Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Tác động của CNH, HĐH đến vấn đề việc làm, thu nhập của lao động nông nghiệp ở tỉnh Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.26 MB, 76 trang )

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

MỤC LỤC


GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

DANH MỤC BẢNG BIỂU


3

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều thập kỉ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hoá diễn ra
mạnh mẽ ở các quốc gia trên thế giới, ở cả các nước phát triển cũng như các
nước đang phát triển. Với nước ta, sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ đổi
mới được coi là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh
vực đời sống kinh tế- xã hội. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(1996), khi thông qua đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta đã xác định
rõ mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp”. Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, là một tỉnh nằm
kề Thủ đô với nhiều tiềm năng phát triển, Hà Tây đã huy động mọi nguồn lực
để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH và đã trở thành một trong những tỉnh có tốc
độ CNH, HĐH cao nhất trong cả nước.
Sau hơn 10 năm đổi mới, kinh tế - xã hội của Hà Tây có nhiều chuyển
biến mạnh mẽ. Cùng với những thành tựu phát triển quan trọng đạt được, quá
trình CNH, HĐH cũng đặt ra cho tỉnh nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết.
Trong đó nổi cộm lên là vấn đề việc làm, thu nhập cho lao động nông nghiệp


bị mất đất trong quá trình CNH, HĐH đang ngày càng trở nên phức tạp, đòi
hỏi phải có những chính sách can thiệp hợp lý, nếu không sẽ ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Vì vậy, nghiên cứu về “Tác động của CNH, HĐH đến vấn đề việc làm,
thu nhập của lao động nông nghiệp ở tỉnh Hà Tây” vừa có ý nghĩa thực tế
vừa có ý nghĩa lâu dài cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây nói
riêng và của nước ta nói chung.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá một số lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH và tác động
của nó đến việc làm và thu nhập của lao động nông nghiệp.


4

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

- Phân tích, đánh giá thực trạng CNH, HĐH và tác động của quá trình
CNH, HĐH đến việc làm và thu nhập của lao động nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
- Trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng, mục tiêu và một số giải
pháp chủ yếu nhằm giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của CNH, HĐH đến
việc làm và thu nhập của lao động nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là những lao động nông nghiệp
chịu sự tác động của quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây. Đồng thời nghiên cứu
các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Tây: Địa hình, đất đai, khí hậu,
nguồn nước, dân số, giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng,…từ đó đưa ra những giải
pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của CNH, HĐH đến người lao động.
Chuyên đề nghiên cứu trong phạm vi các đối tượng ở tỉnh Hà Tây
khoảng 10 năm trở lại đây và nghiên cứu trong thời gian tới.
IV. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử được sử dụng xuyên
suốt trong nghiên cứu của toàn chuyên đề.
- Phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế và các phương pháp
tổng hợp, phương pháp logic,… được sử dụng để phân tích, xử lý các số liệu
về việc làm, thu nhập của lao động nông nghiệp Hà Tây và các vấn đề có liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
V. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về CNH, HĐH và tác động của nó đối với việc
làm và thu nhập của lao động nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng lao động việc làm và đời sống của lao động nông
nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp chính để tạo việc làm và tăng
thu nhập cho lao động nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.


5

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP CỦA
LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
1.1 Khái niệm, vai trò, đặc trưng của công nghiệp hoá hiện đại hoá
1.1.1 Khái niệm về công nghiệp hoá
Khái niệm công nghiệp hoá bắt đầu xuất hiện vào thế kỉ 18, gắn liền với
cuộc cách mạng kĩ thuật lần thứ nhất khởi đầu ở nước Anh. Nhưng đến đầu
thế kỉ 19, khái niệm này mới được làm rõ dần với quan niệm coi đó là quá

trình đưa một lĩnh vực sản xuất nào đó vào hoạt động với sự trợ giúp đắc lực
và sự đóng góp lớn của hoạt động cơ khí. Do công nghiệp phát triển nhanh
chóng, từ đơn giản đến phức tạp với trình độ cơ giới hoá, tự động hoá ngày
càng cao nên ý nghĩa của khái niệm “công nghiệp hoá” cũng ngày càng mở
rộng ra. Công nghiệp hoá trở thành quá trình rất phức tạp, bao gồm nhiều khía
cạnh khó phân biệt cả về không gian và thời gian, về định tính hay định
lượng. Vì vậy, tuỳ theo cách nhìn nhận khác nhau mà người ta có những quan
niệm khác nhau về công nghiệp hoá.
Quan niệm ở Liên Xô trước đây cho rằng: “Công nghiệp hoá là quá
trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông
nghiệp”. Quan niệm trên xuất phát từ thực tiễn của Liên Xô khi triển khai
công nghiệp hoá. Khi đó, Liên Xô đã có một số tiền đề ban đầu là công
nghiệp đã phát triển đến trình độ nhất định dưới chủ nghĩa tư bản trước đây,
dù cho trong cuộc nội chiến (1918-1920) công nghiệp có bị tàn phá nặng nề.
Bên cạnh đó, trong thời kì tiến hành công nghiệp hoá (1926-1940), Liên Xô bị
chủ nghĩa Đế quốc bao vây toàn diện nên sự trợ giúp từ bên ngoài hầu như
không có. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát triển Liên Xô phải tiến hành


6

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

công nghiệp hoá với nhịp độ nhanh, phải tập trung cao độ phát triển công
nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục vụ nông nghiệp
nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước, đồng thời góp phần tăng nhanh tiềm
lực quốc phòng. Vào thời gian đó quan niệm này được coi là hợp lý. Về sau
nó được một số nước XHCN và các nước đang phát triển áp dụng nhằm xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nhưng việc áp dụng một cách máy móc mô
hình công nghiệp hoá của Liên Xô, không căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất

nước đã không đem lại kết quả như mong muốn ở các nước này.
Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) cũng đã
đưa ra định nghĩa: “Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong
đó bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ
cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các phương tiện
sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao
trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội”. Khái niệm
này nói lên rằng CNH là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, nó không chỉ nhằm tạo ra thêm nhiều của cải vật chất cho nền kinh
tế mà còn hướng tới sự tiến bộ xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân về cả
mặt vật chất và tinh thần.
Ở nước ta, từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc
từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng các
lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ
quan điểm mới về CNH đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá
VII của Đảng ta (1994) chỉ rõ CNH là “quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội,
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên


7

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng
suất lao động cao”. Định nghĩa này đã nói lên được phạm vi và vai trò dặc
biệt quan trọng của CNH trong phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời nó cũng
xác định vai trò không thể thiếu của khoa học – công nghệ trong quá trình

CNH. Quan điểm mới này là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài
học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu, học hỏi kiến thức
và kinh nghiệm của thế giới và thời đại.
Qua các định nghĩa trên có thể thấy rằng, thực chất CNH là quá trình xây
dựng một lực lượng sản xuất hiện đại. Đó là quá trình trang bị và trang bị lại
công nghệ mới cho các ngành sản xuất trong nước dựa trên nền tảng là sự
phát triển của khoa học kĩ thuật. Trên thế giới, CNH được coi là bắt đầu từ
khi tiến hành cách mạng khoa học kĩ thuật thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc với năng suất lao động cao hơn, tạo ra sự biến đổi
sâu sắc về nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội các nước. Ngày nay, với
cuộc cách mạng về công nghệ thông tin, siêu xa lộ thông tin,… càng tạo thêm
những tiền đề vững chắc hơn và đẩy nhanh tốc độ CNH và làm cho quá trình
CNH diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Tóm lại, CNH là quá trình phức tạp có thể nhìn nhận và định nghĩa từ
nhiều góc độ khác nhau, nhưng hiểu một cách tổng quát thì CNH là một quá
trình lịch sử tất yếu khách quan nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về
kinh tế - xã hội của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
và lợi thế đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế đa dạng với khu vực công nghiệp
là then chốt và trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại.
1.1.2 “ Công nghiệp hoá” và “Hiện đại hoá”
Công nghiệp hoá là quá trình trang bị công nghệ và thiết bị cơ khí hoá
cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí


8

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

quan trọng. CNH đã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất với kĩ thuật

và tổ chức sản xuất truyền thống.
HĐH là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp các công nghệ hiện
đại nhất, mới nhất trong quá trình CNH. HĐH được nhiều nhà nghiên cứu coi
là quá trình liên tục hiện đại nền kinh tế, thay đổi công nghệ cũ bằng công
nghệ mới tiên tiến hơn.
Thực chất, HĐH là cái đích cần vươn tới trong quá trình CNH. Cái đích
này không cố định hay duy nhất đối với một quốc gia, một ngành nghề mà nó
luôn thay đổi theo sự phát triển của khoa học kĩ thuật và trình độ văn minh
chung của nhân loại. Nó cũng phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại ngành
nghề, điều kiện của từng quốc gia, hay từng khu vực khác nhau ngay trong
một nước. Xu thế chung của thế giới ngày nay là thực hiện đổi mới công nghệ
nhanh chóng, rút ngắn chu kì sống của mỗi loại công nghệ, phấn đấu đưa
trình độ khoa học – công nghệ của đất nước theo kịp với trình độ hiện đại
chung của thế giới. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt
động mà xác định trình độ công nghệ thích ứng.
Ở các nước tư bản phát triển, HĐH diễn ra sớm hơn so với các nước
đang phát triển. Từ những năm 50, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ
hai đã diễn ra và ảnh hưởng sâu sắc đến xu hướng phát triển kinh tế ở các
nước này. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi, từ công nghiệp truyền thống đã
chuyển sang công nghiệp hiện đại với các ngành công nghiệp mới: Điện tử, vi
điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới (siêu dẫn, quang dẫn). Đó
là những ngành có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao, có khả năng đem lại hiệu
quả kinh tế lớn. Đặc biệt, vào cuối thập kỉ 70, đầu 80, xu thế hiện đại hoá
ngày càng diễn ra mạnh mẽ trong các nền kinh tế, tỷ trọng kinh tế dịch vụ
(thông tin, chuyển giao công nghệ, thương mại điện tử) ngày càng chiếm ưu
thế hơn. Đồng thời, tự động hoá, tin học hoá ngày càng phát huy ưu thế trong


9


GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

sản xuất và quản lý. Kinh tế tri thức được coi trọng trước xu thế toàn cầu hoá
đời sống kinh tế quốc tế.
Đối với nước ta, ngay từ những ngày đầu của thập kỷ 60, Đảng và Nhà
nước đã chủ trương công nghiệp hoá XHCN để tạo những tiền đề vật chất cho
CNXH, trong đó thực hiện cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và điện khí hoá là những
nội dung cơ bản của CNH.
So với thời kỳ đó, do yêu cầu của nền kinh tế, của nông nghiệp, nông
thôn đối với CNH, HĐH, cũng như các khả năng thực hiện chúng, CNH,
HĐH hiện nay ở nước ta đã có nhiều điểm khác biệt. Quan niệm về CNH,
HĐH được hiểu một cách đầy đủ hơn.
CNH được xem là quá trình với nội dung chủ yếu là trang bị cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho đất nước thông qua các cuộc cách mạng về
cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, điện khí hoá... tạo các điều kiện nâng
cao năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng giá trị kinh tế của
sản phẩm, khai thác hợp lý các nguồn lực; phát triển các ngành công nghiệp,
dịch vụ nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
HĐH là giai đoạn tiếp theo của quá trình CNH. Thực chất HĐH là CNH
ở trình độ cao hơn, là quá trình xây dựng và phát triển các ngành kinh tế trên
cơ sở áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, trong điều kiện tiến bộ
khoa học và công nghệ diễn ra đồng bộ, toàn diện, nhanh chóng và sâu sắc ở
tất cả các yếu tố của công nghệ như công cụ lao động, năng lượng, vật liệu,
phương pháp công nghệ ở tất cả các ngành của nền kinh tế.
Có thể nói trong điều kiện mới, CNH ở nước ta ngày nay đã gắn chặt với
HĐH trở thành quá trình CNH, HĐH. Và quá trình CNH, HĐH đó ngày càng
liên quan mật thiết với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát triển
kinh tế tri thức sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện đẩy nhanh CNH, HĐH ở
nước ta, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức chúng ta mới có



