, tính chất của vấn đề có ảnh hưởng khách quan đến

việc tổ chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn.
Môi trường thực thi chính sách là yếu tố liên quan đến các hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng...điều này nói lên rằng
một môi trường ổn định ít biến đổi về chính trị sẽ đưa tới sự ổn định về hệ
thống chính sách và thực thi thuận lợi. Nếu các bộ phận của môi trường ổn
định thì nó sẽ tạo cho các hoạt động thực thi dễ dàng.
Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách là sự thể hiện thống
nhất hay không về lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục
tiêu chính sách. Nếu mối quan hệ này có mâu thuẫn thì sẽ ảnh hưởng đến
công tác tổ chức.
Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách được hiểu là thực lực và
tiềm năng của các nhóm trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng
khác. Tiềm lực này thể hiện trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội....
Đặc tính của đối tượng chính sách là những tính chất đặc trưng mà các
đối tượng có được từ bản tính cố hữu hoặc do môi trường sống tạo nên, các
đặc tính như tính tự giác, kỷ luật, sáng tạo.... gắn liền với mỗi đối tượng thực
thi chính sách do đó cần biết cách khơi dậy hay kiềm chế nó để có kết quả tốt
nhất cho quá trình thực thi chính sách.
- Yếu tố chủ quan: là các yếu tố thuộc về cơ quan công quyền, do cán
bộ công chức chủ động chi phối đến quá trình thực thi chính sách nên nó có
ảnh hưởng lớn đến việc thực thi.
Thực thi đúng đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi chính
sách, các bước này được coi là nguyên lý khoa học được đúc kết từ thực tiễn
cuộc sống, việc tuân thủ quy trình là một nguyên tắc quản lý.
Năng lực thực thi chính sách của cán bộ công chức trong bộ máy quản
lý nhà nước là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực
thi chính sách công. Năng lực thực thi của cán bộ, công chức là các tiêu chí về
đạo đức, công cụ, năng lực nếu thiếu các điều kiện này thì việc thực thi sẽ
Vũ Mạnh Hùng


8

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
không hiệu quả. Còn nếu các cán bộ, công chức có năng lực mà kết hợp với
các yếu tố khác thuận lợi sẽ mang lại một kết quả thực sự.
* Điều kiện vật chất cần cho quá trình thực thi chính sách là yếu tố
ngày càng có vị trí quan trọng để cùng yếu tố nhân sự và các yếu tố khác thực
thi thắng lợi chính sách công. Các điều kiện vật chất này là các trang thiết bị
nhà nước đầu tư cho quá trình quản lý và khi thực thi chính sách thì họ dùng
để tuyên truyền, phổ biến các chính sách.
* Sự đồng tình ủng hộ của nhân dân là nhân tố có vai trò đặc biệt quan
trọng quyết định sự thành bại của 1 chính sách. Các chính sách là những vấn
đề lớn lao, do đó cần có sự đóng góp sức người, sức của trong suốt quá trình
thực thi.
* Vậy trong 2 yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách thì
yếu tố chủ quan là quan trọng hơn cả vì nó quyết định sự thành bại của chính
sách, vì trong yếu tố này nó có các nhân tố quan trọng như nhân sự, và sự ủng
hộ của người dân là 2 nhân tố cần cho việc thực thi chính sách công
5. Mô hình tổ chức thực thi chính sách.
Có 3 mô hình tổ chức thực thi chính sách đó là:
Mô hình động: mô hình này tồn tại trên cơ sở xét đoán trạng thái tồn tại
của các yếu tố cấu thành hệ thống sau những quá trình vận động theo quy luật
được gọi là mô hình động. Theo cách tiếp cận này các nhà nghiên cứu chỉ cần
dựa vào kết quả vận động theo quy luật của các quá trình kinh tế xã hội một cách
khách quan là có thể tạo dựng và thực thi một mô hình chính sách thích hợp.
Mô hình động mang nặng tính nguyên lý vì thế nó sẽ vận hành có hiệu
quả trong điều kiện môi trường lý tưởng, nhưng trên thực tế thì không tồn tại

một môi trường lý tưởng như lý thuyết đã nêu do đó mô hình này khó thực
hiện vì nó đòi hỏi các nhà tổ chức thực thi chính sách phải có trình độ, chuyên
môn nhất định, am hiểu nhiều lĩnh vực hoạt động để có thể dự đoán được mô
hình chuẩn.
Mô hình tĩnh: là mô hình được tạo dựng và duy trì theo thực tiễn tồn tại
của các yếu tố hợp thành của các quá trình thực thi chính sách. Theo cách tiếp
cận này mô hình tĩnh hoàn toàn dựa trên cơ sở thực tiễn.

