Bài học lớn về xây dựng Ðảng.doc

10 240 0
Bài học lớn về xây dựng Ðảng.doc

Đang tải... (xem toàn văn)

Thông tin tài liệu

Bài học lớn về xây dựng Ðảng

Bài học lớn về xây dựng Ðảng07/11/2007Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917 và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong hơn 70 năm sau đó, cùng với tác động sâu sắc của những thắng lợi ấy đến các phong trào cách mạng trên thế giới, đã thật sự làm thay đổi số phận của nước Nga và nhiều dân tộc khác, đánh dấu một bước tiến lớn của nhân loại trong tiến trình lịch sử.Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Ðông Âu, kéo theo thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vào cuối thế kỷ 20 lại là một bước lùi dù đó là tạm thời.Từ những sự kiện ấy, có thể rút ra rất nhiều bài học. Bài học đầu tiên, cũng là bài học lớn đề cập ở đây chính là bài học về vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản và về công tác xây dựng Ðảng.Sở dĩ Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa ở Liên Xô thành công to lớn và có ý nghĩa lịch sử trọng đại đến như vậy, đó chính là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn và sáng tạo của lãnh tụ thiên tài V.I. Lê-nin và Ðảng Bôn-sê-vích Nga, sau này là Ðảng Cộng sản Liên Xô. Với sự đúng đắn ấy, Ðảng của những người cộng sản đã động viên hàng trăm triệu con người nhất tề đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới, và vào những lúc lâm nguy, đã không ngần ngại hy sinh của cải và tính mạng của mình để bảo vệ Tổ quốc và chế độ, trong đó cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đánh sập chủ nghĩa phát xít là một minh chứng. Còn trong sự sụp đổ đã diễn ra, sở dĩ cách mạng gặp thất bại to lớn đến như vậy, điều trước tiên không thể không nói đến vẫn là sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, nhưng kết luận lần này là ngược lại trước. Ở đây, vào những thập niên cuối thế kỷ, Ðảng đã phạm nhiều sai lầm về đường lối, chính trị, tư tưởng cũng như tổ chức, nhất là sai lầm trong cải tổ, đã đẩy đất nước vào tình trạng trì trệ kéo dài, Ðảng xa rời mục tiêu và những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, xa rời nhân dân, buông lỏng vai trò lãnh đạo. Cho nên, vào thời điểm lâm nguy, đã không hiệu triệu được quần chúng nhân dân, còn quần chúng nhân dân thì tỏ ra thờ ơ, mất phương hướng.Bài học lớn rút ra được là ở nước nào cũng vậy, muốn cho Ðảng Cộng sản thật sự là lực lượng lãnh đạo và là đội tiên phong chiến đấu của cách mạng thì Ðảng phải nắm vững ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể, tìm ra đường lối, hình thức và phương pháp cách mạng đúng đắn để giành thắng lợi. Ðảng phải xây dựng sự vững mạnh của mình về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; thật sự phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dựa vào sức mạnh của nhân dân, phát huy sức sáng tạo của nhân dân; thường xuyên thông qua công tác xây dựng Ðảng mà tăng cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng và đạo đức, nhất là bệnh quan liêu, xa dân, tham nhũng và lãng phí, những nguy cơ đe dọa sự mất còn của Ðảng, của chế độ.Ở nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ trước đến nay, Ðảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng Ðảng. Nhờ đó mà trong các bước thăng trầm của cách mạng, Ðảng ta đều giữ vững được ngọn cờ tiên phong, lãnh đạo nhân dân ta liên tiếp giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến cứu nước cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay. Không ai có thể tự cho mình là toàn thiện toàn mỹ. Ðảng ta cũng vậy. Trong hoạt động của mình, bên cạnh những thành tựu to lớn, vào lúc này hay lúc khác, trên mặt công tác này hay mặt công tác khác, Ðảng cũng đã vấp phải những sai lầm và khuyết điểm, trong đó có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng. Nhưng đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân và dân tộc lên trên hết, Ðảng đã trung thực và dũng cảm tự phê bình và phê bình về các sai lầm, khuyết điểm đó, tự chịu trách nhiệm trước nhân dân, cam kết sửa chữa, nhờ đó đã được nhân dân đồng tình ủng hộ, tìm cách khắc phục để vượt qua khó khăn và thử thách.Trong sự nghiệp đổi mới mấy chục năm qua, đặc biệt là trong hơn mười năm gần đây, Ðảng ta chủ trương lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Ðảng làm nhiệm vụ then chốt. Then chốt vì chỉ có thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Ðảng thì mới có điều kiện thực hiện tốt các nhiệm vụ khác. Trong xây dựng Ðảng, Ðại hội VI chủ trương Ðảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nhằm khẳng định bản chất