Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

:" Nội dung quy luật quan hệ sản xuât phù hơp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,nhận thức và vận dụng quy luật này của đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.62 KB, 26 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Lao động sản xuất là cơ sở tồn tại và phát triển xã hội loài người. Trong
quá trình sản xuất một mặt con người tác động vào giới tự nhiên để tìm hiểu
những thuộc tính của nó nhằm phục vụ lơi ích của mình, mặt khác trong quá
trình đó xuất hiện những mối quan hệ phức tạp giữa người với người đặc biệt
khi xã hội hình thành các giai cấp đối kháng nhau về lợi íchthif đấu tranh giai
cấp là động thúc đẩy xã hội phát triển từ chế độ này sang chế độ khác tiến bộ
hơn. Nhận thức những quy luật vận động và phát triển của tự nhiên là yêu cầu
tất yếu để con người đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Triết học
Mac- Lê Nin đã đề cập đày đủ về mọi mặt của đời sống xã hội,mặt khác đã
giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển không ngừng
của xã hội. Một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ xã hội
là quan hệ xã hội trong đó có quan hệ kinh tế bởi vì nó quyết định sự phát
triển và tồn tại của xã hội .trong phát triển kinh tế tồn tại nhiều vấn đề phức
tạp cần giải quyết “ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phất triển của lực lượng sản xuất” la quy luật đặc biệt quan trọng, nó phản
ánh sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội qua các giai đoạn lịch sử.
Lịch sử nhân loại sự kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội. do duy tri
sự sống và đảm bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình, con người
phải phát triển lực lượng sản xuất,lực lượng sản xuất tuy được tạo ra băng
năng lực thực tiễn của con người,song không phải do ý muốn chủ quan cua
con người..lục lượng sản xuất phát triển kéo theo quan hệ sản xuất phải thích
ứng với nó.quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quyết định ,nhưng ngược
lại quan hệ sản xuất lại qui định các quan hệ khác của xã hội.khi lực lượng
sản xuất phát triển cao và quan hệ sản xuất không còn phù hơp với nó tất yếu
dẫn đến cuộc cách mạng xã hội để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp. Quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trình độ phát triển của lượng sản xuất” quyết định sư thay thế của các phương


thức sản xuất, sự hinh thành và biến đổi của các hình thái kinh tế xã hội.
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH kinh tế nước ta đi lên từ nền
kinh tế lạc hậu, do vậy đảng và nhà nước ta đã và đang vận dụng quy luật trên
để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do tầm quan trọng của quy luật này đối với đời sống kinh tế xã hội và
em thấy đề tài này hay nên muốn tìm hiểu nôi dung quy luật ,mặt khác thấy
được sự vận dụng của đảng ta trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Vậy
nên em đã chọn đề tài:" Nội dung quy luật quan hệ sản xuât phù hơp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,nhận thức và vận
dụng quy luật này của đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
Bởi thời gian và trình độ có hạn chế nên không tranh khỏi những thiếu
sót trong bài viết của em,kính mong được sự chỉ bảo góp ý của quý thầy cô.

Em xin chân thành cảm ơn!

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
I- QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI
TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LƯC LƯỢNG
SẢN XUẤT
1. KHÁI NIỆM PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT. NỘI DUNG CỦA
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT.
1.1. Khái niệm:
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
1.2. Nội dung của phương thức sản xuất.
a. Lực lượng sản xuất
Là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của co người nhằm đáp ứng
nhu cầu đời sống của mình.

Lực lượng sản xuất là sư kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất.
* Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận: đối tượng lao động và
tư liệu lao động.
1) Đối tượng lao động:
Là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào
làm thay đổi hình thái của nó cho phù hơp với mục đích của con người .
Đối tượng lao động gồm:
-Thứ nhất: là bộ phận của tư nhiên mà con người trực tiếp sử dụng và
đưa vào sản xuất như gỗ trong rừng, quặng trong lòng đất, hải sản, sông ngòi,
khí hậu…
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
-Thứ hai: là loại không có sẵn trong tự nhiên mà phải trai qua lao động,
được cải biến ít nhiều như:sợi tổng hợp, các loại hóa chất , hợp kim…đó được
gọi là nguyên liệu.
-Thứ ba: là những bộ phận của tự nhiên không thuộc về gới hạn của đối
tượng lao động trực tiếp, chưa mang đấu ấn của con người, nhưng lao động
của con người sẽ hướng tới. chảng hạn 97% tài nguyên dưới đáy đại dương,
tài nguyên trên mặt trăng sao hỏa và trong vũ trụ nói chung… hiên chưa dược
con người khai thác sử dụng, song tất yếu phải được tiến hành trong tương lai.
Chúng ta có thể tin rằng với những tiến bộ của khoa học kĩ thuật,con người
hoàn toàn co thể tạo ra những sản phảm mới có ý nghĩa quyết định chất lượng
cuộc sống và văn minh nhân loại. Bởi loài người luôn muốn tiên đến những gì
tốt đẹp và hoàn thiện hơn. Chính việc tìm kiếm ra những đối tượng lao động
mới sẽ cuốn hút mọi hoạt động của con người.Do vậy khi nói đến đối tượng
lao động, chúng ta không thể bỏ qua những cái con người cần hướng tới.
2) Tư liệu lao động:
Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật lam nhiệm vụ truyền
dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao lao động.Các Mác đã tách
những bộ phận trực tiếp dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào

giói tự nhiên gọi là công cụ sản xuất. Bộ phận còn lại, gồm toàn bộ cơ sở vật
chất kỹ thuật lien quan đến quá trình sản xuất như:nhà xưởng, đường xá, bến
cảng ,sân ga… phục vụ và lien quan trực tiếp đến quá trình sản xuất gọi là
phương tiện lao động. Thông thường hệ thống phương tiện lao động còn được
gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Theo Mác, công cụ sản xuất giữ vị trí là
hệ thống” xương cốt và bắp thịt” của sản xuất và là chỉ tiêu quan trọng nhất.
Công cụ sản xuất được con người không ngừng cải tiến và hoàn thiện, do đó
công cụ sản xuất luôn là yếu tố động nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản
xuất bất kỳ thời đại lịch sử nào.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trình độ phát triển của tư liệu sản xuất mà trong đó đặc biệt là công cụ
sản xuất là thước đo trình độ chinh phục thiên nhiên của con người. Đồng thời
đó là cơ sở xác định trình độ của sản xuất và là tiêu trí để đánh giá sự khác
nhau giữa cac thời đại kinh tế, các chế độ chính trị xã hội C.Mác viết:”Những
thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở
chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”. Chính
công cụ sản xuất và lao động kết hợp với lao động sáng tạo của con người là
yeus tố quyết định đến năng suất lao động. Vì vậy Lênin đã nói:” xét đến
cùng năng suất lao động là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của lưc
lượng sản xuất trong mỗi xã hội”.
+ Người lao động:
Tư liệu lao động dù có tinh xảo và hiện đại đến đâu chăng nữa nhưng
nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được tác dụng tích cực
của nó.Do đó Lênin viết :” Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động”. Bởi vì người lao động không chỉ là sản
phẩm của quá trình sản xuất mà bằng những kinh nghiệm trí tuệ được tích lũy
đã chế tạo ra coong cụ sản xuất. Đồng thời với tri thức và kinh nghiệm sản
xuất của mình, con người mới biết cách sử dụng sáng tạo công cụ lao động để
tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội
phải là người có thể lực, có tri thức văn hóa, có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cao, có kinh nghiệm và những thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh,
lương tâm nghề nghiệp cao đối với công việc.
Lâu nay do chưa chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động,
chúng ta chưa khai thác và phát huy hết tiềm năng của nhân tố con người.
Mặc dù năng lực sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những tư liệu sản
xuất hiện có mà họ đang sử dụng. Nhưng với tính tích cực sáng tạo của họ
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bao giờ cũng là động lực thúc đẩy tốc độ, quy mô hiệu quả và chất lượng của
nền sản xuất. Thiếu nó sản xuất sẽ mất đi sinh khí, vì vậy phải thấy con người
là sản phẩm phát triển của công cụ sản xuất, mà mỗi bước phát triển của công
cụ sản xuất phải thích ứng và gắn liền với trình độ của người lao động. Công
cụ sản xuất và người lao động là hai bộ phận quan trọng không thể tách rời
của lực lượng sản xuất.
3) Trình độ của lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thẻ hiện ở trình độ tinh xảo và hiện
đại của công cụ sản xuất,trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng, kỹ xảo
của người lao động;trình độ phân công lao động xã hội, tổ chức quản lý sản
xuất và quy mô của nèn sản xuất.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hóa
và phân công càng sâu, trình độ phân công lao động và chuyên môn hóa là
thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
b. Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nó bao gồm ba mặt cơ bản sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra

Ba mặt quan hệ nói trên là một thể thống nhất hữu cơ, tạo thành quan hệ
sản xuất; trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát
quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó có ý
nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất được hiểu là những quan hệ vật chất, quan hệ kinh tế
của đời sống xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều hình thành dựa trên
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những quan hệ sản xuất nhất định, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất quy định bản chất của quan hệ sản xuất. Tính vật chất của quan hệ thể
hiện ở chỗ nó tồn tại khách quan độc lập hoàn toàn với ý thức của con người.
Mác đã chỉ rằng: trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có
những quan hệ nhất định tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ. Tức là
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ.
2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
2.1. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến
đổi của quan hệ sản xuất.
Để nâng cao năng suất lao động và giảm lao động nặng nhọc, con người
đã không ngừng cải tiến và chế tạo ra những công cụ lao động mới. Đồng thời
với sự tiến bộ của công cụ sản xuất là sự phát triển ngày càng cao của tri thức
khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao động.
Tính năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải
thích ứng với nó. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và
biến đổi của quan hệ sản xuất khi không thích ứng với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn này trong xã hội có giai cấp đối kháng là
mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng. Lịch sử đã chứng minh, do sự phát
triển không ngừng của lực lượng sản xuất loài người đã bốn lần thay đổi quan

hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội, dãn đến sự ra đời nối tiếp
nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất.
Tuy bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính chất là hình thức,
quan hệ sản xuất cũng có những tác độngnhất định trở lại đối với lực lượng
sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất nó sẽ trở thàng động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lỗi
thời , lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
2.3. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa
tư liệu sản xuất và người lao động .
Mở ra điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất , tinh thần đối với
người lao động .Nhưng lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển còn quan hệ
sản xuất có xu hướng tương đối ổn định . Khi lực lượng sản xuất phát triển
lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa , trở
thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt
giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu
dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một quan hệ sản xuất
mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực lượng sản xuất, mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển .
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ , thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra
đời của phương thức sản xuất mới. Trong xã hội co giai cấp đối kháng mâu

thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các
cuộc cách mạng xã hội .
3. SỰ PHÙ HỢP VÀ TÍNH MÂU THUẪN CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
3.1. Tương quan giữa sự phù hợp về tính chất với sự phù hợp về trình
độ trong sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất và trình độ nói chung thuộc phạm trù
lượng, tính chất của lượng sản xuất và tính chất nói chung thuộc phạm trù
chất. Trên cơ sở những tương quan giũa trình độ và tính chất nói chung từ đó
suy ra những tương quan cần thiết giữa trình độ và tính chất của lực lượng sản
xuất:
* Sự phù hợp của LLSX bao hàm sự phù hơp của QHSX
Lượng biến đổi dẫn đến chất cũng biến đổi, nhưng sự biến đổi của lượng
diễn ra nhanh hơn sự biến đổi của chất. Ở một giai đoạn nào đó , sự biến đổi
về lượng chưa tạo ra những biến đổi về chất. Trình độ của lực lượng sản xuất
đã biến đổi và đạt được những tiến bộ nhất định, nhưng tính chất của nó chưa
có sự thay đổi. Điều đó có nghĩa là trong một giai đoạn nào đấy,nếu giải quyết
được sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất thì
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất của nó cũng được giải quyết.
Hay nói cách khác, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lượng
sản xuất bao hàm sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất của nó.
Trên cơ sở đó ta có thể kết luận: trong giai đoạn sự biến đổi về trình độ
chưa làm cho lực lượng sản xuất có sự thay đổi về tính chất thì sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất diễn ra trước và bao
hàm sự phù hợp của quan hệ sản xuất vớitinhs chất của nó. Sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất do đó được quyết định bởi sự phù
hợp về trình độ.

9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.2. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất khi lực
lượng sản xuất xuất hiện chất mới.
Những năm gần đây, các đảng cộng sản ở một số nước xã hội chủ nghĩa
đã tiến hành tổng kết làm rõ nhiều vấn đề trong đó có những vấn đề nhận thức
và vân dụng quy luật này. Nghị quyết đại hội VI của đảng đã chỉ ra: lực lượng
sản xuất bị kìm hãm không chỉ do quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan
hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Các nhà lý luận, từ nhiều góc độ khác nhau cùng nghiên cứu luận giải
quy luật này. Nhiều công trình đã có những đóng góp thiết thực vào việc làm
thế nào cho đúng với các vấn đề của quy luật này và vận dụng nó như thế nào
trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình để phát triển lực lượng sản xuất.
Từ góc dộ tính chất của lực lượng sản xuất và tương quan giữa chúng,
chúng ta đã tìm hiểu vấn đề phù hợp đặt ra trong quy luật này ở hầu hết những
trường hợp cần thiết . Những vấn đề đặt ra đã cơ bản được giải quyết , có thể
kết luận: trong sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất thì sự
phù hợp về trình độ luôn đặt ra trước và bao hàm sự phù hợp về tính chất.
Giải quyết yêu cầu phù hợp về trình độ cũng đồng thời là việc giải quyết yêu
cầu phù hợp về tính chất. Do vậy sự phù hợp về tính chất là điều không cần
thiết phải đặt ra và nêu lên trong quy luật. Đó chính là điều C.Mác khi phân
tích quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất thì hầu như chỉ xét
đến trình độ của lực lượng sản xuất chính là sự phù hợp về trình độ.
Qua phân tích trên ta có thể gọi tên của quy luật là” quy luật phù hợp của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất “.
10

×