Vũ Mạnh Hùng

9

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
Lựa chọn mô hình dựa trên cơ sở tự giác của mình thực thi chính sách
vì nếu mọi tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện chính sách đều có trách nhiệm
hoàn thành nhiệm vụ được giao thì sẽ tiết kiệm đáng kể về chi phí, thời gian
thực hiện chính sách. Cách lựa chọn này thường được thực hiện ở những nước
có nền kinh tế phát triển, chính trị ổn định, trình độ dân chí cao.
Lựa chọn mô hình dựa trên cơ sở niềm tin của người thực thi vào chính
sách nhà nước trên thực tế thì có nhiều chính sách công được thực hiện theo
mô hình này vì một khi dân chúng có niềm tin với nhà nước thì họ sẽ ủng hộ
mọi cơ chế chính sách do nhà nước đưa ra và chấp hành.
Lựa chọn mô hình dựa trên cơ sở quyền lực công, đây là mô hình được
các nhà nước lựa chọn khi hai mô hình trên ít mang lại hiệu lực và hiệu quả.
Mô hình kết hợp: từ những nội dung trên của các mô hình có thể thấy
được những ưu, nhược điểm của mỗi một mô hình nên để có được một mô
hình tối ưu chúng ta cần kết hợp nó lại trong quá trình thực thi để bổ trợ cho

nhau để phát huy mặt mạnh của mô hình và hạn chế yếu điểm của nó.
Để có một mô hình hỗn hợp, người ta phụ thuộc vào nhiều điều kiện cụ thẻ
căn cứ vào tình hình thực tế thì các chủ thể quản lý nghiên cứu lựa chọn mô hình
phù hợp ở Việt Nam thì có thể sử dụng cả 3 mô hình trên nhưng người ta thiên về
sử dụng mô hình kết hợp để có thể thực hiện tốt nhất chính sách đã đề ra.
6. Phương pháp tổ chức thực thi chính sách.
Trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp phân tích như sau:
Phương pháp phân tích hệ thống: là một phương pháp mà sử dụng tập
hợp các phân tử có liên quan tác động qua lại với nhau một cách có quy luật,
tạo thành một thể thống nhất để có thể thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ
nhất định.
Ở phương pháp phân tích hệ thống này thì đầu vào bao gồm nhiều yếu
tố như vật chất, thông tin lao động, tài chính… các yếu tố này được xử lý và
tạo ra đầu ra là kết quả của chính sách.
Khi sử dụng phương pháp phân tích hệ thống cần chú ý tới việc các
phần tử trong hệ thống liên kết và tương tác với nhau theo hệ nhân quả, khi
thêm hoặc bớt một phần tử hay một số phần tử thì đều tạo ra sự thay đổi của

Vũ Mạnh Hùng

10

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
hệ thống. Trong hệ thống các phần tử có thể khác nhau khi hợp thành một thể
thống nhất thì nó cũng có những tính năng vượt trội.
Phương pháp phân tích quyết định và phương pháp sử dụng cũng quyết
định mẫu có nghĩa là mô hình hoá quá trình ra quyết định thành một sơ đồ

tổng hợp của các khả năng đưa ra kết quả dự đoán.
Ở loại phương pháp này luôn có hai chiều lựa chọn đó là lựa chọn
không mạo hiểm luôn đưa ra kết quả trung tính và lựa chọn mạo hiểm luôn
đưa ra kết quả tốt hoặc xấu. Do đó người phân tích chính sách phải biết dự
đoán kết quả đầu ra để lựa chọn quản lý hợp lý.
Phương pháp phân tích chi phí lợi ích. Đây là một phương pháp mà
được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng để phân tích chính sách và nó trở
thành một trong những yếu tố nền tảng cho việc lựa chọn và thực hiện các
chính sách của chính phủ.
Khi hoạch định 1 chính sách thì cần phải đề cập nhiều tới mục tiêu kinh
tế đó là mang lại lợi ích cho xã hội
Trong khi áp dụng phương pháp này cần phải tuân thủ nguyên tắc chiết
khấu có nghĩa là mọi chi phí tính toán trong tương lai cần được điều chỉnh
theo giá hiện tại trước khi so sánh. Những biện pháp này lại có các mặt hạn
chế là không đáp ứng được các mục tiêu chính trị, nên tuy nó quan trọng
nhưng chưa đầy đủ, nếu chúng ta áp dụng phương pháp này một cách máy
móc thuần tuý sẽ mang lại những nan giải về chính trị
Phương pháp phân tích theo mô hình: là phương pháp phân tích dựa trên
nguyên tắc xây dựng các mô hình chính sách công. Có rất nhiều mô hình phân
tích chính sách công trong đó thực tế người ta hay sử dụng các phương pháp:
Đồ thị là phương pháp trình bày các thông tin dưới các dạng, biểu đồ và
đồ thị khác nhau, đây là phương pháp phân tích số liệu cơ bản và ngày nay
cùng với sự giúp đỡ của máy tính thì phương pháp này được làm rất nhanh.
Trong quá trình phân tích, các loại đồ thị và biểu đồ luôn đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phân tích.
Phân tích bằng phương pháp này thường trải qua các bước sau:
Xây dựng giả thiết
Lựa chọn hệ đo lường
Vũ Mạnh Hùng