cách mạng của Ðảng, đồng thời đề cao trách nhiệm của Ðảng đối với dân tộc, Ðại hội X thay đổi cách diễn đạt về Ðảng: "Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, .". Ðại hội quyết định: "Trong những năm sắp tới, phải dành nhiều công sức tạo được sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Ðảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Ðảng; xây dựng Ðảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Ðây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Ðảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta".Trọng tâm và mũi nhọn của nhiệm vụ xây dựng Ðảng lúc này là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực tổng kết lý luận - thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Ðảng. Ðó còn là năng lực lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Nâng cao sức chiến đấu của Ðảng có nghĩa là làm cho từng cán bộ, đảng viên và từng tổ chức, từng cấp ủy đảng, nói chung là toàn Ðảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái trong Ðảng và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được tiến hành từ sau Ðại hội X đến nay là nhằm vào các phương hướng nêu trên.Thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình trong nội bộ; thường xuyên rèn luyện để nâng cao năng lực, phẩm chất và đạo đức, đó là những công việc phải làm của một đảng cách mạng chân chính. "Một dân tộc, một Ðảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"(*). Ðó là lời cảnh tỉnh mà Bác Hồ đã nêu lên từ cách đây 40 năm cho mọi tổ chức đảng và cho mỗi đảng viên khi đã trở thành người cầm quyền.Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta(Cập nhật: 18/1/2007)Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã có bước phát triển rõ rệt về trình độ lý luận, tư duy lý luận của Đảng đã được đổi mới và có những tiến bộ đáng kể. Những thành tựu tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng, tăng cường sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, góp phần vào những thành công to lớn của Đảng và nhân dân ta trong công cuộc đổi mới.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, như Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nhận định “công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội"(1). Hiện nay còn nhiều vấn đề trong nước và thế giới đặt ra mà lý luận chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Nói chung trình độ tư duy lý luận của Đảng về nhiều mặt vẫn trong tình trạng bất cập so với yêu cầu của thực tiễn cách mạng, vì vậy vai trò tiên phong, dẫn đường của lý luận cách mạng bị hạn chế.Những yếu kém, bất cập của công tác lý luận do nhiều nguyên nhân (khách quan và chủ quan) trong đó có những nguyên nhân chủ quan về lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành ; về chế độ, chính sách ; về xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận ; về cơ chế nghiên cứu lý luận ; về đào tạo, bồi dưỡng lý luận ; về cơ sở vật chất cho công tác lý luận.Bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nhất là sau sự kiện 11-9 ở Mỹ, sự kiện Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Irắc… Ở nước ta, công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu càng bộc lộ nhiều vấn đề mới, phức tạp đòi hỏi lý luận phải làm sáng tỏ. Trong Đảng ta, một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, phai nhạt về lý tưởng, thậm chí một số người hoài nghi, dao động về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình", trong đó trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận bằng các phương tiện thông tin đại chúng, chúng tung ra các quan điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải đẩy mạnh công tác lý luận, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX, chuẩn bị tiến tới Đại hội X của Đảng. Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ bao trùm và cấp bách của công tác lý luận của Đảng là nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ; bám sát và đẩy mạnh tổng kết thực tiễn đổi mới ; tham khảo có chọn lọc lý luận và kinh nghiệm nước ngoài, tăng cường nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm sáng tỏ hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định : “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn ; từng bước cụ thể hóa, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng ; đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng sai trái”(2).Trong thời gian tới, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới" chúng ta phải phấn đấu đẩy mạnh hơn một bước công tác lý luận, làm chuyển biến thực sự công tác lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tập