Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

giáo trình kinh tế vĩ mô i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

Chủ biên: TS. NGUYỄN PHÚC THỌ

GIÁO TRÌNH

KINH TẾ VĨ MÔ - I
(Tái bản lần thứ nhất)

Tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu và tỷ trọng XK/GDP- %

HÀ NỘI - 2009
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..0


LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta từ khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước (1986 - Mô hình kinh tế hỗn hợp), nền kinh tế tồn tại sự vận hành song
song của hai cơ chế: cơ chế thị trường và cơ chế phi thị trường. Đúng như GS. Paul A.
Samuelson (1967) viết “Cả thi trường và Chính phủ đều cần thiết cho một nền kinh tế vận
hành lành mạnh, thiếu một trong hai điều này thì hoạt động của nền kinh tế hiện đại chẳng
khác gì vỗ tay bằng một tay”. Đúng vậy, kinh tế thị trường điều tiết nền kinh tế theo cơ chế
“Bàn tay vô hình” thông qua các biến số kinh tế như: cung, cầu, giá cả, lợi ích kinh tế... Song
mô hình kinh tế thị trường không phải là mô hình kinh tế hoàn toàn tối ưu, mà chính trong
lòng nó vốn có những mặt trái, những khuyết tật những thất bại mà con người không mong
muốn. Những khuyết tật của kinh tế thị trường như: Cạnh tranh không hoàn hảo, độc quyền
gây tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng; Ảnh hưởng ngoại ứng, ngoại ứng tiêu cực…;
Thiếu hụt hàng hóa công cộng; Thông tin không đối xứng… Bởi vậy, việc trang bị cho sinh


viên Kinh tế, Kinh tế phát triển, Quản trị kinh doanh, Kế toán… những kiến thức cơ bản về
vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế hỗn hợp, cách thức can thiệp và phương pháp đánh
giá tác động của những chính sách Chính phủ sử dụng để điều tiết nền kinh tế là hết sức cần
thiết. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, môn học KINH TẾ VĨ MÔ ra đời và đã đưa vào
chương trình giảng dạy rất sớm cho sinh viên chuyên ngành kinh tế và một số chuyên ngành
kỹ thuật trong trường. Trong xu thế hội nhập, sách kinh tế học nói chung, Kinh tế Vĩ mô nói
riêng được dịch, biên soạn phát hành khá đa dạng. Để đáp ứng yêu cầu học tập, tham khảo
cho cán bộ và sinh viên trong trường giáo trình Kinh tế Vĩ mô trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội được xuất bản lần đầu vào năm 2006, do GVC.TS.Nguyễn Phúc Thọ chủ biên, cùng
tập thể cán bộ giảng dạy của Bộ môn Kinh tế, Khoa Kinh tế & PTNT biên soạn. Với sự phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, nhiều vấn đề lý luận cần
hoàn thiện, thực tiễn cần bổ sung, nhằm phục vụ tốt nhất cho người học, giáo trình KINH TẾ
VĨ MÔ - Tập I được tái bản. Lần tái bản này, trên tinh thần kế thừa các nội dung của giáo
trình đã xuất bản năm 2006, đồng thời có bổ sung, chỉnh lý làm rõ một số vấn đề về lý luận và
liên hệ thực tiện sinh động hiện nay. Ngoài ra sách còn bổ sung thêm nội dung tóm tắt
chương, một số thuật ngữ tiếng anh có liên quan, câu hỏi ôn tập và bài tập ứng dụng. Tất cả
những vấn đề nêu trên đều nhằm nâng cao tính khoa học, tính hiện đại và tính Việt Nam của
giáo trình.
Giáo trình Kinh tế Vĩ mô - Tập I tái bản gồm 7 chương, được chỉnh sửa bổ sung do
TS. Nguyễn Phúc Thọ chủ biên và các tác giả


TS. Nguyễn Phúc Thọ Chỉnh sửa, bổ sung chương III, IV, V



TS. Nguyễn Tất Thắng chỉnh sửa bổ sung chương I, II




ThS. Lê Bá Chức chỉnh sửa, bổ sung chương VI



TS. Trần Văn Đức chỉnh sửa bổ sung chương VII

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..1


Bộ môn Kinh tế xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu Nhà trường đã tạo mọi
điều kiện để Bộ môn hoàn thành biên soạn giáo trình KINH TẾ VĨ MÔ - Tập I. Đặc biệt xin
chân thành cảm ơn TS. Phạm Văn Hùng phản biện và đóng góp nhiều ý kiến trong quá trình
biên soạn, chỉnh sửa, bổ sung trong lần tái bản này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót.
Tập thể tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các bạn đồng nghiệp,
anh chị em sinh viên và của tất cả bạn đọc!
Mọi liên hệ xin gửi về: Bộ môn Kinh tế, Khoa Kinh tế &PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
Điên thoại: 04.38769768
Tập thể tác giả!

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..2


Chương 1
ĐẠI CƯƠNG VỀ KINH TẾ HỌC

1.1 MƯỜI NGUYÊN LÝ CỦA KINH TẾ HỌC
Thuật ngữ Kinh tế (Economy) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Người quản lý một
hộ gia đình”. Mới nhìn qua điều này có vẻ lạ lùng, nhưng trên thực tế hộ gia đình và nền kinh
tế có nhiều điểm chung.
+ Hộ gia đình phải đối mặt với nhiều quyết định, cụ thể như: nó phải quyết định mỗi
thành viên trong gia đình phải làm việc gì và nhận được cái gì, ai là người nội trợ, ai làm việc
nhà nước, ai đi làm thuê cho tư nhân, ai đi học, ai được uống bia, ai được chọn chương trình ti
vi... Nói tóm lại, hộ gia đình phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình giữa các thành viên
sống chung một mái nhà sao cho phù hợp với năng lực và ước muốn của mỗi người.
+ Xã hội phải đối mặt với nhiều quyết định. Ví dụ: cần phải làm cái gì và ai sẽ làm việc
đó. Một số người sản xuất lương thực thực phẩm, một số người sản xuất quần áo, thuốc chữa
bệnh, một số người khác làm dịch vụ cắt tóc, gội đầu, hoặc thiết kế phần mềm máy tính... Một
khi xã hội đã phân bổ nguồn lực (đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị, lao động...) vào những
ngành nghề lĩnh vực khác nhau, nó cũng phải phân bổ sản lượng hàng hoá dịch vụ được sản
xuất ra cho các thành viên trong xã hội, ai ăn thịt, ai phải ăn rau, ai đi xe con và ai phải đi xe
máy, xe đạp hoặc xe buýt. Vì thế, việc quản lý nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì
nguồn lực khan hiếm. Khái niệm khan hiếm hàm ý xã hội vấp phải sự giới hạn về nguồn lực
cho nên nó không thể sản xuất mọi thứ hàng hoá dịch vụ như mọi người mong muốn. Giống
như một gia đình không thể đáp ứng mọi mong muốn của tất cả mọi người, xã hội không thể
làm cho tất cả mọi thành viên có mức sống cao nhất như mong muốn của họ.
Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu phương thức xã hội quản lý và sử dụng nguồn
lực khan hiếm. Trong hầu hết các xã hội, nguồn lực được phân bổ không phải bởi một nhà
hoạch định duy nhất ở trung ương mà thông qua các hoạt động qua lại của hàng triệu hộ gia
đình và doanh nghiệp. Vì thế, nhà nghiên cứu kinh tế muốn xem mọi người ra quyết định như
thế nào trong sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Đồng thời các quyết định của cá nhân
đó ảnh hưởng như thế nào đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đến sự gia tăng thu nhập,
mức sống của cư dân, đến tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp.
Mặc dù kinh tế học nghiên cứu nền kinh tế dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng môn
học này thống nhất với nhau ở một số ý tưởng cơ bản mà chúng ta tạm gọi đó là Ba bài học
được thể hiện bằng Mười nguyên lý của Kinh tế học. Nó cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng

quan về kinh tế học.
Nền kinh tế thực chất chỉ là sự phản ánh hành vi của các cá nhân trong quá trình sinh tồn
của họ. Những hành vi này thường gắn liền với cách thức ra quyết định của cá nhân và được
chi phối bởi bốn nguyên lý sau:

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..3


Nguyên lý 1: Con người phải đối mặt với sự đánh đổi
Ngạn ngữ có câu: “Mọi thứ đều có giá của nó”, điều đó có nghĩa là được cái này thì phải
mất cái khác. Quá trình ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu này để đạt một mục tiêu
khác.
+ Với một sinh viên: Trong điều kiện nguồn lực về thời gian có hạn, để có một giờ học
tập, sinh viên này phải từ bỏ một giờ đi chơi thăm bạn bè, hoặc xem tivi giải trí.
+ Với một hộ gia đình: Khi ra quyết định chi tiêu với thu nhập hiện có, người chủ gia
đình phải đối mặt với sự đánh đổi. Họ có thể mua thực phẩm, quần áo hay đưa cả nhà đi nghỉ
mát. Họ cũng có thể tiết kiệm một phần thu nhập cho lúc tuổi già hay đầu tư cho con cái học
tập. Như vậy, khi quyết định chi tiêu thêm 1000 đồng cho một trong các mục đích trên, họ sẽ
mất đi 1000 đồng để chi cho các mục đích khác.
+ Với một xã hội: Con người cũng phải đối mặt với nhiều sự đánh đổi. Ví dụ kinh điển là
sự đánh đổi giữa “súng và bơ”. Khi chi tiêu cho quốc phòng càng nhiều nhằm tăng khả năng
phòng thủ đất nước (súng), chúng ta phải hy sinh nhiều hàng tiêu dùng để nâng cao mức sống
(bơ). Trong xã hội hiện đại, sự đánh đổi quan trọng là môi trường trong sạch và mức thu nhập
cao.
+ Với một nền kinh tế: Sự đánh đổi quan trọng mà các chính phủ phải đối mặt là sự đánh
đổi giữa công bằng và hiệu quả. Hiệu quả có nghĩa là xã hội đạt được kết quả cao nhất từ các
nguồn lực khan hiếm. Công bằng hàm ý lợi ích thu được từ các nguồn lực đó được phân phối
công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Nói cách khác, hiệu quả ám chỉ quy mô của chiếc

bánh kinh tế, còn công bằng nói lên phương thức phân chia chiếc bánh đó. Trong thực tế, khi
thiết kế các chính sách của chính phủ, người ta thường thấy hai mục tiêu này xung đột với
nhau.
Chẳng hạn, để thành lập các quỹ phúc lợi xã hội nhằm trợ giúp người nghèo, chính phủ
thực thi chính sách thuế thu nhập, tức là lấy đi một phần thu nhập của người giàu để chia cho
người nghèo. Khi đó, mặc dù chính phủ đã thành công trong việc đảm bảo công bằng xã hội
nhưng đã gây ra sự tổn thất nếu xét từ khía cạnh hiệu quả. Việc tái phân phối thu nhập giữa
người giàu với người nghèo đã làm giảm phần thưởng cho sự năng động sáng tạo, cần cù chịu
khó của người giàu. Người ta sẽ sản xuất ít hàng hoá hơn, với chất lượng thấp và mẫu mã kém
đa dạng hơn. Nói cách khác, khi chính phủ cố gắng chia chiếc bánh thành những phần đều
hơn thì chiếc bánh càng nhỏ lại.
Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải từ bỏ để có được nó
Vì phải đối mặt với sự đánh đổi nên khi ra quyết định, con người phải so sánh chi phí và
lợi ích của các phương án hành động khác nhau. Song trong nhiều trường hợp, chi phí của
một số hành động không phải lúc nào cũng được biểu hiện rõ ràng.
Chẳng hạn, khi quyết định đi học đại học, bạn nhận được ích lợi gì và phải chi phí như
thế nào?
+ Ích lợi của đi học là tăng thêm kiến thức và có được cơ hội làm việc tốt hơn với thu
nhập và có vị trí cao hơn trong cả cuộc đời.
+ Chi phí của nó bao gồm tiền ăn, tiền thuê nhà, tiền sách bút, học phí... Nhưng như thế
chưa đầy đủ, khoản chi phí lớn nhất của việc đi học đại học là thời gian của bạn. Bởi vì, khi
dành 4 năm đi học đại học (nghe giảng trên lớp, làm bài tập tiểu luận, thực tập...), bạn không
thể dùng thời gian này để làm một công việc nào đó - nó có thể là khoản tiền lương mà bạn
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..4


phải từ bỏ để đi học đại học, là khoản chi phí lớn nhất cho việc đi học đại học của bạn. Vì thế,
khi đi học đại học bạn đã bỏ lỡ cơ hội để kiếm một khoản thu nhập nào đó.