10

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Ngược lại,
việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình CNH, HĐH sẽ tạo ra kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Nói cách
khác, CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức có quan hệ biện chứng với
nhau. Chính vì vậy, quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần nắm bắt các tri thức
và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành
kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ
dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Đây là quá trình xây dựng xã hội
văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo
phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại có hàm lượng tri thức cao. Quá
trình ấy sẽ giúp cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh
lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nước với các nước phát triển.
1.1.3 Đặc trưng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong lịch sử CNH, HĐH diễn ra hàng trăm năm qua trên thế giới có sự
đa dạng về mô hình tiến hành. Do xuất phát điểm khi bước vào quá trình
CNH, HĐH và mục tiêu phát triển của các nước khác nhau là khác nhau nên
mỗi nước lựa chọn cho mình một con đường CNH, HĐH riêng. Nhìn chung,
quá trình CNH, HĐH trong các mô hình này mang các đặc trưng cơ bản sau:
1.1.3.1 CNH, HĐH là một phương thức có tính phổ biến
CNH, HĐH là một phương thức có tính phổ biến để thực hiện mục tiêu
trong phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mỗi nước vì có hệ
thống mục tiêu riêng với các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, các nước
căn cứ vào mục tiêu và điều kiện đó mà lựa chọn cho mình hình thức CNH,

HĐH phù hợp. Nhưng dù lựa chọn hình thức CNH, HĐH nào thì quá trình
CNH, HĐH đó đều hướng đến mục tiêu chung của mọi quốc gia là nhằm tăng


11

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao về mọi mặt của mọi tầng lớp dân
cư thông qua việc tạo ra cơ sở vật chất ngày càng hiện đại, huy động và sử
dụng hiệu quả nhất các nguồn lực đất nước.
1.1.3.2 CNH phải gắn liền với HĐH
Trong lịch sử CNH diễn ra hàng trăm năm ở các nước trên thế giới, CNH
và HĐH luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì HĐH với trình độ kĩ thuật
hiện đại nhất là một yêu cầu cơ bản của quá trình CNH. Thực tế, kĩ thuật hiện
đại nhất đối với mỗi giai đoạn lịch sử có giới hạn nhất định và luôn luôn thay
đổi theo thời gian. Chính vì vậy, HĐH không phải là một quá trình độc lập mà
là một hoạt động có tính liên tục của CNH gắn liền với sự tiến bộ của khoa
học kĩ thuật, hay là một quá trình kế tiếp để đạt được mục tiêu của CNH. Vào
thế kỉ 18 -19 ở Anh và Tây Âu thì HĐH là việc áp dụng máy móc với hệ động
lực máy hơi nước thay thế cho lao động cơ bắp. Đến thế kỉ 20 có điện năng
thì HĐH chính là dựa trên điện khí hoá như khẩu hiệu V.Lênin đã vạch ra cho
nước Nga. Ngày nay với những tiến bộ khoa học kĩ thuật mới thì HĐH gắn
liền với tự động hoá, tin học hoá và nền kinh tế tri thức. Nói chung, HĐH
chính là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình CNH, vì vậy
không thể tách rời CNH và HĐH.
1.1.3.3 CNH,HĐH là quá trình tác động đến tất cả các ngành, các lĩnh
vực hoạt động của một nền kinh tế
Trong một chỉnh thể của một quốc gia, các ngành và các lĩnh vực hoạt
động kinh tế - xã hội có quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Sự

thay đổi ở ngành, lĩnh vực này sẽ dẫn tới sự thay đổi ở ngành, lĩnh vực khác.
Quá trình CNH, HĐH cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
quốc dân và cơ cấu lao động. Trong quá trình CNH, HĐH chuyển dịch cơ cấu
làm cho vị trí của ba khu vực kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
luôn luôn thay đổi:


12

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

Trong giai đoạn đầu, nông nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất và nó tạo ra
lương thực, thực phẩm nuôi sống con người hàng ngày và những hàng hoá
tiêu dùng thiết yếu nhất. Đồng thời nông nghiệp cũng tạo ra những điều kiện
tiền đề quan trọng ban đầu cho phát triển công nghiệp.
Đến khi nhu cầu cơ bản của dân cư được bảo đảm thì tỷ trọng lao động
nông nghiệp và giá trị sản lượng nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm đi để
nhường chỗ cho sự phát triển, tăng dần của khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Trong quá trình CNH, HĐH, công nghiệp luôn được coi là ngành mấu
chốt tạo ra sự phát triển kinh tế - xã hội và được mọi quốc gia ưu tiên đầu tư
phát triển. Tuy CNH, HĐH không đồng nhất với phát triển công nghiệp,
nhưng không thể tiến hành quá trình CNH, HĐH nếu không chú trọng phát
triển mạnh công nghiệp. Vì vậy, vai trò, vị trí của công nghiệp trong nền kinh
tế quốc dân ngày càng tăng lên trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
Hoạt động dịch vụ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và nâng
cao đời sống dân cư, nó đáp ứng nhu cầu trong cả hoạt động sản xuất và sinh
hoạt của người dân. Với một cơ sở hệ thống dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội yếu kém thì không thể CNH, HĐH nhanh. Để tạo tiền đề đẩy mạnh
quá trình CNH, HĐH cần chú trọng đầu tư thoả đáng phát triển dịch vụ kết
cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Trong

các giai đoạn của quá trình CNH, HĐH, vị trí của khu vực dịch vụ sẽ có sự
thay đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế quốc dân, thường có xu hướng tăng dần.
Hiện nay, ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu, khu vực dịch vụ
chiếm trên 60% trong GDP.
1.1.3.4 CNH, HĐH là sự kết hợp chặt chẽ của các quá trình kinh tế - kĩ
thuật - xã hội - môi trường
Quá trình CNH, HĐH sẽ đem lại cho đất nước trình độ kĩ thuật công
nghệ ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng vững mạnh. CNH, HĐH cũng góp