trung trí tuệ toàn Đảng để giải đáp cho được những vấn đề bức xúc xoay quanh công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Đó chính là phải làm rõ về mặt lý luận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới ; phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực ; đặc điểm, nội dung cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và sự phát triển của kinh tế tri thức ; những tác động nhiều mặt của quá trình toàn cầu hóa ; dự báo các xu thế phát triển chủ yếu của thế giới và khu vực ; những vấn đề lý luận phục vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại ; những vấn đề dân tộc, tôn giáo v.v Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ trên đây cần phải có những giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ, kiên quyết, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổng kết lý luận - thực tiễn.Đến cuối năm nay, chúng ta sẽ trải qua nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Và đến năm 2006, sẽ tiến hành Đại hội X của Đảng, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tròn 20 năm. Hai mươi năm đổi mới không phải là thời gian dài so với lịch sử dân tộc, song đây là giai đoạn lịch sử có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Đảng ta và dân tộc ta, nó đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức, tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nó đưa đến những thành tựu rất to lớn của Đảng và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng định sức sống của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, tăng thêm ảnh hưởng và uy tín nước ta trên trường quốc tế trong bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Hai mươi năm đổi mới cũng là thời gian nhân dân ta đứng trước nhiều thử thách khắc nghiệt của lịch sử nhất là khi Liên Xô tan rã và đã vượt qua một cách thắng lợi. Đây cũng là thời kỳ nhiều vấn đề to lớn về quy mô, về tầm vóc, về tính phức tạp cũng như về tính mới mẻ chưa có tiền lệ trong lịch sử đặt ra cho Đảng ta. Những vấn đề này vừa mang tính thực tiễn vừa mang tính lý luận sâu sắc cần phải được tổng kết, được soi sáng, khái quát về mặt lý luận. Đó cũng chính là nhiệm vụ tổng kết đường lối đổi mới của Đảng ta qua 20 năm, thông qua tổng kết mà làm sáng tỏ hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta để chuẩn bị cơ sở lý luận cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn tiếp theo.Vì vậy, vừa qua Bộ Chính trị đã quyết định tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới ; Bộ Chính trị cũng đã quyết định lập Ban Chỉ đạo tổng kết do đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh làm Trưởng ban, Hội đồng Lý luận Trung ương là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo tổng kết. Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã có Chỉ thị số 24-CT/TW về tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Chỉ thị đã nêu rõ mục đích của tổng kết là nhằm "khẳng định những thành tựu, tiến bộ, chỉ ra những hạn chế và thiếu sót trong quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng ta, phân tích nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm ; phát hiện những nhân tố mới và những vấn đề mới về lý luận trong quá trình đổi mới ; làm sáng tỏ hơn về lý luận một số vấn đề chủ yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ; lý giải, kết luận một số vấn đề lý luận - thực tiễn còn ý kiến khác nhau hoặc mới nảy sinh trong quá trình đổi mới ; góp phần bổ sung, hoàn chỉnh Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và cung cấp luận cứ khoa học cho việc soạn thảo các Văn kiện Đại hội X của Đảng”.Với mục đích như vậy, việc tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới là việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, các cấp, các ngành, là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận nước ta, trong đó trách nhiệm chính tham gia tổng kết là các ban Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương ; một số tỉnh ủy, thành ủy ; một số viện và trường đại học lớn, 8 Chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005… Bộ Chính trị đã cho ý kiến về nội dung tổng kết, trong đó tập trung vào 5 vấn đề lớn là :1- Đặc điểm mới của thời đại, những xu hướng chủ yếu của thế giới hiện nay.2- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.3- Tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển.4- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.5- Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới.Từ kết quả tổng kết lý luận - thực tiễn 5 vấn đề nêu trên, đánh giá khái quát quá trình đổi mới và việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trên cơ sở đó làm sáng tỏ hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ; đối chiếu với Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, để bổ sung, phát triển, hoàn thiện Cương lĩnh đó.Việc lựa chọn các vấn đề tổng kết cần phải tập trung, tránh phân tán, dàn trải, phải thiết thực, sát với thực tiễn cuộc sống, từ thực tiễn đổi mới của đất nước mà tổng kết lý luận, sát với nội dung các vấn đề chuẩn bị cho Văn kiện Đại hội X của Đảng.Việc tổng kết phải quán triệt các quan điểm biện chứng, lịch sử, khách quan ; nhìn thẳng vào sự thật, báo cáo trung thực, phát huy tự do tư tưởng, thảo luận dân chủ.Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, với sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương, sự nhiệt tình hưởng ứng của đội ngũ cán bộ lý luận cả nước, việc tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới sẽ đạt kết quả tốt. Qua tổng kết sẽ nâng cao một bước chất lượng và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận, sẽ đề xuất được những luận điểm mới có căn cứ khoa học và những giải pháp mới, đúng đắn để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới ở nước ta tiến lên, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.Công tác xây dựng Đảng, nhân tố quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Năm 2006, năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Cà Mau cũng đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng: kinh tế tăng trưởng cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống của nhân dân được nâng lên và cải thiện nhiều mặt; an ninh - quốc phòng, an ninh chính trị được giữ vững; hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ. Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Dương Thanh Bình Nguyên nhân bao trùm tạo nên những thành tựu quan trọng đó là được sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiều mặt của các bộ, ngành Trung ương; sự đoàn kết, quyết tâm, nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Trong đó, công tác xây dựng Đảng là nhân tố quan trọng, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân, có ý nghĩa quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh.Bác tham gia tát nước, Hà Tây - 1959. Ảnh: TL Xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, ngay sau Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ tỉnh thành công, Tỉnh ủy đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh toàn diện công tác xây dựng Đảng với quyết tâm xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng và đảng viên. Trước hết, Tỉnh ủy tập trung triển khai cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh để sớm đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Trong năm qua, Tỉnh ủy đã ban hành các văn bản cụ thể hóa, chỉ đạo toàn diện các mặt công tác theo Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh như: Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm 2006; Nghị quyết về tăng cường công tác vận động nhân dân; Nghị quyết phát triển giao thông - vận tải; Nghị quyết phát triển đô thị . Đồng thời, Tỉnh ủy cũng đã kịp thời tổ chức nghiên cứu, quán triệt và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng; các Nghị quyết tiếp theo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng. Việc đề ra các nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch của Tỉnh ủy có nhiều đổi mới cả về quy trình, phương pháp và nội dung, đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, sát với thực tế, nên việc triển khai, tổ chức thực hiện ở các cấp, các ngành có nhiều thuận lợi, mang lại hiệu quả thiết thực. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy chỉ đạo sơ kết, tổng kết nhiều chủ trương, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy trên một số lĩnh vực quan trọng; qua đó rút kinh nghiệm tiếp tục chỉ đạo toàn diện các mặt công tác: xây dựng hệ thống chính trị, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đảm bảo an ninh - quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, xây dựng và phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội… Khánh thành Phủ thờ Bác tại huyện Đầm Dơi. Ảnh: Tấn Điệp Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ tỉnh đặc biệt quan tâm đến công tác chính trị tư tưởng, tạo sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và trong nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về tư tưởng chính trị, trong sạch về đạo đức lối sống, có tinh thần cách mạng tiến công, tận tụy phục vụ lợi ích của Đảng và của nhân dân. Thông qua việc tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu, học tập, quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng và thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, nhất là phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, đã tạo được sự chuyển biến rõ nét về nhận thức, ý thức trách nhiệm của đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sinh khí dân chủ, phấn khởi trong toàn Đảng, toàn dân, quyết tâm cùng hoàn thành nhiệm vụ. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu có tính chất quyết định đến toàn bộ công tác xây dựng Đảng là củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác tổ chức, cán bộ, nên ngay sau khi tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2005 - 2010, các cấp ủy đảng trong tỉnh đã tập trung rà soát, sắp xếp bộ máy tổ chức, phân công, bố trí cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là phân công cấp ủy viên phụ trách các lĩnh vực trọng yếu theo yêu cầu nhiệm vụ của cấp ủy khóa mới. Nhờ làm tốt công tác tổ chức cán bộ, tạo sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ, chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị được nâng lên đáng kể, hầu hết các cấp, các ngành đã có sự chuyển biến rõ nét trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong năm nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang tích cực thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" theo Chỉ thị số 06 của Bộ Chính trị. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" bắt đầu từ ngày 3 tháng 2 năm 2007 và tổng kết vào ngày 3 tháng 2 năm 2011. Tỉnh ủy kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh và nhân dân trong tỉnh hãy tích cực hưởng ứng và thực hiện tốt cuộc vận động có ý nghĩa rất quan trọng này, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh, xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch, vững mạnh, đưa tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững. Nhân dịp năm mới - Xuân Đinh Hợi 2007, kính chúc toàn thể đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà lập được nhiều thành tựu mới, an khang, thịnh vượng!DƯƠNG THANH BÌNHTư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản do chính Người sáng lập trong hơn 75 năm đã qua cho phép chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong một quốc gia dân tộc, bao giờ cũng có các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người, các tôn giáo khác nhau, song bao giờ cũng có lợi ích chung và cao cả của cả dân tộc. Dân tộc Việt Nam dù có nhiều giai cấp xã hội, tộc người và tôn giáo khác nhau, song người Việt Nam đều là con Hồng, cháu Lạc có lịch sử hình thành dân tộc lâu đời, có một cội nguồn văn hóa chung, có chủ nghĩa dân tộc truyền thống vững bền, có lợi ích cao cả là độc lập, tự do. Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhân dân Việt Nam có ý thức sâu bền về quyền tự chủ quốc gia dân tộc. Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo dựng và phát triển cho dân tộc Việt Nam một nền văn hóa tư tưởng rực rỡ, trong đó chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do là truyền thống của lịch sử. Đó là nền tảng văn hóa tư tưởng của sự hội tụ và đoàn kết dân tộc, là động lực vĩ đại và duy nhất của nhân dân Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khóa để mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước qua các thời kỳ cách mạng khác nhau. Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, được hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 thông qua, trong đó đã nêu cao khẩu hiệu “Việt Nam độc lập”, Việt Nam tự do và chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, uyển chuyển. Thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 75 năm qua trước hết là thắng lợi của Cương lĩnh, chiến lược đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, là thắng lợi của tư tưởng cách mạng cao cả và vĩ đại của Hồ Chí Minh - tư tưởng độc lập, tự do. Khối quần chúng đông đảo chỉ trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến trình cách mạng. Năm 1941, cùng với chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng, Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh giữa lúc nhân dân Việt Nam đang sống quằn quại trong cảnh nước sôi, lửa nóng, lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, ai cũng muốn độc lập, tự do. Thành lập Mặt trận Việt Minh là một điển hình sáng tạo của Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc. Tiếp đến trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc 1945 - 1954, mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được củng cố và mở rộng. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã ra đời, thực hiện sự đoàn kết quốc dân để làm cho nước Việt Nam được độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời tạo điều kiện mới để đoàn kết và tranh thủ những ai có thể tranh thủ được nhằm thống nhất lực lượng quốc gia dân tộc, chống chia rẽ. Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đẩy mạnh cuộc cách mạng ở miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra đời, kế tục sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Liên Việt. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã được thành lập nhằm tạo điều kiện để mở rộng khối đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Mặt trận. Đầu năm 1968, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình miền Nam Việt Nam ra đời. Đây là một tổ chức thích hợp để thu hút các tầng lớp trung gian và thượng lưu ở thành thị miền Nam vào khối đại đoàn kết dân tộc chống Mỹ cứu nước. Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi hoàn toàn. Non sông đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả nước đã được thống nhất lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho Việt Nam thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Sau khi cách mạng thành công, nhà nước của dân, do dân tộc và vì dân tộc được thành lập, chiến lược đại đoàn kết quốc gia dân tộc không chỉ được thực thi bằng cách tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi, phong phú về nội dung và hình thức tổ chức, mà còn phải liên hiệp quốc dân ở trong Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Hồ Chí Minh đề xuất và tổ chức thành công Quốc dân đại hội Tân Trào, lập ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc tháng 8 năm 1945 trong đêm trước cuộc Tổng khởi nghĩa, đặc biệt là tổ chức cuộc Tổng tuyển cử toàn dân vào tháng 1 năm 1946, để bầu ra quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân, và Quốc hội đã lập chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một chính phủ chung của cả dân tộc chứ không phải là chính phủ riêng của một đảng phái, một giai cấp nào. Đây cũng là một điển hình thành công sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong tổ chức nhà nước pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc, là một bài học vô cùng quý báu của việc thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức nhà nước. Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng đạo đức và văn minh, một “Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam”. Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.PGS.NGND LÊ MẬU HÃNGIẢI QUYẾT KIẾN NGHỊ CỦA DÂN TỪ CƠ SỞPHẠM BÁ NHIỄU(Cập nhật: 18/10/2007)Trong công tác lãnh đạo, quản lý tại các địa bàn quận, huyện, một trong những vấn đề khó hiện nay là sớm phát hiện và nắm chắc thông tin về những bức xúc của nhân dân từ cơ sở. Từ đầu năm 2005, Quận ủy Quận 10, TP. Hồ Chí Minh đã đề ra Kế hoạch 08-KH/QU của Ban Chấp hành Đảng bộ về công tác đi cơ sở của các thành viên ban chấp hành đảng bộ. Từ đó, trong các cuộc họp thường kỳ cũng như đột xuất của Ban Thường vụ, của Quận ủy, UBND quận, các vấn đề nóng hổi của dân đóng góp, đề nghị luôn được đưa ra bàn bạc ngay trong mỗi kỳ họp.Về cơ sở để nắm thông tin chính xác, nhanh. Một trong những khâu yếu khi xử lý những vấn đề nhân dân đóng góp cho các phường, các ngành của quận và Quận ủy, UBND quận là việc nắm thông tin thật của các vấn đề quần chúng phản ánh. Chính vì thế, khi đề ra Kế hoạch số 08, Quận ủy Quận 10 yêu cầu khi cấp ủy viên về cơ sở nghe dân nói, nghe chính quyền, cấp ủy hoặc đoàn thể ở phường phản ảnh, thì phải đến tận nơi sự việc xảy ra để có nhận thức đúng và thẩm định chính xác các thông tin đã được phường phản ánh và nhân dân đóng góp. Những vấn đề dân yêu cầu mà phường, quận chưa đủ thẩm quyền giải quyết, cấp ủy viên đó có trách nhiệm báo cáo và đề xuất phương án giải quyết với Thường trực Quận ủy, Thường trực UBND quận để đề nghị các sở, ban, ngành thành phố xuống kiểm tra cho ý kiến giải quyết.Từ năm 2006 đến nay, Ban Thường vụ Quận ủy đã chỉ đạo tiến hành 3 đợt đi cơ sở của tất cả các ủy viên Ban Thường vụ Quận ủy và các quận ủy viên. Đợt 1, các đồng chí ủy viên Thường vụ Quận ủy xuống làm việc với đảng ủy, UBND các phường về những vấn đề vướng mắc còn lại chưa giải quyết của năm 2005. Đợt 2, trực tiếp làm việc với 9 đơn vị hành chính sự nghiệp và phòng, ban quản lý nhà nước để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc ở cơ sở. Đợt 3, đi cơ sở nghe ý kiến của các đảng viên lão thành cách mạng, đại diện nhân dân đóng góp ý kiến về các chủ trương, nhiệm vụ do quận đề ra, cũng như những vấn đề đang gây bức xúc, lo lắng kéo dài trong nhân dân mà quận và thành phố chưa giải quyết xong.Những kết quả bước đầu hợp lòng dân.Từ những chỉ đạo thường xuyên của Thường vụ Quận ủy và kế hoạch chủ động về cơ sở theo định kỳ hằng tuần của các quận ủy viên, từ kế hoạch cụ thể của mỗi đảng bộ, chính quyền 14 phường nắm sát những vấn đề nhân dân, cán bộ các tổ dân phố, khu phố phản ánh, đề đạt đã giúp cấp ủy viên của quận có điều kiện giải quyết, hoặc đề nghị lên Ban Thường vụ và UBND quận giải quyết trong kỳ sớm nhất.