Như vậy, chi phí cơ hội của một thứ là cái mà bạn phải từ bỏ để có được nó. Vì vậy, khi
đưa ra một quyết định hoặc hành động nào đó, người ra quyết định phải nhận thức được chi
phí cơ hội gắn liền với quyết định đó. Trên thực tế, chi phí này xuất hiện ở khắp nơi và mức
độ cao thấp là tuỳ thuộc vào từng cá nhân.
Nguyên lý 3: Con người duy lý luôn suy nghĩ tại điểm cận biên
Các quyết định trong cuộc sống hiếm khi minh bạch mà thường ở trạng thái không rõ
ràng hoặc tranh tối tranh sáng.
Ví dụ:
+ Đến bữa ăn tối, vấn đề ta phải đối mặt không phải là ăn cái gì, ăn như thế nào mà là có
nên ăn thêm một chút nữa hay không.
+ Khi mùa thi đến, vấn đề mà người sinh viên phải đối mặt không phải là việc học bao
nhiêu giờ trong ngày mà là có nên học thêm một giờ nữa hay dừng lại để xem tivi hoặc chơi
thể thao. Các nhà kinh tế gọi đó là những thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh nhỏ và
tăng dần trong kế hoạch hành động của mỗi con người. Để có quyết định đúng đắn, con người
thường cân nhắc ích lợi mang lại và chi phí phải bỏ ra của những thay đổi cận biên đó. Tức là
so sánh ích lợi cận biên tăng thêm và chi phí cận biên tăng thêm để đưa ra quyết định. Chừng
nào ích lợi cận biên còn cao hơn chi phí cận biên thì con người sẽ quyết định hành động.
+ Một tài xế xe khách chất lượng cao Hà Nội - Hải phòng đứng trước tình huống xe còn
trống ghế và đã đến giờ phải xuất bến nhưng có 2 hành khách muốn đi ngay nhưng chỉ trả
35.000đ/vé (trong khi giá vé là 50.000đ). Khi đó, nếu quyết định không cho 2 hành khách nói
trên đi xe vì trả giá thấp hơn giá vé quy định thì quyết định này chưa đúng. Bởi vì, dù trên xe
có 15, 20, 28 hành khách thì xe vẫn phải xuất bến và vẫn phải đi đúng lộ trình theo quy định
của Ban quản lý. Khi đó, chi phí xăng dầu, lệ phí đường... vẫn như lúc xe đủ hành khách. Vì
thế, người tài xế nên cân nhắc ích lợi tăng thêm và chi phí tăng thêm nếu chở thêm hành
khách.
+ Ích lợi tăng thêm khi thu nhận thêm 1 hành khách là số tiền kiếm được từ người hành
khách đó (ở đây là 35.000đ).
+ Chi phí tăng thêm chỉ là chai nước mát và chiếc khăn cho người khách đáng giá 6.000đ.
Rõ ràng việc cho người khách kia lên xe là có lợi 29.000đ. Do đó, chừng nào mà người khách
bổ sung còn trả cao hơn 6.000đ thì việc cho anh ta đi xe còn có lợi.

Như vậy, con người sẽ đưa ra quyết định tốt hơn nếu cân nhắc suy nghĩ tại điểm cận
biên.
Nguyên lý 4: Con người phản ứng với các kích thích
Vì mọi người ra quyết định thường dựa trên sự so sánh giữa chi phí và lợi ích cho nên
hành vi của họ có thể thay đổi khi ích lợi hoặc chi phí thay đổi. Điều đó có nghĩa là con người
sẽ có phản ứng đối với các kích thích.
+ Chẳng hạn khi giá cả thịt gà tăng lên, người tiêu dùng phản ứng bằng cách ăn ít thịt gà
hơn và chuyển sang ăn nhiều thịt lợn hơn. Trong khi đó, người chăn nuôi gà lại phản ứng
ngược lại: giá thịt gà tăng sẽ kích thích họ sẽ mở rộng quy mô chăn nuôi, thuê thêm nhiều lao

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..5


động... để tăng sản lượng tiêu thụ trên thị trường nhằm tăng thêm lợi nhuận. Như vậy, giá cả
hàng hoá tăng gây nên phản ứng trái ngược nhau giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất.
+ Khi giá xăng tăng lên do nguyên nhân chủ quan (chẳng hạn Chính phủ tăng thuế nhập
khẩu xăng) điều này gây ra nhiều phản ứng. Người tiêu dùng sẽ quan tâm đến việc tiết kiệm
nhiên liệu, hoặc sử dụng loại ô tô nhỏ hơn. Nó cũng khuyến khích mọi người sử dụng phương
tiện giao thông công cộng (xe Buýt), hoặc sử dụng phương tiện cá nhân khác không dùng đến
xăng (xe đạp điện), hoặc sống gần nơi làm việc.
+ Việc Chính phủ quy định khi đi xe máy trên đường cao tốc phải đội mũ bảo hiểm để
đảm bảo an toàn tính mạng cho người lái xe khi tai nạn giao thông xảy ra. Điều này gây ra
phản ứng trực tiếp đối với người sản xuất và bán mũ xe máy. Họ sẽ bán được nhiều hàng hoá
hơn và kiếm được lợi nhuận cao hơn. Điều đó cũng làm xuất hiện một số người đứng ra hành
nghề cho thuê mũ xe máy. Nhưng nó cũng gây ra phản ứng gián tiếp đối với người đi xe máy,
họ sẽ chủ quan hơn, phóng nhanh vượt ẩu hơn và cũng rất dễ xảy ra tai nạn khi đã đội mũ xe
máy.
Vì vậy, phân tích bất cứ chính sách nào, chúng ta cũng phải xem xét đến cả hậu quả trực

tiếp lẫn hậu quả gián tiếp do các kích thích tạo ra.
Bốn nguyên lý đầu tiên bàn về cách thức ra quyết định cá nhân. Nhưng trong cuộc sống
hàng ngày, nhiều quyết định của cá nhân không chỉ ảnh hưởng đến bản thân họ mà còn tác
động đến những người xung quanh. Ba nguyên lý tiếp theo liên quan đến cách thức con người
tương tác với nhau.
Nguyên lý 5: Thương mại làm cho mọi người đều có lợi
Chúng ta thường nghe trên các bản tin thời sự rằng người Nhật là đối thủ cạnh tranh của
người Mỹ trên thị trường quốc tế, vì hai nước này cũng sản xuất những mặt hàng giống nhau:
ô tô, máy tính...
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng là đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài trong sản xuất hầu hết các mặt hàng phục vụ tiêu dùng như: xe đạp, xe máy, đồ
gia dụng, nước giải khát, rượu bia, hàng dệt may...
Vì vậy, người ta rất dễ mắc sai lầm khi nghĩ về sự cạnh tranh giữa các nước hoặc giữa
các doanh nghiệp với nhau giống như một cuộc thi đấu thể thao, trong đó luôn có kẻ thắng
người thua. Sự thật, không phải như vậy, thương mại giữa các nước luôn làm cho các bên
tham gia đều có lợi.
Điều đó xảy ra khi mỗi bên tham gia chỉ chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mình
có lợi thế về điều kiện sản xuất và trao đổi sản phẩm cho nhau. Khi đó, mỗi bên tham gia đều
có lợi. Họ sẽ mua được nhiều hàng hoá hơn, kiểu dáng đa dạng, chất lượng tốt và giá thấp
hơn. Như vậy, thương mại sẽ làm cho mọi người xích lại gần nhau bởi vì tất cả đều có lợi khi
tham gia vào hoạt động này.
Nguyên lý 6: Thị trường luôn là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế
Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ sau sự kiện các nước Đông Âu và Liên Xô
tan rã là một thay đổi quan trọng của nền kinh tế thế giới nửa cuối thế kỷ vừa qua. Các nền
kinh tế này hoạt động dựa trên tiền đề là các nhà hoạch định chính sách ở trung ương là người
quyết định mọi hoạt động của nền kinh tế theo một kế hoạch đã định. Cơ quan kế hoạch đó
quyết định xã hội sản xuất hàng hoá dịch vụ nào, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, ai
là người sản xuất và ai được phép tiêu dùng chúng. Lý thuyết hậu thuẫn cho cơ chế kế hoạch
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô


..6


hoá tập trung này cho rằng: chỉ có chính phủ mới là người tổ chức các hoạt động kinh tế để
nâng cao phúc lợi kinh tế của đất nước trên phạm vi tổng thể.
Hiện nay, hầu các nước có nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung mệnh lệnh với
công cụ quản lý kế hoạch hoá đã từ bỏ hệ thống này để phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường (kinh tế thị trường). Trong nền kinh tế thị trường, người ra quyết định là các cá nhân
(doanh nghiệp và hộ gia đình). Trong đó, các doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Các hộ gia đình sẽ quyết định làm việc cho doanh nghiệp nào, mua cái gì bằng thu nhập
của mình. Các quyết định của hai tác nhân này đều dựa vào tín hiệu giá cả hàng hoá dịch vụ
được hình thành do tác động qua lại của họ trên thị trường với mục đích tối đa hoá lợi ích
kinh tế.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường mỗi cá nhân đều được dẫn dắt bởi “Bàn tay vô
hình” - lợi ích kinh tế. Nhờ đó, các quyết định của họ đều nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích
kinh tế riêng cũng là góp phần nâng cao phúc lợi chung của xã hội. Một công cụ quan trọng
của bàn tay vô hình là giá cả. Giá cả được hình thành do quan hệ cung - cầu hàng hoá. Do vậy
nó phản ánh giá trị của hàng hoá đối với xã hội và chi phí mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó.
Hộ gia đình và doanh nghiệp nhìn vào giá cả để đưa ra quyết định của mình nên vô tình họ đã
tính đến các lợi ích và chi phí xã hội mà hành vi của họ đã tạo ra. Kết quả là, giá cả hướng
dẫn các cá nhân đưa ra quyết định mà trong nhiều trường hợp nó cho phép tối đa hoá phúc lợi
xã hội
Có một hệ quả quan trọng đối với kỹ năng của “bàn tay vô hình” trong việc định hướng
hoạt động kinh tế, khi ngăn không cho giá cả điều chỉnh một cách tự nhiên theo cung và cầu,
chính phủ cũng đồng thời cản trở khả năng của “bàn tay vô hình” trong việc phối hợp hoạt
động của hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp - những đơn vị cấu thành nền kinh tế. Hệ
quả này lý giải tại sao thuế tác động tiêu cực tới quá trình phân bổ nguồn lực: thuế làm tăng
giá đối với người tiêu dùng và giảm lãi mà người sản xuất nhận được, từ đó làm biến dạng
quyết định của hai tác nhân này, giảm lượng tiêu dùng và sản xuất. Như vậy các nhà hoạch

định ở trung ương đã thất bại vì họ tìm cách vận hành nền kinh tế mà một tay của nó - tức
“bàn tay vô hình” của thị trường bị xiềng xích.
Nguyên lý 7: Đôi khi Chính phủ có thể cải thiện được kết cục thị trường
Mặc dù thị trường là một phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế. Nhưng bản thân
nó cũng chứa đựng những sự thất bại đòi hỏi có sự can thiệp của chính phủ. Đó là tình huống
trong đó thị trường phân bổ nguồn lực không hiệu quả do: sức mạnh thị trường, ảnh hưởng
bên ngoài (ngoại ứng), hàng hoá công cộng, thông tin không đầy đủ, phân phối không công
bằng... Khi đó, chính phủ phải can thiệp vào thị trường để sửa chữa các thất bại mà thị trường
không thể giải quyết được.
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả hàng hoá được hình thành do tác động qua lại của
người sản xuất (doanh nghiệp) và người tiêu dùng. Đây là tín hiệu để các cá nhân ra quyết
định sản xuất hoặc tiêu dùng cho mình. Nhưng nếu trên thị trường chỉ có một nhà sản xuất
chẳng hạn thì họ là người quyết định giá của sản phẩm cũng như lượng sản xuất và bán ra.
Khi đó, người sản xuất thường đặt giá cao hơn giá thị trường và hạn chế cung để thu lợi nhuận
cao. Quyết định của nhà độc quyền - người có sức mạnh thị trường đã vi phạm cơ chế hình
thành giá, làm tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng. Vì vậy, với vai trò của mình, chính phủ

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..7


có thể đưa ra những luật lệ chống độc quyền, hoặc điều tiết trực tiếp buộc nhà độc quyền phải
giảm giá bán và tăng lượng sản xuất nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng.
Một nguyên nhân có thể làm thị trường thất bại là ảnh hưởng bên ngoài (ngoại ứng). Ảnh
hưởng bên ngoài là ảnh hưởng do hành vi của một người tạo ra đối với lợi ích của người
ngoài cuộc. Ví dụ kinh điển về chi phí ngoại ứng là ô nhiễm môi trường. Nếu một nhà máy
hoá chất phải chịu toàn bộ chi phí cho chất thải của nó đối với môi trường (khói, bụi, chất độc
hại…), khi đó chính phủ có thể tăng phúc lợi kinh tế thông qua các quy định về môi trường.
Thị trường và kinh tế thị trường không thể đảm bảo thu nhập được phân phối một cách

