Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

ĐÔI NÉT VỀ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI THỜI HÙNG VƯƠNG.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.42 KB, 3 trang )

ĐÔI NÉT VỀ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI THỜI HÙNG VƢƠNG
Một trong những yếu tố dẫn tới sự hình thành Nhà nước đầu tiên là do nhu
cầu tự vệ chống ngoại xâm, do đó quân sự thời Hùng Vương là mặt được
quan tâm phát triển hơn các lĩnh vực khác. Điều này có thể thấy rõ hơn
trên phương diện khảo cổ.
Trong các di chỉ khảo cổ thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên số lƣợng vũ
khí tìm thấy trong các di chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với toàn bộ hiện vật.
Nhƣng đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, tỷ lệ vũ khí tăng cao, trong di chỉ Vinh
Quang vũ khí chiếm tỷ lệ 50,6 %, Thiều Dƣơng là 59,8 %, Đông Sơn (Thanh
Hoá) là 63,29 %...
Ở các khu mộ táng, số mộ có vũ khí chôn theo cũng chiếm tỷ lệ khá cao nhƣ
ngôi mộ ở Việt Khê (Hải Phòng) số vũ khí chiếm tỷ lệ 53,7 % so với toàn bộ
hiện vật bằng đồng, tại khu mộ táng ở Làng Cả (Phú Thọ) tỷ lệ đó là 56,9 %...
Xét trên phƣơng diện tổng quát, ở chính quyền trung ƣơng có một lực lƣợng
quân đội thƣờng trực, tƣơng đối có tổ chức. Vua Hùng, Lạc hầu đều có lực
lƣợng thân binh để hộ vệ và làm chủ lực trong các cuộc chiến tranh; dƣới các
bộ, Lạc tƣớng cũng có đội quân riêng của mình.
Tuy nhiên, quân đội thƣờng trực thời đó chƣa nhiều, vì vậy khi có chiến tranh,
mọi lực lƣợng chiến đấu và hậu cần đều đƣợc huy động trong thành viên các
công xã. Thành viên công xã khi bình thƣờng thì sản xuất, khi có chiến tranh sẽ
sẵn sàng chiến đấu theo lệnh của thủ lĩnh quân sự địa phƣơng. Đây là lực lƣợng
quân sự quan trọng của nhà nƣớc thời Hùng Vƣơng, là nền móng của chiến
tranh nhân dân và chính sách “ngụ binh ƣ nông” sau này.


Thánh Gióng trong tranh dân gian Đông Hồ.
Điều đó phản ánh qua những hình tƣợng của truyền thuyết Thánh Gióng. Khi
Gióng dẫn đầu đoàn quân ra trận đánh giặc thì ngƣời đang làm lụng ngoài đồng
cũng chạy theo giúp sức, ngƣời cầm dao, ngƣời thì vác cuốc, vác vồ đập đất;
đoàn quân còn có cả ngƣời đi săn, trẻ chăn trâu, ngƣời câu cá…
Ngành luyện kim phát triển đã tác động lớn đến việc đa dạng hóa các loại vũ


khí. Vũ khí dùng để trang bị cho quân đội gồm nhiều loại, nhiều kiểu khác
nhau. Vũ khí đánh gần có: rìu chiến, giáo, qua, dao găm, kiếm ngắn…; vũ khí
đánh xa có: lao, cung, nỏ…
Ngoài ra, có phƣơng tiện hỗ trợ chiến đấu, phòng hộ nhƣ bao tay, bao chân,
khiên, mộc, tấm đồng che ngực (hộ tâm phiên)…Trong số đó nổi bật là trống
đồng, sách Văn hiến thông khảo của phƣơng Bắc có đoạn viết: “Khi muốn đánh
nhau thì đánh trống đồng lên. Nghe tiếng trống, ngƣời đến ùn ùn nhƣ mây”. Các
sách khác của Trung Quốc cũng cho biết trong các trận đánh, ngƣời phƣơng
nam thƣờng đánh trống đồng thị oai, tiếng trống vang dội uy hiếp tinh thần đối
phƣơng.
Để cho hiện vật đúc có độ mềm cứng khác nhau tùy theo mục đích, ngƣời Việt
cổ đã thay đổi tỷ lệ đồng, chì, thiếc tức là đã luyện đƣợc các loại hợp kim khác
nhau. Đó là hợp kim đồng-thiếc, hợp kim đồng-chì, đồng-chì-thiếc. Việc thay
đổi này phù hợp với tính năng sử dụng của từng loại sản phẩm, nhƣ vũ khí và
công cụ lao động cần cứng, sắc thì tỉ lệ chì thấp, thiếc cao; còn các loại đồ dùng
nhƣ thạp, thố cần độ dẻo cao thì tỉ lệ chì nhiều, thiếc ít.
Bên cạnh đó, nhà nƣớc còn mở những xƣởng rèn đúc chuyên nghiệp để sản xuất