11

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
Trình bày đồ thị
Kết thúc đồ thị
Bảng biểu: đây là một kỹ thuật phân tích số cơ bản và quan trọng vì
cùng một lúc có thể thiết lập nhiều kiểu bảng biểu khác nhau cho cùng một
thông tin thử nghiệm để đạt được kết quả tốt nhất.
Các bước xây dựng bảng biểu cũng giống như cấu trúc xây dựng biểu đồ
Trong thực tế thì việc sử dụng các phương pháp phân tích này mang lại
hiệu quả cao, và tuỳ vào từng chính phủ khác nhau mà sử dụng các loại
phương pháp khác nhau căn cứ vào mục tiêu của chính sách, nhưng cũng có
các chính sách mà đòi hỏi chúng ta phải sử dụng đồng bộ các phương pháp để
phân tích thì mới tạo ra kết quả phân tích, ví dụ như chính sách “kiên cố hoá
kênh mương”. Trong ngành nông nghiệp của nước ta có thể áp dụng cả 4
phương pháp phân tích để đưa ra một chính sách tốt nhất.
II. THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM.
1. Chính sách công và việc tổ chức thực thi
Ở nước ta, chính sách được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992,
sửa đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách...". Như vậy, chính sách công là một
trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Song hiện nay đang tồn tại cụm từ
"chính sách của Đảng và Nhà nước". Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng chính sách - Đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban
hành các chính sách công. Các chính sách công là do Nhà nước ban hành.

Các chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định
hướng chính sách của Đảng. (Do vậy việc đề cập tới chính sách công ở đây
được hiểu là các chính sách công do Nhà nước ban hành). Chính sách công
ở Việt Nam thường được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp
luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi hành, song nó bao gồm những
phương án hành động không mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng,
kích thích phát triển.
Hiện nay, nhiều vấn đề chính sách ở Việt Nam đang được các đại biểu
Quốc hội mổ xẻ. Trong diễn đàn Quốc hội, đã có những ý kiến bàn về vai trò
Vũ Mạnh Hùng

12

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
của các nhóm tư vấn, nghiên cứu độc lập, có đề xuất về việc các đại biểu quốc
hội nên được trao quyền trình các dự án luật... Tuy nhiên, theo GS. Kenichi
Ohno, Việt Nam đang có một quy trình chính sách có một không hai. Hầu hết
chính sách được xây dựng với sự can dự hạn chế của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp chỉ được phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Chính sách
được xây dựng trên cơ sở các phân tích và mục tiêu không thực tế, không
được giới doanh nghiệp ủng hộ. Hơn nữa, khi thực thi các chính sách không
có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành; chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu
kế hoạch hành động cụ thể. Mỗi Bộ, ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại
không xác định được lĩnh vực ưu tiên. Vì vậy, Việt Nam nên bắt đầu một quy
trình chính sách mới, với sự tham gia cả tất cả các bên liên quan, bao gồm:
Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu dùng, người nước ngoài, các nhà tài trợ,
các nhà khoa học, chuyên gia. Đôi khi, các doanh nghiệp hoặc các nhà khoa