công bằng. Bởi vì các cá nhân khác nhau, vì nhiều lý do hoàn cảnh khác nhau sẽ có thu nhập
khác nhau, nhưng thị trường chỉ thoả mãn nhu cầu hàng hoá dịch vụ cho cá nhân theo khả năng
thanh toán của họ. Vì vậy, dẫn tới sự chênh lệch về điều kiện sinh hoạt, mức sống. Khi đó,
chính phủ có thể thông qua chính sách thuế và hệ thống phúc lợi xã hội để tiến tới sự phân phối
các phúc lợi kinh tế một cách công bằng hơn.
Như vậy, trong một số trường hợp, sự tham gia của chính phủ có thể cải thiện được kết
cục thị trường và hạn chế các thất bại do hoạt động của thị trường tạo nên.
Chúng ta bắt đầu bằng việc thảo luận về cách thức ra quyết định cá nhân, sau đó xem xét
phương thức các cá nhân tương tác với nhau. Những quyết định và sự tương tác này tạo thành
“nền kinh tế”. Ba nguyên lý cuối cùng liên quan đến sự vận hành của nền kinh tế nói chung.
Nguyên lý 8: Mức sống của cư dân một quốc gia phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng
hoá dịch vụ của nước đó
Sự chênh lệch mức sống trên thế giới rất đáng kinh ngạc, vào năm 1997, một người Mỹ
có thu nhập bình quân 29.000$, người Mê-hi-cô 8.000$ nhưng người Ni-giê-ria chỉ có thu
nhập bình quân đầu người là 900$ (ở Việt Nam năm 2008 khoảng 1047$). Vì thế, chất lượng
cuộc sống ở các nước này cũng có sự chênh lệch rất lớn. Công dân ở những nước thu nhập
cao có nhiều tivi, ô tô hơn, chế độ dinh dưỡng, dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ tốt hơn và tuổi
thọ cũng cao hơn người dân ở các nước thu nhập thấp.
Sự thay đổi mức sống theo thời gian cũng rất lớn. Ở Mỹ, bình quân mỗi năm thu nhập
tăng 2%/năm tức là sau 35 năm thu nhập bình quân tăng gấp đôi. Vì sao lại có sự khác biệt về
mức sống giữa các quốc gia theo thời gian? Câu trả lời thật đơn giản: đó là sự khác biệt về
năng suất lao động giữa các nước và theo thời gian. Năng suất lao động là số lượng sản phẩm
được sản xuất ra trên một lao động trong một đơn vị thời gian nhất định (giờ, ngày, tháng,
năm lao động). Những nước có năng suất lao động cao, người dân thường có mức sống cao
hơn công dân ở những nước có mức năng suất lao động thấp. Tương tự, tốc độ tăng năng suất
lao động ở một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân của quốc gia đó. Như vậy,
giữa năng suất lao động và mức sống có một mối liên hệ hữu cơ, tăng năng suất lao động là
điều kiện cần thiết để nâng cao mức sống. Do vậy, để nâng cao mức sống cho các thành viên
trong xã hội, các chính phủ phải quan tâm đến các chính sách tác động đến việc nâng cao
năng suất lao động, như chính sách đào tạo bồi dưỡng, chính sách đầu tư vốn và công nghệ,...

Tất nhiên phải kiểm soát tốt tốc độ tăng dân số.
Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi Chính phủ in quá nhiều tiền
Vào tháng 1 năm 1921, giá một tờ nhật báo ở Đức 0,3 Mác. Nhưng chưa đầy 2 năm sau,
vào tháng 11 năm 1922 cũng tờ báo ấy giá 70 triệu Mác. Giá các loại mặt hàng khác trong nền
kinh tế Đức cũng tăng tương tự như vậy. Lạm phát cao sẽ ảnh hưởng xấu tới tình hình kinh tế
xã hội, gây bất ổn kinh tế và thiệt hại cho sản xuất tiêu dùng của mỗi quốc gia. Vì vậy, giữ
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..8


cho lạm phát ở mức độ thấp là một mục tiêu mà các nhà hoạch định chính sách kinh tế trên
toàn thế giới theo đuổi.
Nguyên nhân gây ra lạm phát là gì? Trong hầu hết các trường hợp lạm phát trầm trọng
hoặc kéo dài, tất cả đều có chung một thủ phạm, đó là sự gia tăng của lượng tiền lưu thông.
Khi chính phủ in và phát hành một lượng tiền lớn, giá trị của tiền (sức mua) sẽ giảm. Đầu
những năm 1920, khi giá cả ở Đức tăng 3 lần mỗi tháng thì lượng tiền cũng tăng gấp 3 lần
mỗi tháng. Lịch sử kinh tế Mỹ cũng diễn ra hiện tượng tương tự, lạm phát cao những năm
1970 (trên 100%) đi liền với gia tăng nhanh chóng của lượng tiền và vào những năm 1990,
lạm phát chỉ khoảng 3% gắn liền với sự gia tăng chậm của lượng tiền.
Nguyên lý 10: Chính phủ phải đối mặt với sự đánh đổi trong ngắn hạn giữa lạm phát và
thất nghiệp
Một thực tế mà các nhà hoạch định chính sách thường gặp đó là khi cắt giảm lạm phát
thường gây ra tình trạng gia tăng tạm thời của thất nghiệp. Đường minh họa cho sự đánh đổi
giữa lạm phát và thất nghiệp được gọi là đường Phillips, một đường được gọi theo tên nhà
kinh tế đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ này. Theo đó, các nhà kinh tế đều thừa nhận có sự
đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. Điều này hàm ý rằng, trong khoảng thời gian
ngắn (một, hai năm) nhiều chính sách kinh tế đẩy lạm phát và thất nghiệp đi theo hướng trái
ngược nhau, bất kể thời điểm ban đầu tỷ lệ này cao hay thấp. Đường Philips cho ta thấy tỷ lệ
lạm phát cao kéo theo tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn và ngược lại. Nó gợi cho ta thấy có thể đánh

đổi lạm phát nhiều hơn để có thất nghiệp thấp hơn và ngược lại.
Đường Phillips minh hoạ sự đánh đổi thất nghiệp và lạm phát. Vào những năm 60 của
thế kỷ XX, người ta cho rằng khi tỷ lệ thất nghiệp là 2,5% thì lạm phát bằng 0% (trong ngắn
hạn).
Sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp chỉ có tính chất tạm thời, nhưng nó có thể kéo
dài trong một vài năm. Vì vậy, đường Phillips có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu các
xu thế phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt các nhà hoạch định chính sách có thể khai thác sự
đánh đổi này bằng cách vận dụng các công cụ chính sách khác nhau, như chính sách tài
khoá (thuế, chi tiêu của chính phủ), chính sách tiền tệ (lãi suất, mức cung tiền, tỷ giá hối
đoái) nhằm tác động vào mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp mà nền kinh tế đang
phải đối mặt.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ HỌC
1.2.1. Khái niệm kinh tế học
Bất cứ chế độ xã hội nào con người cũng phải đối mặt với 2 vấn đề:
+ Thứ nhất: Nhu cầu của con người, chính là mong muốn của con người về việc tiêu
dùng các sản phẩm vật chất và phi vật chất (lương thực, thực phẩm, nhà ở, thuốc men chữa
bệnh, tham quan du lịch, thưởng thức văn hoá nghệ thuật...). Trên thực tế mong muốn này là
vô hạn, không bao giờ thoả mãn được.
+ Thứ hai: các nguồn lực của sản xuất (các nguồn tài nguyên: thiên nhiên, thời gian lao
động, vốn,...) lại có hạn, khan hiếm và có thể sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.
Do đó, để tồn tại không còn cách nào khác con người phải tiến hành lựa chọn phương
thức phân bổ nguồn lực khan hiếm đó nhằm đáp ứng các nhu cầu sử dụng cạnh tranh.
Qua sự phân tích ở trên, chúng ta có thể đi đến một số khái niệm về kinh tế học như sau:
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..9