13

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

phần nâng cao dân trí, mức sống dân cư và phát triển xã hội ngày càng văn
minh. Như vậy, trong quá trình CNH, HĐH, quá trình kinh tế - kĩ thuật xây
dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho việc thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế
- xã hội và môi trường. Trong khi đó, quá trình kinh tế - xã hội mang lại động
lực quan trọng cho thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế - kĩ thuật.
Ngày nay, trong CNH, HĐH, trong khai thác các nguồn lực tự nhiên để
phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, các nước cũng kết hợp
giữa việc sử dụng có hiệu quả với việc tiết kiệm, bảo tồn và tái tạo chúng. Do
vậy, CNH, HĐH nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh trong phát triển
kinh tế, nhưng nó phải gắn với sự bền vững trong phát triển. Điều đó được
hiểu trên các giác độ kinh tế - kĩ thuật - xã hội - môi trường.
1.1.3.5 quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là quá trình mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế
Ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và xu thế toàn cầu hóa
kinh tế đang diễn ra như một tất yếu. Mỗi quốc gia là một bộ phâ của hệ
thống kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới và có tác

động ở mức độ khác nhau đến kinh tế của các nước khác nhau. Vì vậy, việc
xác định mục tiêu, phương thức CNH, HĐH ở mỗi nước cần dựa trên sơ sở
phân tích và dự báo những biến động chung của khu vực và toàn cầu. Việc
xây dựng hệ thống kinh tế quốc gia mở, tăng cường hợp tác kinh tế và phân
công lao động quốc tế là xu hướng không cưỡng lại được của mọi quốc gia
trên thế giới hiện nay.
Để thực hiện quá trình CNH, HĐH trước hết phải dựa vào các nguồn lực
trong nước, nhưng tranh thủ nguồn lực bên ngoài về vốn, côn nghệ và quản lý
là một điều kiện đặc biệt quan trọng. Đối với các nước đang phát triển, luôn
có “lợi thế” của các nước đi sau so với các nước đi tiên phong trong CNH,
HĐH. Đó là kế thừa kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kĩ thuật và kĩ


14

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

năng quản lý của các nước tiên tiến. Nhưng lợi thế đó không phải dễ tận dụng
được, bối cảnh kinh tế chính trị quốc tế và thực trạng của mỗi nước rất khác
nhau, nên việc áp dụng kinh nghiệm phải sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể của từng nước.
1.2 Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNH, HĐH là một giai đoạn tất yếu mang tính quy luật phổ biến đối với
tất cả các nước, các vùng lãnh thổ nhằm thực hiện sự biến đổi nền kinh tế - xã
hội từ lạc hậu, kém phát triển sang một nền kinh tế - xã hội phát triển, văn
minh. Tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, cần tiến hành CNH, HĐH để đáp ứng nhu cầu hàng hoá tiêu
dùng ngày càng tăng của con người cả về số lượng và chất lượng. Một
nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc tăng lượng cầu về hàng hoá đó là do sự
gia tăng dân số thế giới không ngừng. Đầu thế kỷ 20 dân số toàn cầu là 1,6 tỷ

người nhưng đến cuối năm 2006 con số này đã đạt 6,5 tỷ người, tăng 4,06 lần.
Chỉ mới tính một cách đơn giản theo toán học thì nhu cầu về hàng hoá đã tăng
lên 4,06 lần. Tuy nhiên, trên thực tế lượng cầu còn tăng lên gấp nhiều lần như
thế. Khi đó, nếu lượng cung không được tăng lên sẽ dẫn đến cuộc khủng
hoảng thiếu, giá cả các mặt hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và có thể làm nảy
sinh nhiều “căng thẳng xã hội”. Mặt khác, khi nền kinh tế ngày càng phát
triển thì con người có xu hướng chuyển sang tiêu dùng các hàng hoá có chất
lượng cao. Khi thu nhập tăng, con người thường đòi hỏi một mức sống cao
hơn, người ta không còn cần được “ăn no, mặc ấm” nữa mà thích “ăn ngon,
mặc đẹp”. Trước thực tế này, tiến hành CNH, HĐH nhằm cải tiến kĩ thuật,
hiện đại hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cho xã hội lượng
hàng hoá lớn với nhiều chủng loại, mẫu mã, chất lượng tốt là một tất yếu.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học - công nghệ tất yếu dẫn đến CNH,
HĐH. Hiểu theo nghĩa chung nhất thì khoa học là “hệ thống những kiến thức,


15

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

hiểu biết của con người về quy luật vận động và phát triển khách quan của tự
nhiên, xã hội và tư duy”; còn công nghệ là sự chuyển hoá những tri thức của
khoa học thành các phương thức và phương pháp sản xuất. Cùng với sự phát
triển của khoa học – công nghệ, con người ngày càng hiểu rõ hơn các quy luật
của tự nhiên, của các hoạt động kinh tế. Khi đã hiểu, con người sử dụng
những kiến thức đó để nghiên cứu, phát minh ra những máy móc, thiết bị mới,
tìm ra cách thức tác động mới đến đối tượng sản xuất để tác động đến các đối
tượng này một cách phù hợp với quy luật nhằm khai thác và cải biến chúng,
tạo ra các sản phẩm hàng hoá phục vụ nhu cầu của con người. Nhờ áp dụng
các tiến bộ khoa học – công nghệ mà các hoạt động sản xuất, kinh doanh có