Đối với những kiến nghị của cơ sở phường, của dân, tập thể Thường vụ Quận ủy và Thường trực UBND quận đã làm việc trực tiếp với đảng ủy, UBND 14 phường. Đã có 144 nội dung cụ thể được lãnh đạo Quận 10 kết luận, trong đó có những nội dung đã gây bức xúc cho nhân dân tồn đọng từ năm 2005. Những nội dung trên tập trung vào các loại việc thuộc một số lĩnh vực như sau:Về kinh tế: Có 12 nội dung (8,33%) nhân dân kiến nghị điều chỉnh mức khoán chỉ tiêu các loại thuế, vấn đề mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác và khoán kinh phí hỗ trợ hoạt động và thực hiện các khoản thu cho cấp phường (phường 3, 7, 11); phân cấp quản lý chợ, bãi giữ xe tại phường (phường 3, 6). Nắm được các nội dung kiến nghị trên, Quận ủy đã tổ chức cho các cấp, ngành liên quan giải quyết xong.Về xây dựng và quản lý đô thị: Đây là vấn đề có nhiều bức xúc nhất, được nhân dân đóng góp, kiến nghị nhiều nhất, với 102 nội dung, chiếm 70%. Những vấn đề mà nhân dân và các phường tập trung yêu cầu, góp ý, kiến nghị là quy hoạch mở rộng hẻm, xây dựng, sửa chữa các trụ sở làm việc; các dự án mở rộng giao thông mới ở các phường. Qua các buổi làm việc tại cơ sở của Ban Thường vụ Quận ủy với các phường, có 48 vấn đề được kết luận và xử lý ngay, 29 vấn đề thuộc thẩm quyền thành phố, 25 nội dung thuộc các phòng, ban chức năng cấp quận và trách nhiệm của các phường. Qua đó, bộc lộ rõ trình độ hạn chế trong quản lý đô thị của cấp phường và cán bộ phụ trách lĩnh vực này ở phường, giúp lãnh đạo quận có cơ sở để định ra chủ trương và giải pháp khắc phục.Các vấn đề về xây dựng Đảng, về văn hóa, xã hội: Có 30 nội dung kiến nghị, chiếm 20,83%. Nội dung kiến nghị là chế độ mua bảo hiểm y tế cho đảng viên già yếu; công tác quản lý đảng viên đi làm ăn xa, kinh phí cho công tác thẩm tra, xác minh lý lịch của người vào Đảng; kiến nghị về quy chế hoạt động của lực lượng dân phòng và dân quân chuyên trách; tách tổ dân phố, xác định địa giới hành chính giữa các phường (phường 12, 14, 15); các kiến nghị về công tác xóa đói, giảm nghèo; an ninh, trật tự, tài nguyên môi trường… Qua làm việc trực tiếp với cơ sở, công tác xây dựng đảng đã có 5/7 nội dung, lĩnh vực văn hóa, xã hội có 19/23 nội dung được quận giải quyết xong. Những nội dung còn lại quận ủy đã chỉ đạo các ngành chức năng của quận nghiên cứu, giải quyết sớm.Đối với những nội dung kiến nghị của các phòng, ban cấp quận về quản lý nhà nước và công tác hành chính sự nghiệp, các thành viên Ban Thường vụ Quận ủy, Thường trực UBND quận đã làm việc trực tiếp với lãnh đạo 9 đơn vị: Phòng tài chính - Kế hoạch, Phòng quản lý đô thị, Ban Quản lý Dự án và Đầu tư xây dựng công trình, Trung tâm y tế, Trung tâm văn hóa, Trung tâm dạy nghề, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em, Công viên văn hóa Lê Thị Riêng, Công ty Sản xuất- thương mại-xuất nhập khẩu Như Ngọc…Nội dung kiến nghị của các đơn vị này gồm 68 vấn đề là những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong chuyên môn, công tác tổ chức bộ máy, nhân sự; về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động của ngành… Lãnh đạo quận đã kết luận, chỉ đạo giải quyết. Riêng 22 nội dung thuộc thẩm quyền thành phố, quận đã đề xuất, kiến nghị cách giải quyết.Trong những cuộc tiếp xúc của các ủy viên Ban Thường vụ Quận ủy với đảng viên lão thành tại 15 phường, đã có 281 ý kiến đóng góp, chất vấn, với 17 lượt ý kiến về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp phường; 20 lượt ý kiến về nâng cao chất lượng nội dung, đổi mới phương thức sinh hoạt chi bộ và tổ đảng ở khu phố; kiến nghị cần sớm thành lập chi bộ cơ quan UBND các phường, việc thành lập đảng bộ bộ phận ở các khu phố có đông đảng viên (trên 30 đảng viên); vấn đề đảng viên đã nghỉ hưu sinh hoạt đảng một nơi, cư trú một nơi…Những nội dung mà các đảng viên lão thành của các phường phản ánh đã giúp lãnh đạo Quận 10 xây dựng các chương trình hoạt động sát với tình hình thực tế, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hơn. Vì thế các phản ảnh, kiến nghị của đảng viên lão thành từ đầu năm 2006 đến nay có 140/176 nội dung (79,55%) phải giải quyết sớm đã được Quận ủy chỉ đạo giải quyết xong. 36 nội dung còn lại được Thường vụ Quận ủy, Thường trực UBND quận chỉ đạo các ban, ngành của quận nghiêm túc nghiên cứu, đề xuất để trình UBND quận giải quyết sớm.Kinh nghiệm ban đầu.