Theo P. Samuelson: Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xét xã hội sử dụng như
thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối

cho các thành viên của xã hội.
Theo David Begg (Giáo sư kinh tế học, trường Đại học tổng hợp London Anh): Kinh tế
học nghiên cứu cách thức các xã hội giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Theo N.Gregory Man Kiw (Giáo sư Kinh tế học, trường Đại học Tổng hợp Harvard Mỹ): Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu phương thức xã hội quản lý nguồn lực khan
hiếm của mình.
Như vậy: Kinh tế học là môn khoa học lựa chọn, nghiên cứu cách thức xã hội phân bổ
nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng cạnh tranh để thoả mãn nhu cầu
của con người.
Chẳng hạn, diện tích đất đai có hạn nhưng có rất nhiều nhu cầu cần sử dụng đất (sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội ...). Do vậy, phải có phương
thức phân bổ nguồn lực khan hiếm này cho các mục đích sử dụng cạnh tranh đó nhằm đáp
ứng nhu cầu con người về lương thực, thực phẩm, nhà ở, đi lại, vui chơi giải trí...
1.2.2. Phân loại kinh tế học
Kinh tế học ra đời cách đây hơn 200 năm (Lấy mốc 1776 – Khi nhà kinh tế học Adam
Smith xuất bản tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giầu có của các quốc
gia”). Trong quá trình phát triển môn học được phân ngành, tùy theo cách tiếp cận và tiêu
thức phân tổ chúng ta có các loại kinh tế học.
a) Dựa vào phương pháp phân tích
Người ta phân kinh tế học thành kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
* Kinh tế học thực chứng
Kinh tế học thực chứng là một cách tiếp cận của kinh tế học, nó mô tả và phân tích các sự
kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế một cách khách quan và khoa học, các vấn đề
mang tính nhân quả và thường liên quan đến các câu hỏi, đó là gì? là bao nhiêu? như thế nào?
tại sao lại như vậy? điều gì sẽ xảy ra nếu...? Nó được xem là những bằng chứng thực tế xảy ra
ngoài ý muốn chủ quan của con người.
+ Có thể coi nó như một môn khoa học tự nhiên và khi đó nhà kinh tế thể hiện vai trò của
một nhà khoa học.
Ví dụ: Khi nhà nước đánh thuế vào xe máy nhập khẩu thì giá xe máy trong nước sẽ tăng
lên, khi đó người tiêu dùng sẽ mua xe máy nhập khẩu ít hơn. Năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng kinh

tế của Việt Nam là 8,2%...
* Kinh tế học chuẩn tắc
Kinh tế học chuẩn tắc liên quan đến quan điểm đạo lý, chính trị của một quốc gia.
+ Đưa ra những lời chỉ dẫn, khuyến nghị mang tính chất lựa chọn dựa trên cơ sở đánh giá
theo tiêu chuẩn cá nhân. Nó liên quan đến các câu hỏi như: điều gì nên xảy ra, cần phải như
thế nào?. Khi đó nhà kinh tế hành động như một nhà tư vấn chính sách.
Chẳng hạn, giá vé tàu hoả là quá cao vì vậy cần phải giảm giá vé cho sinh viên. Người
già bệnh tật ốm đau vì vậy nên trợ cấp thuốc men khám chữa bệnh miễn phí cho họ. Hay hút
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..10


thuốc lá có hại cho sức khoẻ vì vậy không nên hút thuốc lá, Nhà nước nên đánh thuế thật cao
vào việc sản xuất và tiêu thụ thuốc lá, hoặc cấm quảng cáo thuốc lá dưới mọi hình thức.
b) Dựa vào đối tượng nghiên cứu
Kinh tế học được chia thành kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.
* Kinh tế vi mô
+ Nghiên cứu, phân tích và lựa chọn các vấn đề kinh tế cơ bản của các đơn vị kinh tế đơn
lẻ. Các đơn vị này bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng, các nhà đầu tư, các chủ đất...
+ Nghiên cứu cách thức các đơn vị đưa ra quyết định về mặt kinh tế và họ làm thế nào để
có các quyết định đó. Điều đó có nghĩa là: kinh tế học vi mô nghiên cứu hành vi lựa chọn và
ra quyết định của các cá nhân trong sản xuất, tiêu dùng và sự tác động qua lại giữa các cá
nhân trong nền kinh tế nhằm tối đa hoá lợi ích kinh tế cá nhân trên cơ sở vận dụng các quy
luật khách quan của nền kinh tế thị trường (Quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật
cạnh tranh).
Chẳng hạn, kinh tế học vi mô giải thích cách thức người tiêu dùng đi đến quyết định mua
hàng hoá dịch vụ, sự thay đổi giá cả thu nhập ảnh hưởng tới sự lựa chọn của họ như thế nào
để tối đa hoá độ thoả dụng? Kinh tế học vi mô cũng giải thích cách thức các Doanh nghiệp
quyết định tuyển bao nhiêu công nhân, vay bao nhiêu vốn, kinh doanh ở đâu, sản lượng sản

xuất, giá bán như thế nào và bán ở đâu... để tối đa hoá lợi nhuận. Kinh tế vi mô nghiên cứu
giá cả hàng hoá dịch vụ trên thị trường được hình thành như thế nào, sự thay đổi giá cả ảnh
hưởng thế nào đến quyết định của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
* Kinh tế vĩ mô
Kinh tế vĩ mô là môn khoa học nghiên cứu, phân tích và lựa chọn các vấn đề kinh tế cơ
bản của một quốc gia. Nó đề cập đến các vấn đề kinh tế chung và sự tương tác của các bộ
phận kinh tế tổng thể trong toàn bộ nền kinh tế.
Do vậy, kinh tế vĩ mô đề cập đến vấn đề: sản lượng (GDP, GNP) và tăng trưởng kinh tế,
việc làm và thất nghiệp, giá cả và lạm phát, đầu tư và tiết kiệm, cán cân thanh toán quốc tế và
tỷ giá hối đoái, hệ thống thuế... trong tổng thể nền kinh tế.
Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau, vì những
thay đổi trong nền kinh tế nói chung phát sinh từ các quyết định của hàng triệu cá nhân nên
chúng ta không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ mô nếu không tính đến các quyết định
kinh tế vi mô liên quan. Khi chính phủ ban hành chính sách thuế thu nhập cá nhân (kinh tế vĩ
mô) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định chi tiêu của những người có thu nhập cao và từ đó
ảnh hưởng tới quy mô sản xuất hàng hoá dịch vụ để đáp ứng nhu cầu đó. Hoặc tỷ lệ thất
nghiệp của một nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào quyết định thuê mướn lao động của các
chủ doanh nghiệp...
1.2.3. Đặc trưng của kinh tế học
+ Đặc trưng thứ nhất của kinh tế học là nghiên cứu sự lựa chọn trong hoạt động kinh tế,
tức là nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối so với nhu cầu kinh tế xã
hội. Nếu có thể sản xuất với số lượng vô hạn mọi loại hàng hoá và thoả mãn đầy đủ mọi nhu
cầu của con người thì không có hàng hoá kinh tế và cũng không cần tiết kiệm hay nghiên cứu
kinh tế học.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..11