được các công cụ hiện đại hơn, tạo năng suất lao động cao hơn; cuộc sống của
con người cũng trở nên đầy đủ, tiện nghi hơn. Mà trang bị cơ sở vật chất kĩ
thuật tiên tiến, hiện đại cho nền kinh tế, cho xã hội cũng chính là nội dung của
CNH, HĐH. Chính vì vậy có thể nói sự phát triển của khoa học công nghệ
làm cho nội dung của CNH, HĐH được thực hiện. Hay nói cách khác, khoa
học – công nghệ phát triển tất yếu dẫn đến CNH, HĐH.
Thứ ba, CNH, HĐH là xu thế tất yếu đối với các nước đang phát triển.
Vào giữa thế kỉ 20 hầu hết nền kinh tế của các nước Châu Á vẫn ở trong tình
trạng thấp kém. Ở Ấn Độ thì nan đói triền miên; Inđônêsia thì sau 10 độc lập
mức thu nhập bình quân đầu người tụt xuống chỉ bằng năm 1935; ở Trung
Quốc thì thực hiện đường lối “đại nhảy vọt” nhưng kinh tế trì trệ hơn. Ngay
cả Nhật Bản là nước có nền kinh tế đứng đầu Châu Á thì vào những năm 60,
thu nhập bình quân đầu người cũng chỉ mới đạt 380 – 400 USD/ năm. Khi căn
cứ vào tốc độ tăng dân số ở nhiều nước Châu Á luôn cao hơn tốc độ tăng sản
lượng lương thực, có thể dự báo tình hình kinh tế chung cũng như kinh tế
nông nghiệp ở các nước này sẽ ngày càng xấu đi. Ngoài ra, không thấy có
nhân tố nào hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Các nhà quan sát đã có nhận xét
là hầu như những khó khăn nhất của thế giới đều tập trung, hội tụ ở châu lục


16

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

này và không ai trong số họ có thể nghĩ kinh tế nhiều nước Châu Á sẽ phát
triển nhanh và tạo ra một khu vực thịnh vượng.
Vậy mà chỉ sau một thời gian tiến hành CNH, HĐH tương đối ngắn,
nhiều nước Châu Á đã thay đổi bộ mặt đất nước, điển hình như Nhật Bản từ
đống tro tàn sau chiến tranh Thế giới thứ hai đã trở thành cường quốc kinh tế
thứ 2 trên thế giới trong vòng 20 – 25 năm, cùng với các nước Hàn Quốc,

Singapo, Đài Loan tạo thành “ 4 con rồng” Châu Á.
Để đạt được thành công trên, trong quá trình CNH, HĐH các nước này
đều tham khảo kinh nghiệm CNH, HĐH của các nước phương Tây và vận
dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước mình. Trong quá trinh
CNH, HĐH các nước này đã xác định đúng mức vị trí của công nghiệp và
nông nghiệp, của đô thị và nông thôn trong từng thời kì phát triển nên đã huy
động có hiệu quả mọi tiềm lực của đất nước, của các vùng lãnh thổ cũng như
các ngành kinh tế để phục vụ CNH, HĐH.
Như vậy có thể thấy, CNH, HĐH đã giúp cho các nước có nền kinh tế ở
điểm xuất phát thấp, nông nghiệp là ngành chủ yếu, công nghiệp nhỏ bé, phụ
thuộc nước ngoài nhanh chóng vươn lên và thu được những thành tựu to lớn
trong phát triển kinh tế - xã hội. CNH, HĐH đã trở thành con đường tất yếu
không thể bỏ qua đưa các nước đang phát triển trở thành nước công nghiệp mới.
1.3. Điều kiện tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.3.1. Sự can thiệp của nhà nước
Quá trình CNH, HĐH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp
mà là một quá trình phức tạp, diễn ra trên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội. liên quan đến tất cả các các gia cấp, các tầng lớp,
các thành viên trong xã hội. Vì vậy, CNH, HĐH là quá trình kinh tế có tính xã
hội hoá cao. Mặt khác, để đẩy nhanh và thực hiện thành công CNH, HĐH đòi
hỏi phải tập trung được một lực lượng vật chất lớn. Do đó để phối hợp các


17

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

hoạt động, huy động được tất cả các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng
chúng có hiệu quả trong quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải có sự can thiệp
của nhà nước.

Ngày nay, quá trình CNH, HĐH được tiến hành trong điều kiện nền kinh
tế thị trường sẽ thúc đẩy nhanh nền kinh tế thị trường phát triển. Bên cạnh
những tích cực, điều này có thể tạo ra các khuyết tật của thị trường như có thể
gây ra nạn thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường…đòi hỏi
phải có sự can thiệp của nhà nước để ngăn ngừa, hạn chế các khuyết tật đó.
Đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển, vai trò của nhà nước lại
càng quan trọng hơn. Hiện nay các nước này tiến hành CNH, HĐH trong điều
kiện vừa có những nhân tố thuận lợi như: có thể rút ra được bài học từ những
nước đi trước và nhận được sự chuyển giao công nghệ,…song bên cạnh đó
cũng có nhiều khó khăn thách thức: vốn giành cho CNH, HĐH còn ít, chịu sự
chi phối về công nghiệp từ các nước phát triển,…Do đó nhà nước cần can
thiệp để có thể tận dụng được những nhân tố có lợi, giảm thiểu những nhân tố
khó khăn, thách thức, rút ngắn quá trình CNH, HĐH.
Là nước đầu tiên tiến hành CNH, HĐH nhưng nhà nước Anh đã có một
vai trò nhất định trong việc đề ra các chính sách tạo điều kiện thúc đẩy quá
trình CNH. Tuy nhiên, các chính sách công nghiệp này còn phiến diện chưa
hoàn chỉnh, vai trò nhà nước đối với CNH còn chưa rõ nét. Anh đã mất tới
120 năm tiến hành CNH, HĐH mới đạt được một nền công nghiệp đứng đầu
thế giới vào thế kỉ 19.
Ở Liên Xô, quá trình thực hiện CNH, HĐH được thực hiện theo kế
hoạch có tính pháp lệnh của nhà nước. Chính vì vậy một nguồn lực lớn đã
được huy động, trong thời gian ngắn, kết hợp với phân bổ nguồn lực một cách
hợp lý đã giúp Liên Xô hoàn thành CNH, HĐH chỉ hơn 20 năm.