Đi cơ sở nắm tình hình xử lý và giải quyết tình hình kịp thời theo chức trách và thẩm quyền không phải là vấn đề mới. Song, trong bối cảnh bệnh quan liêu, xa rời quần chúng đang trở thành nguy cơ của Đảng cầm quyền thì việc định kỳ cấp ủy viên đi cơ sở và giải quyết những vướng mắc của cơ sở tại địa bàn của Ban Thường vụ Quận ủy Quận 10 là một kinh nghiệm tốt về đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và tổ chức đảng trong thời kỳ mới. Việc đó đã tạo ra mối quan hệ làm việc thường xuyên giữa cấp ủy quận với cấp ủy và chính quyền các phường; với các ban, ngành của quận, các đảng viên lão thành và nhân dân ở cơ sở, giúp lãnh đạo quận nắm chắc thông tin, xử lý các kiến nghị của cơ sở đúng đắn và kịp thời hơn.Kinh nghiệm cho thấy, cần phân ra từng loại vấn đề với các nội dung khác nhau. Trên cơ sở đó giúp các đồng chí ủy viên ban thường vụ, các quận ủy viên phụ trách từng lĩnh vực công tác nắm sát, đúng những vướng mắc, kiến nghị và yêu cầu của cơ sở, soi rọi lại những điều chưa hợp lý để trình lãnh đạo quận và các ban, ngành cấp trên giải quyết sớm.Thực tế tại các cơ sở phường, quận, nhất là những nơi tập trung đông các đơn vị trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các cơ sở kinh tế của Trung ương, của Thành phố thì lượng người nhập cư cao. Nên trong những kiến nghị của dân, nhất là về quản lý đô thị thường có nhiều phức tạp, nhiều vấn đề còn bất cập. Do vậy, đòi hỏi sự sâu sát cơ sở, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của các ban đảng để tham mưu giúp Quận ủy và từng thành viên nắm bắt nhanh và đúng vấn đề, xử lý có trọng tâm, trọng điểm các yêu cầu của cơ sở.Giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh từ cơ sở, những bức xúc, kiến nghị chính đáng của dân là giải pháp cơ bản khắc phục tình trạng khiếu kiện vượt cấp, đông người, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động hiện nay. [...]... của một đảng phái, một giai cấp nào. Đây cũng là một điển hình thành cơng sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc trong tổ chức nhà nước pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc, là một bài học vô cùng quý báu của việc thực thi chiến lược đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng, tổ chức nhà nước. Hồ Chí Minh đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết... thức làm nịng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. PGS.NGND LÊ MẬU HÃN GIẢI QUYẾT KIẾN NGHỊ CỦA DÂN TỪ... Trải qua hơn 20 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thắng lợi hồn tồn. Non sơng đã thu về một mối. Năm 1976, các tổ chức Mặt trận trong cả nước đã được thống nhất lại thành một mặt trận chung lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện sứ mạng đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau xây dựng lại đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, làm cho Việt Nam thành một quốc gia dân giàu,... tin về những bức xúc của nhân dân từ cơ sở. Từ đầu năm 2005, Quận ủy Quận 10, TP. Hồ Chí Minh đã đề ra Kế hoạch 08-KH/QU của Ban Chấp hành Đảng bộ về công tác đi cơ sở của các thành viên ban chấp hành đảng bộ. Từ đó, trong các cuộc họp thường kỳ cũng như đột xuất của Ban Thường vụ, của Quận ủy, UBND quận, các vấn đề nóng hổi của dân đóng góp, đề nghị ln được đưa ra bàn bạc ngay trong mỗi kỳ họp. Về. .. mạng thành công, nhà nước của dân, do dân tộc và vì dân tộc được thành lập, chiến lược đại đồn kết quốc gia dân tộc khơng chỉ được thực thi bằng cách tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi, phong phú về nội dung và hình thức tổ chức, mà còn phải liên hiệp quốc dân ở trong Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hịa . nhiều bài học. Bài học đầu tiên, cũng là bài học lớn đề cập ở đây chính là bài học về vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản và về công tác xây dựng Ðảng. Sở. Bài học lớn về xây dựng Ðảng0 7/11/2007Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917 và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên

Ngày đăng: 17/08/2012, 22:19

Hình ảnh liên quan

Việt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước - Bài học lớn về xây dựng Ðảng.doc

i.

ệt Nam là một quốc gia dân tộc đã hình thành sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước Xem tại trang 7 của tài liệu.

Từ khóa liên quan

Tài liệu cùng người dùng

  • Đang cập nhật ...

Tài liệu liên quan