+ Đặc trưng thứ hai của kinh tế học là tính hợp lý. Đặc trưng này thể hiện ở chỗ: khi
phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó, cần phải dựa trên những giả thiết nhất định
(hợp lý) về diễn biến của những sự kiện kinh tế này. Chẳng hạn, khi giá cả hàng hoá dịch vụ
trên thị trường tăng lên thì người tiêu dùng sản xuất mua hàng hoá đó nhiều hơn với giả định
các yếu tố khác không thay đổi (thu nhập, thị hiếu, giá hàng hoá liên quan...). Tuy nhiên, cũng
cần lưu ý rằng, tính hợp lý cũng chỉ mang tính tương đối.
+ Đặc trưng thứ ba của kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu mặt lượng (lượng hoá
vấn đề nghiên cứu). Bởi vì, khi nghiên cứu, phân tích kết quả của các hoạt động kinh tế, nếu
chỉ nhận định nó tăng lên hay giảm đi thì chưa đủ mà còn phải xác định được sự thay đổi đó
số lượng là bao nhiêu?
+ Đặc trưng thứ tư của kinh tế học là tính toàn diện và tính tổng hợp, tức là khi xem xét
các hoạt động và sự kiện kinh tế ta phải đặt nó trong mối liên hệ với các hiện tượng và sự kiện
kinh tế khác trên phương diện một nước hoặc nền kinh tế thế giới.
+ Đặc trưng cuối cùng của kinh tế học là các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ được xác
định ở mức trung bình vì những kết quả này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau và
không thể xác định được chính xác tất cả các yếu tố này.1.2.4. Phương pháp nghiên cứu kinh
tế học
Khác với khoa học tự nhiên, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế người ta thường áp
dụng phương pháp quan sát. Bởi vì các hiện tượng kinh tế hết sức phức tạp, thường xuyên
biến động và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Khi nghiên cứu cần phải tiến hành thu thập
các số liệu. Ví dụ: Muốn biết xem lạm phát có xảy ra không, mức độ cao hay thấp thì cần phải
biết được số liệu về sự tăng lên của mức giá nói chung. Còn muốn biết nền kinh tế tăng
trưởng hoặc suy thoái thì phải có số liệu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm
quốc dân (GNP).
Sau khi đã thu thập được số liệu, cần tiến hành phân tích với các phương pháp phù hợp.
Đời sống kinh tế luôn luôn diễn ra hết sức phức tạp với hàng ngàn loại giá cả, hàng triệu hộ
gia đình với vô vàn các mối quan hệ chằng chịt và đan xen với nhau. Một phương pháp hết
sức quan trọng trong nghiên cứu kinh tế là phương pháp trìu tượng hoá, bóc tách các nhân tố
không định nghiên cứu (coi như các nhân tố này không thay đổi) để xem xét các mối quan hệ
kinh tế giữa những biến số cơ bản. Khi đó, phương pháp thống kê có ý nghĩa rất lớn.

Sau đó rút ra kết luận và đối chiếu với thực tế, từ đó phát hiện những điểm sai sót bất hợp
lý, đưa ra các giả thiết mới rồi lại kiểm nghiệm bằng thực tế để rút ra kết luận sát thực hơn với
đời sống kinh tế.
Ngoài ra, trong nghiên cứu kinh tế, đặc biệt kinh tế vĩ mô, người ta thường sử dụng hai
phương pháp phổ biến là phương pháp đồ thị và phương pháp phân tích cung cầu.
1.3. TỔ CHỨC KINH TẾ CỦA MỘT NỀN KINH TẾ HỖN HỢP
1.3.1 Ba vấn đề cơ bản của một nền kinh tế
Do các nguồn tài nguyên khan hiếm nhưng nhu cầu của con người, của xã hội nói chung
vô hạn cho nên các nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng phải thực hiện ba chức năng cơ
bản đó là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
+ Sản xuất cái gì?
Tức là sản xuất hàng hoá dịch vụ nào, với số lượng là bao nhiêu, bao giờ thì sản xuất?
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..12


Cơ sở của vấn đề này là sự khan hiếm nguồn lực (nguồn tài nguyên) so với nhu cầu xã
hội. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải giải quyết là giảm đến
mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất những sản phẩm không cần thiết và tăng cường
đến mức tối đa việc sử dụng nguồn lực để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu
xã hội, phải tiết kiệm nguồn lực. Muốn trả lời chính xác câu hỏi này phải nghiên cứu thị
trường.
+ Sản xuất như thế nào? Tức là sản xuất bằng những đầu vào nào, sản xuất bằng công
nghệ nào, giao cho ai sản xuất? Lựa chọn đúng đắn vấn đề này đồng nghĩa với việc sử dụng
lượng đầu vào ít nhất để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định (tối thiểu hoá chi phí
đầu vào trên một đơn vị sản phẩm đầu ra).
+ Sản xuất cho ai? Tức là sản phẩm sản xuất ra được phân chia thế nào cho các thành
viên trong xã hội tiêu dùng. Cụ thể hơn là sản phẩm sản xuất ra hướng tới đối tượng khách
hàng nào? Giầu hay nghèo, trẻ hay già, nam hay nữ để có thể lựa chọn nguyên liệu đầu vào,

công nghệ sử dụng…
Ba vấn đề nêu trên là những chức năng cơ bản mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải thực
hiện và không phụ thuộc vào trình độ phát triển của các nền kinh tế. Trên thực tế, tất cả các
chức năng này đều mang tính lựa chọn vì các nguồn lực cần thiết để sản xuất ra sản phẩm đều
khan hiếm. Do đó, sẽ tồn tại những cách phân bổ nguồn lực khác nhau trong việc sản xuất
những sản phẩm khác nhau; các phương pháp khác nhau để sản xuất một loại sản phẩm cụ thể
và để phân phối sản phẩm cho các thành viên trong xã hội. Các nước khác nhau sẽ giải quyết
ba vấn đề trên theo các cách khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử, thể chế chính trị và
chính sách kinh tế của từng nước.
1.3.2. Tổ chức của một nền kinh tế hỗn hợp
Các hệ thống kinh tế khác nhau có những cách tổ chức kinh tế khác nhau để thực hiện ba
chức năng cơ bản của nền kinh tế. Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy có các
kiểu tổ chức sau:
a) Nền kinh tế tập quán truyền thống
Kiểu tổ chức này đã tồn tại dưới thời công xã nguyên thuỷ. Trong đó, tất cả ba vấn đề sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai đều được quyết định theo tập quán truyền
thống được truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau: Cách
thức tổ chức bầy đàn, kinh nghiệm kiếm sống, kinh nghiệm chế tác công cụ lao đông…
b) Nền kinh tế chỉ huy (hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung)
Là kiểu tổ chức kinh tế trong đó chính phủ ra mọi quyết định về sản xuất, phân phối, trao
đổi và tiêu dùng. Ba chức năng cơ bản của nền kinh tế đều được thực hiện theo kế hoạch tập
trung thống nhất của nhà nước. Nhà nước tổ chức hệ thống kế hoạch từ trung ương đến các
địa phương để quản lý và điều tiết toàn bộ nền kinh tế.
c) Nền kinh tế thị trường
Là nền kinh tế mà chính phủ không can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Trong nền kinh
tế này, ba chức năng cơ bản của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường, trong
đó người tiêu dùng và người sản xuất tác động lẫn nhau trên thị trường để xác định một hệ
thống giá cả thị trường, lợi nhuận, thu nhập... Các doanh nghiệp sẽ sản xuất cái gì mang lại lợi
nhuận cao nhất, bằng kỹ thuật sản xuất rẻ nhất (như thế nào) và tiêu dùng của hộ gia đình (cho
ai) được xác định bởi thu nhập của họ.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..13