18

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

Ở NICs Châu Á, nhà nước có một vai trò quan trọng trong quá trình

CNH, HĐH nói riêng cũng như phát triển nền kinh tế nói chung. Với việc rút
kinh nghiệm từ các nước đi trước và chính sách đúng đắn của nhà nước, quá
trình CNH, HĐH ở các nước này cũng được rút ngắn còn khoảng 30 năm
trong khi ở Mỹ là 90 năm và Nhật là 50 năm.
Như vậy, có thể khẳng định rằng sự can thiệp của nhà nước trong quá
trình CNH, HĐH là cần thiết. Trong điều kiện hiện nay, vai trò của nhà nước
không ngừng tăng lên và trở thành nhân tố quyết định cho sự rút ngắn và
thành công của CNH, HĐH.
1.3.2. Các điều kiện về nguồn lực.
Trong quá trình CNH, HĐH các yếu tố nguồn lực cũng đóng một vai trò
hết sức quan trọng. Tuỳ vào điều kiện các nguồn lực hiện có của đất nước mà
các nước xác định cho mình các mục tiêu CNH, HĐH khác nhau từ đó lựa
chọn cho mình con đường khác nhau. Các nguồn lực có thể kể đến là: đất đai,
vốn, nhân lực, khoa học – công nghệ,…
Khi nói đến CNH, HĐH thì nguồn lực cần thiết đầu tiên phải là khoa học
– công nghệ. Mục tiêu chung của tất cả các nước khi tiến hành CNH, HĐH
chính là đưa nền kinh tế phát triển theo hướng tiến bộ, hiện đại, có hiệu quả
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ cho cả sản xuất và
đời sống. Để đáp ứng được những yêu cầu trên, sự phát triển của khoa học và
công nghệ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Khoa học – công nghệ càng phát
triển thì có càng nhiều máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại để áp dụng vào sản
xuất, nâng cao năng suất. Ngoài ra, khoa học – công nghệ cũng giúp cho con
người hiểu hơn về tự nhiên, các đối tượng sản xuất từ đó có những phương
thức sản xuất phù hợp. Vì vậy có thể nói, khoa học và công nghệ có vị trí và
vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình CNH, HĐH nền kinh tế đất nước,
tạo điều kiện vật chất cho những chuyển biến về xã hội.


19


GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

Một nguồn lực có ảnh hưởng lớn đến quá trình CNH, HĐH nữa đó là
nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực vừa là một yếu tố của quá trình sản xuất như
các nguồn lực khác, đồng thời nó lại là chủ thể sử dụng và khai thác các yếu
tố nguồn lực còn lại. Đặc điểm này đòi hỏi một mặt phải khai thác triệt để yếu
tố nguồn nhân lực, mặt khác phải tạo những điều kiện để nguồn nhân lực khai
thác đầy đủ và hợp lý các nguồn lực khác. Có như vậy mới có thể tận dụng tối
đa lợi thế của các quốc gia để quá trình CNH, HĐH diễn ra nhanh, mạnh. Tại
các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam ta, nguồn lao động về số lượng
thường rất dồi dào nhưng chất lượng lao động lại không cao. Điều này gây
nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào trong
sản xuất, nó đòi hỏi quá trình CNH, HĐH phải có những lựa chọn về loại
công nghệ và có bước đi phù hợp với nguồn lao động của từng ngành nghề,
từng vùng lãnh thổ.
Bên cạnh đó, nguồn vốn, đất đai cũng có tác động không nhỏ đến CNH,
HĐH ngành nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Nguồn vốn tác động tới CNH, HĐH thông qua khả năng trang bị cơ sở
vật chất cho sản xuất, xã hội. Có nguồn vốn càng lớn thì khả năng này càng
cao. Có vốn có thể đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ tiên
tiến hiện đại từ nước ngoài về, có vốn thì việc nghiên cứu triển khai khoa học
công nghệ trong nước cũng dễ dàng, thuận tiện hơn. Vì vậy cần có biện pháp
huy động và sử dụng vốn một cách tối ưu từ các nguồn cả trong và ngoài
nước, tránh đầu tư dang trải gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn.
Đất đai tác động tới CNH, HĐH ở cả quy mô và chất lượng. Để tiến
hành CNH, HĐH sản xuất nông nghiệp thì đất đai cũng phải đạt tới một quy
mô và chất lưọng nhất định. Không thể sử dụng các máy móc hiện đại với
công suất lớn trong điều kiện đất đai manh mún, nhỏ lẻ và cũng không thể
đưa các giống cây trồng năng suất cao vào canh tác trên những mảnh đất bạc