học có thể vạch ra một chiến lược trình Chính phủ. Chính sách không đơn
thuần chỉ là một văn bản hành chính của Nhà nước.
Qua nghiên cứu và vận dụng chính sách công ở Việt Nam, có thể thấy:
- Đây là vấn đề là khá mới ở nước ta, vì trước đây vẫn có quan niệm về tài
sản công, sử dụng nguồn lực công, nhưng theo quan niệm, theo nhận thức công
hữu, sở hữu công cộng, của chung đất nước, của toàn dân. Do nhận thức chưa
đúng đắn, chưa đầy đủ về chính sách công theo quan niệm mới, hiện đại nên trên
thực tế việc tổ chức thực thi chính sách quản lý còn nhiều yếu kém, lãng phí. Vì
vậy, cần phải làm rõ nội hàm chính sách công, cả từ khái niệm, các phạm trù, nội
dung, các đặc điểm, các yếu tố tác động, chi phối chính sách công.
- Nghiên cứu về chính sách công ở Việt Nam cần đặt trong bối cảnh
đang trong quá trình chuyển đổi, vừa xóa bỏ cái cũ, vừa tiếp thu cái mới, tính
đan xen giữa cơ hội và thách thức trong xu thế toàn cầu hóa như một tất yếu,
có thành, có bại, do đó phải có niềm tin, có định hướng cơ bản về vấn đề
nghiên cứu. Đồng thời, cần phải có cách tiếp cận hệ thống, cơ bản, tổ chức
nghiên cứu, đào tạo, thu hút chuyên gia về chính sách công, hợp tác quốc tế
với các trung tâm, các viện nghiên cứu ở các nước về lĩnh vực chính sách
công, nhất là với các nước phát triển.

Vũ Mạnh Hùng

13

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
2. Những hạn chế trong thực thi chính sách công hiện nay
- Có thể khẳng định rằng có được chính sách công đúng đắn mới chỉ là
“điều kiện cần” để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực thi là “điều

kiện đủ” của chính sách công. Nói như vậy để thấy rõ mối quan hệ có tính
quyết định giữa các khâu trong quá trình thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong
thực tế vẫn tồn tại những chính sách ban hành chưa sát thực tiễn nên thực hiện
hiệu lực, hiệu quả thấp.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của
chính sách có khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên
quan (nhà chức trách, những người thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai.
- Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí
mâu thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ nghị
định và thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến, cản trở việc áp dụng.
- Sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách
chưa thực sự khoa học, vẫn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi
ích. Cơ chế phối hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt
chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai thông tin. Bên cạnh đó,
một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, công chức thiếu năng lực, trình độ và sự
trong sạch trong thực thi chính sách cũng đang là một trong những nguyên
nhân bóp méo, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của chính sách.
- Những quy chế, thủ tục lập ra trong quá trình tổ chức thực thi chính
sách thường thiếu tính ổn định tương đối, gây xáo trộn cho quá trình thực thi
chính sách công. Thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó
khăn, cản trở việc thực thi chính sách.
- Sự thiếu cơ chế theo dõi và đánh giá làm cho việc đánh giá kết quả
thực hiện các chính sách công trở nên khó khăn, không có các thông tin đáng
tin cậy về những hoạt động tốt và những đòi hỏi cần hoàn thiện.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách công.
- Nhận thức đầy đủ, đúng đắn các nội dung của chính sách là yêu cầu
quan trọng đầu tiên trong quá trình đưa chính sách của Nhà nước vào cuộc
sống. Các nhà hoạch định, tổ chức thực thi chính sách, lực lượng tham gia và
cả các đối tượng chịu ảnh hưởng chính sách cần hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, nội
Vũ Mạnh Hùng


14

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, từ đó tạo ra sự đồng thuận
trong cả hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện có
hiệu quả chính sách.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách đến các đối tượng liên
quan, các tầng lớp nhân dân; thực hiện công khai để mọi người biết, được
bàn, được làm và được kiểm tra chính sách, từ đó tạo dư luận xã hội và môi
trường thuận lợi cho việc thực hiện chính sách.
Tuỳ từng đối tượng mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến và
quán triệt phù hợp như: mở các lớp tập huấn tập trung để quán triệt, nghiên cứu
các nội dung chính sách, bàn các giải pháp và phân công thực hiện (hình thức
này phù hợp với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực
hiện và kiểm tra thực hiện chính sách); tổ chức các lớp tuyên truyền chính sách
cho các cơ quan thông tin đại chúng, cán bộ tuyên truyền; gửi các tài liệu
hướng dẫn nghiên cứu chính sách cho các tổ chức, doanh nghiệp liên quan để
tự nghiên cứu và xây dựng chương trình tham gia thực hiện chính sách.
- Cụ thể hoá chính sách: sau khi chính sách mới ban hành, cần phải cụ
thể hoá bằng các chương trình hành động, chương trình mục tiêu, các kế
hoạch thực hiện; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách, các
biểu mẫu báo cáo (nếu có); xây dựng các đề án, dự án phát triển kinh tế - xã
hội cụ thể (nếu có). Các thủ tục này tạo ra môi trường thực thi chính sách, quy
định những đòi hỏi và bước đi cần thiết trong việc thực hiện chính sách. Tuy
nhiên, khi ban hành các thủ tục hành chính cần phải nghiên cứu kỹ để tránh sự
rườm rà, phức tạp không cần thiết; đồng thời phải đảm bảo tính ổn định tương