ra các loại vũ khí, đồng thời cũng rất quan tâm đến việc huấn luyện binh sĩ. Lực
lƣợng thủy quân cũng đƣợc phát triển gắn liền với tài bơi lặn của ngƣời Việt cổ,
trên các trống đồng có hình khắc của nhiều loại thuyền, với cả những thuyền
chiến lớn có vọng lâu ở đằng trƣớc lái…
Ngoài vũ khí tự sản xuất, trong một số di chỉ thuộc giai đoạn Đông Sơn còn
phát hiện qua đồng, một loại vũ khí thời Chiến Quốc, điều đó có thể thấy hoạt
động sản xuất và trao đổi hàng hóa xuất hiện không chỉ giữa các vùng miền
trong nƣớc mà đã mở rộng ra nƣớc ngoài. Hình thức trao đổi chủ yếu lúc bấy
giờ là vật đổi vật hoặc thông qua một vật ngang giá.
Những cơ sở nói trên cho thấy quân đội thời Hùng Vƣơng trở thành nhân tố
quan trọng trong bảo vệ đất nƣớc trƣớc các thế lực ngoại xâm mà truyền thuyết

dân gian đã phản ánh cuộc chiến đấu chống, “giặc Ân”, “giặc Hồ Tôn”, “giặc
Mũi Đỏ”, “giặc Thục”… Điều này đƣợc ghi chép trong rất nhiều bản thần tích
của các làng xã, dƣờng nhƣ nó phản ánh một hiện thực nào đó chứ không phải
hoàn toàn là chuyện huyền thoại.
Trong số những loại giặc, có thể xác định đƣợc một số, nhƣ giặc Hồ Tôn tức
ngƣời Lâm Ấp, giặc Ai Lao tức ngƣời Bộc ở vùng đất Dạ Lang (nay thuộc
Trung Quốc).
Nhu cầu tăng cƣờng và tổ chức quân đội nhằm bảo vệ đất nƣớc và chống ngoại
xâm còn thúc đẩy sự hình thành nền võ thuật cổ truyền Việt Nam.
Manh nha từ những động tác đơn giản của hoạt động săn bắn thời công xã
nguyên thủy và tự vệ đã hình thành ý thức luyện tập từ bản năng đến có ý thức
và nâng cao dần thành kỹ năng lao động, chiến đấu. Từ chỗ dùng cơ bắp thuần
túy đến chỗ sáng tạo và cải tiến sao cho ngày càng có hiệu quả hơn. Chính
những động tác săn bắn thú rừng, đánh bắt hải sản đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần
đã tạo nên những thế võ sơ khai.
Dấu tích về các địa danh nhƣ Cẩm Đội, Đồng Cẩm, Gò Tro ở Việt Trì (địa bàn
xƣa là kinh đô nƣớc Văn Lang) với sự truyền tụng bao đời nay rằng đó là nơi
quân lính thời Hùng Vƣơng huấn luyện, tập võ, tập trận… cho thấy sự phát triển
của võ thuật và ý thức rèn luyện quân sự của Nhà nƣớc Việt Nam thời cổ đại.
Thái Dũng (sƣu tầm)



×