20

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

màu. Chính vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH cần
phải quy hoạch sử dụng đất đai một cách hợp lý, cần kết hợp giữa khai thác,
sử dụng với bảo vệ nguồn lực này.
1.4. Tác động của công nghiệp hoá hiện đại hoá đến việc làm và thu nhập
1.4.1. Tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Cùng với quá trình CNH, HĐH thì đất nước có sự chuyển biến về mọi
mặt trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội.
Có thể thấy rằng, tiến hành CNH, HĐH thời gian qua đã góp phần rất
lớn vào việc phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Các khu công nghiệp
được xây dựng, sẽ thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư cả trong và ngoài
nước, tạo điều kiện huy động và sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực để
phát triển. Quá trình CNH, HĐH được đánh giá là đã tạo điều kiện để bổ sung
nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém phát
triển thông qua việc các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức từ các thành phố
lớn chuyển vốn đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp,
du lịch, văn hoá… đến các vùng kém phát triển. Cơ cấu của nền kinh tế quốc
gia nhờ đó sẽ chuyển dần theo hướng tiến bộ, tỷ trọng của khu vực nông
nghiệp trong toàn bộ GDP của đất nước giảm nhanh, tỷ trọng của khu vực
công nghiệp và dịch vụ tăng ngày càng hợp lý. Ngay trong nội bộ ngành nông
nghiệp cũng có sự chuyển biến cơ cấu theo hướng tích cực: tăng dần tỷ trọng
ngành chăn nuôi và giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, nhanh chóng đưa chăn
nuôi thành ngành sản xuất chính. Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất
được cải thiện rõ rệt. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng cấp, được xây
mới ngày càng nhiều, càng hiện đại và đồng bộ. Các đô thị cũng được mở
mang, được xây dựng mới ngày càng nhiều, to đẹp hơn, hiện đại hơn.

Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực trên vẫn nảy sinh nhiều vấn đề
phức tạp. Đó là vấn đề tái định cư cho những người bị thu hồi nhà ở, phương


21

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

thức di dân dãn dân, vấn đề quy hoạch tổng thể đô thị, khu công nghiệp, ô
nhiễm môi trường,.. Vì vậy nghiên cứu các tác động của CNH, HĐH là cần
thiết nhằm phát huy các tác động tích cực, tìm cách khắc phục những tác động
tiêu cực do CNH, HĐH gây ra.
1.4.2 Các tác động tích cực đến việc làm và thu nhập
1.4.2.1 Nâng cao năng suất, trình độ lao động
Trong thời đại CNH, HĐH trình độ là một yếu tố có ý nghĩa quyết định
đối với lao động. Để có thể tìm kiếm cho mình một công việc tốt, có mức
lương cao, luôn đòi hỏi các lao động phải có trình độ, tay nghề cao.
Với sản xuất công nghiệp, sử dụng máy móc, thiết bị là một đặc thù của
ngành. Trên cơ sở đó đòi hỏi lao động trong ngành phải có kỹ năng, trình độ
nhất định để có thể vận hành, đưa các máy móc thiết bị đó vào sản xuất. Hiện
nay, với nền kinh tế hoạt động theo cơ chế cạnh tranh, với mục tiêu nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, các doanh nghiệp phải thường
xuyên ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, các dây truyền công nghệ mới vào
trong sản xuất, kinh doanh nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm, đa dạng hóa các mặt hàng sản xuất. Cùng với đó, trình độ của người
lao động cũng phải nâng cao để thích ứng được với các dây truyền này, ai
không đáp ứng được yêu cầu sẽ bị đào thải ra khỏi quá trình sản xuất, điều
này đã trở thành động lực thúc đẩy người lao động phải có ý thức học hỏi,
tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao tay nghề, trình độ quản lý tổ chức sản xuất.
Ngay đối với ngành nông nghiệp, một ngành mà trước đây thường được

coi là ngành sử dụng lao động thủ công là chính, trong quá trình CNH, HĐH
cũng đã dần được cơ khí hoá, điện khí hoá. Mặc dù khi tiến hành CNH, HĐH
quy mô sản xuất nông nghiệp giảm đi, nhưng các thành tựu khoa học được áp
dụng một cách rộng rãi lại làm cho năng suất lao động trong ngành nông
nghiệp tăng lên gấp nhiều lần. Một mặt, nó góp phần làm giảm thời gian lao


22

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

động hao phí, giúp công việc được hoàn thành nhanh chóng, hiệu quả, tay
nghề lao động được nâng lên. Mặt khác, nó còn có tác dụng tích cực trong
việc giảm thiểu rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, giảm dần sự phụ thuộc của
sản xuất nông nghiệp vào yếu tố tự nhiên. Nhờ sự giúp đỡ của khoa học, kĩ
thuật đã giúp con người cải tạo, sử dụng được các nguồn lực tự nhiên theo ý
muốn của mình, nâng cao năng suất lao động.
Nhìn chung, cùng với quá trình CNH, HĐH cơ sở vật chất kĩ thuật hạ
tầng ngày càng phát triển, máy móc thiết bị được hiện đại hoá, điều kiện làm
việc được cải thiện,… góp phần làm tăng trình độ lao động, từ đó nâng cao
năng suất trong ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế.
1.4.2.2 Tạo việc làm, nâng cao thu nhập, mức sống của lao động
nông nghiệp
Mở rộng quy mô sản xuất, phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ và
ra đời một số ngành nghề, cơ hội kinh doanh mới trong quá trình CNH, HĐH
tạo ra một số lượng lớn việc làm cho người lao động trong các khu công
nghiệp và vùng lân cận. CNH, HĐH tạo điều kiện giúp người lao động
chuyển đổi cơ cấu việc làm, từ việc làm thuần nông sang việc làm mới ổn
định và có thu nhập cao.
Quá trình CNH, HĐH thường gắn liền với việc hình thành và phát triển

các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao
động, thu hút và làm giảm đáng kể lượng lao động nông nhàn ở các vùng
nông thôn, kém phát triển. Trong các ngành công nghiệp, dịch vụ lao động
đòi hỏi phải có trình độ tay nghề, vì thế, tiền lương thường được trả cao hơn
để xứng với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra.
Ngoài số việc làm chính thức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, CNH,
HĐH còn tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao động qua việc phát triển các
ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản…và các khu vực phi chính thức khác phục