đối để không gây nhiều xáo trộn cho quá trình thực thi. Bên cạnh đó, những
thủ tục đã lỗi thời, kìm hãm việc thực thi cần được thay thế bằng những thủ
tục mới hợp lý và thuận tiện hơn.
- Chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện chính sách: huy động các
nguồn lực (bao gồm nguồn nhân lực, nguồn kinh phí...) từ trung ương, các địa
phương, các tổ chức quốc tế (nếu có).
Về nguồn nhân lực, nên hạn chế ở mức ít nhất có thể số lượng cơ quan
thực thi chủ yếu để đảm bảo tính hiệu quả của chính sách.
Về nguồn kinh phí, nếu không có hoặc không đủ thì không thể thực
hiện được chính sách, dù chính sách đó mang ý nghĩa xã hội to lớn. Có thể
Vũ Mạnh Hùng

15

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
khai thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách
nhà nước, nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội, khai thác sự tài trợ của các
tổ chức quốc tế và các chính phủ. Nguồn kinh phí cần sử dụng đúng mục đích
và có hiệu quả. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra chặt chẽ
việc sử dụng kinh phí và đánh giá hiệu quả.
- Tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm
cụ thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm
chính và những người tham gia phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện
chính sách. Trong phân công nhiệm vụ, cần chú ý đến khả năng, tính chất
chuyên môn và thế mạnh của từng người; hạn chế tình trạng trùng chéo nhiệm
vụ và không rõ trách nhiệm.
- Thanh tra kiểm tra việc thực hiện chính sách. Mục đích của việc thanh

tra, kiểm tra là phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ
hở trong cơ chế quản lý, trong chính sách và pháp luật để kiến nghị với cơ
quan thẩm quyền có biện pháp khắc phục. Đồng thời, thông qua đó để phát
huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức liên quan.

KẾT LUẬN
Chính sách công là những quy định về ứng xử của Nhà nước với những
hiện tượng nảy sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới những hình
thức khác nhau một cách ổn định nhằm đạt được mục tiêu định hướng.
Việc tổ chức thực thi chính sách là quá trình biến các chính sách thành những
kết quả, trên thực tế là các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước,
nhằm hiện thực hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra.
Nhiều người hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ
trương, chế độ mà Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu
Vũ Mạnh Hùng

16

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng
không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì
những chủ trương, chế độ chỉ là những khẩu hiệu.
Công tác tổ chức thực thi chính sách nếu không được tiến hành tốt, dễ
dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm chí sự chống đối của nhân dân đối với Nhà
nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây ra những khó
khăn cho Nhà nước trong công tác quản lý.

Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định chính sách chưa phát sinh,
bộc lộ hoặc đã phát sinh nhưng các nhà hoạch định chưa nhận thấy, đến giai
đoạn tổ chức thực thi mới phát hiện. Quá trình thực thi chính sách với những
hành động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách
phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.
Việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ có thể
đầy đủ, có sức thuyết phục là sau khi thực hiện chính sách. Qua tổ chức thực
hiện, cơ quan chức năng mới có thể biết chính sách đó được xã hội và đại đa
số nhân dân chấp nhận hay không, đi vào cuộc sống hay không.
Việc đưa chính sách công vào thực tiễn không đơn giản, nhanh chóng.
Đó là quá trình phức tạp, đầy biến động, chịu tác động của một loạt các yếu
tố, thúc đẩy hoặc cản trở công việc thực thi.
Với những nhìn nhận mới trong thực thi chính sách công của Đảng và
Nhà nước ta, chúng ta hoàn toàn có thể chắc chắn rằng trong thời gian tới chúng
ta sẽ có những chính sách đúng đắn, được thực thi nghiêm túc và đem lại hiệu
quả thiết thực góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà, PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền (đồng
chủ biên): Giáo trình Chính sách kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, H, 1999.
Vũ Mạnh Hùng

17

Cao học QLKT-KTT-K17


TiÓu luËn ChÝnh s¸ch c«ng

2. Một số thuật ngữ hành chính, Nxb Thế giới, 2000.
3. Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách công - Học viện Hành
chính, NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội 2010.
4. Tạp chí Kinh tế và dự báo: www.mpi.gov.vn
5. Sự cần thiết hoàn thiện quy trình hoạch định chính sách công của Việt
Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế - ThS. Trịnh Thị Kiều Anh.

Vũ Mạnh Hùng

18

Cao học QLKT-KTT-K17



×