23

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất này. Do đó, các cá nhân, hộ gia
đình cũng có thêm thu nhập khi chuyển sang sản xuất kinh doanh trong các
lĩnh vực phi nông nghiệp hoặc kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp với buôn
bán, kinh doanh nhỏ. Chính vì vậy, thu nhập của dân cư tại các khu công
nghiệp thường cao hơn so với các vùng nông thôn khác.
Bên cạnh đó, cùng với việc đẩy mạnh CNH, HĐH thì kinh tế - xã hội của
vùng sẽ phát triển nhanh, các điều kiện phục vụ cho nhu cầu vật chất và tinh
thần như khu vui chơi, giải trí, học tập, giao thông,…ngày càng được cải
thiện, nâng cao làm cho mức sống người dân ngày càng tăng. Vì vậy, có thể
nói so với các vùng nông thôn khác điều kiện sống và làm việc ở các vùng,
các khu công nghiệp thuận lợi hơn.
Nói tóm lại, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã tạo thêm nhiều việc làm,
tăng thu nhập cho dân cư tại các khu công nghiệp và các vùng lân cận; thúc
đẩy kinh tế phát triển, các công trình phúc lợi công cộng như: y tế, giáo dục,
cơ sở hạ tầng, điện nước, giao thông,…được đầu tư, làm tăng mức sống của
người dân.

1.4.3. Tác động tiêu cực đến việc làm và thu nhập của lao động
nông nghiệp
Khi gia tăng quy mô, tốc độ CNH, HĐH thì tất yếu phải dành một lượng
lớn đất đai cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, các nhà máy, xí nghiệp,…Đối
với các nước đang phát triển thì số lượng đất bị thu hồi đó chủ yếu là đất nông
nghiệp. Điều này có thể dẫn đến tình trạng một số lượng đáng kể lao động
nông nghiệp sau khi bị mất đất canh tác rơi vào tình trạng thất nghiệp. Theo
một khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội mới đây, ở nước ta
trung bình mỗi hộ nơi thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có
việc làm và mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất việc làm
trong nông nghiệp, thì với 157.000 ha đất đã được chuyển đổi trong giai đoạn


24

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

2000-2004 có tới 20,41 vạn lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề
nghiệp, trong số đó hiện nay nhiều người vẫn chưa có việc làm và rơi và tình
trạng thất nghiệp toàn phần.
Biểu 1.1: Tình hình lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp
do thu hồi đất giai đoạn 2001 – 2005
Đơn vị: người
Tỉnh
1. Hà Nội
2. Hải Phòng
3. Hà Tây
4. Hải Dương
5. Nam Định
6. Thái Bình

7. Ninh Bình
8. Lào Cai
9. Vĩnh Phúc
10. Bắc Ninh
11. Đà Nẵng
12. Phú Yên
13. Đồng Tháp
14. Cần Thơ
Cộng

2001-2005
104000
17600
52838
12000
8000
17045
2500
6875
8000
7500
20000
3351
5000
1000
265709
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân
bị thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành công nghiệp và

thương mại dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải quyết việc làm cho người
lao động. Gây nhiều khó khăn cho người lao động trong tìm kiếm công việc
mới. Ở nước ta, lao động nông nghiệp cần một khoảng thời gian khá lớn mới
chuyển đổi được nghề nghiệp sau khi bị mất đất canh tác, trung bình là 11
tháng đối với nghề sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; 10 tháng đối


25

GVHD: PGS.TS PHẠM VĂN KH¤I

với nghề buôn bán dịch vụ; 6 tháng đối với nghề chăn nuôi; 4 tháng đối với
nghề xây dựng và 8 tháng đối với các hoạt động dịch vụ khác.
Một nguyên nhân khác gây nên tình trạng này là do trình độ của người lao
động còn thấp. Lao động nông nghiệp với thói quen, tập quán sản xuất nhỏ lẻ,
manh mún, có nhiều hạn chế về năng lực và trình độ văn hoá cũng như trình độ
chuyên môn nghề nghiệp, chưa hình thành được tác phong công nghiệp, không
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động… nên gặp nhiều khó khăn trong
việc tìm kiếm việc làm mới. Ngay cả một số người đã được nhận vào làm việc
tại các nhà máy, các khu công nghiệp nhưng sau đó buộc phải thôi việc và lại
rơi vào tình trạng không có việc làm do không đáp ứng được yêu cầu công
việc. Hơn nữa, nhận thức của người lao động còn thụ động, ỷ lại vào chính
sách hỗ trợ của Nhà nước, vào tiền đền bù mà không cố gắng vượt qua khó
khăn tìm kiếm việc làm. Tâm lý chờ nhận sự ưu đãi của Nhà nước và các
doanh nghiệp mà không có sự chuẩn bị nghề nghiệp mới đang tồn tại một cách
phổ biến ở người lao động thuộc các vùng bị thu hồi đất. Hiệu quả sử dụng tiền
đền bù rất thấp, nhiều hộ có tư tưỏng hưởng thụ dùng tiền để mua nhà, trang
thiết bị hiện đại cho cuộc sống hoặc chi tiêu cá nhân,… rất ít hộ dùng tiền để
tham gia vào các lớp học nghề hoặc đầu tư kinh doanh.
Bên cạnh đó, các cấp chính quyền nhiều khi không làm tốt công tác

thông tin, tuyên truyền đầy đủ về kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất cho lao
động nông nghiệp, khiến người lao động rơi vào thế bị động. Song lại không
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong việc định hướng, nâng cao ý
thức cho người dân về tầm quan trọng của việc học nghề, chuyển đổi nghề
phù hợp sau khi bị thu hồi đất sản xuất. Dẫn đến số lượng lao động tham gia
các khoá đào tạo do địa phương tổ chức còn có hạn, và rất ít lao động trong
các hộ thuộc diện thu hồi đất dược tuyển dụng vào các doanh nghiệp đóng
trên địa bàn có đất bị thu hồi hoặc các vùng lân cận.


×