d) Nền kinh tế hỗn hợp
Là nền kinh tế trong đó các thể chế nhà nước và tư nhân cùng tham gia kiểm soát kinh tế.
Thể chế tư nhân kiểm soát thông qua cơ chế “bàn tay vô hình” của cơ chế thị trường, còn thể
chế nhà nước kiểm soát bằng những “luật, mệnh lệnh hành chính và các chính sách kinh tế
của chính phủ. Đây chính là nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự can thiệp, điều
tiết của chính phủ. Ngày nay, hầu hết nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới đều tổ
chức nền kinh tế theo mô hình kinh tế hỗn hợp.
Để làm rõ vai trò của các thể chế này, các nhà kinh tế chia các tác nhân trong nền kinh tế
hỗn hợp thành bốn nhóm: Người tiêu dùng, người sản xuất (hãng sản xuất kinh doanh), chính
phủ và người nước ngoài.
+ Người tiêu dùng (hộ gia đình)
Là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hoá dịch vụ để thoả mãn nhu cầu sinh
hoạt đời sống (lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc chữa bệnh, dịch vụ đi lại, vui chơi giải
trí...). Những hàng hoá này được gọi là hàng tiêu dùng. Người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn
đến quyết định sản xuất cái gì của nền kinh tế. Mặc dù người tiêu dùng trong nền kinh tế
không gặp gỡ và thống nhất với nhau nhưng họ đều có điểm giống nhau, đó là: với thu nhập
nhất định, người tiêu dùng nói chung đều có nguyện vọng thoả mãn tối đa các nhu cầu của họ
(tối đa hóa lợi ích). Do vậy, đứng trước một hàng hoá bán ra với các mức giá khác nhau chắc
chắn người tiêu dùng muốn mua nó với mức giá thấp hơn, nhờ vậy họ có nhiều thu nhập hơn
để thoả mãn các nhu cầu khác.
+ Người sản xuất (các hãng sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp)
Là những người sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế. Yếu tố cơ bản nhất
nhằm giải thích cho phương thức hoạt động của các nhà sản xuất tư nhân, dù đó là nông trại
gia đình, hộ kinh doanh thương mại hay doanh nghiệp công nghiệp... là mục đích tìm kiếm lợi
nhuận cao nhất.

Trong nền kinh tế chỉ có hai nhóm tác nhân: Người tiêu dùng và người sản xuất kinh
doanh (không có sự tham gia của chính phủ vào hoạt động kinh tế) được coi là mô hình kinh
tế thị trường tự do – Mô hình kinh tế giản đơn.
+ Chính phủ: Trong nền kinh tế hỗn hợp, chính quyền ở các cấp (trung ương, địa
phương) vừa là người sản xuất nhưng đồng thời cũng là những người mua hàng hoá dịch vụ.
Vai trò kinh tế của chính phủ thường gắn liền với ba chức năng chủ yếu: Hiệu quả, công bằng
và ổn định phát triển.
* Chức năng hiệu quả: Cơ chế thị trường có thể dẫn đến một số thất bại làm giảm hiệu
quả của sản xuất và tiêu dùng. Như trong trường hợp độc quyền và ảnh hưởng bên ngoài
(ngoại ứng). Vì vậy, chính phủ có thể sử dụng các biện pháp, công cụ hành chính và kinh tế
để điều tiết độc quyền hoặc hạn chế ảnh hưởng bất lợi của ô nhiễm môi trường.
* Chức năng công bằng: Bản thân cơ chế thị trường không thể giải quyết được vấn đề
công bằng xã hội trong phân phối thu nhập giữa các thành viên xã hội. Do đó, chính phủ sử
dụng công cụ thuế và chi tiêu để phân phối lại thu nhập nhằm hạn chế sự bất bình đẳng trong
thu nhập, mức sống, nâng đỡ những người nghèo hoặc những người có hoàn cảnh đặc biệt.
* Chức năng ổn định: Chính phủ còn có chức năng kinh tế vĩ mô là duy trì sự ổn định
chính trị và kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế thị trường thường gắn liền với các bước thăng
trầm của chu kỳ kinh doanh (thịnh vượng, suy thoái). Do đó, chính phủ thường sử dụng các
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..14


chính sách tài khoá và tiền tệ để tác động đến việc làm, lạm phát nhằm giảm bớt những dao
động của chu kỳ kinh doanh.
Một nền kinh tế chỉ có ba nhóm tác nhân nêu trên (người tiêu dùng, người sản xuất kinh
doanh, chính phủ) được gọi là mô hình kinh tế đóng.
+ Người nước ngoài: Các doanh nghiệp và chính phủ nước ngoài tác động đến hoạt động
kinh tế diễn ra ở một nước thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế như mua bán hàng hoá dịch
vụ, vay nợ, viện trợ,… và đầu tư nước ngoài. Trong một số nước, người nước ngoài có vai trò

quan trọng, bởi vì hoạt động xuất nhập khẩu, vay nợ, viện trợ và đầu tư nước ngoài có tác
động đáng kể đến quy mô, cơ cấu và thành tựu phát triển kinh tế của những nước này.
Nền kinh tế có sự tham gia của hộ gia đình, hãng kinh doanh, chính phủ và người nước
ngoài gọi là mô hình kinh tế mở.
1.4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.4.1. Các yếu tố sản xuất
Nhìn chung cái mà con người có là các yếu tố sản xuất, còn cái mà con người cần là sản
phẩm (hàng hoá, dịch vụ). Quá trình biến đổi các yếu tố sản xuất thành những thứ mà con
người cần gọi là quá trình sản xuất. Yếu tố sản xuất là các đầu vào của quá trình sản xuất, nó
được phân thành ba nhóm:
+ Đất đai và tài nguyên thiên nhiên: Đất đai theo nghĩa rộng bao gồm đất dùng trong sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản (đường sá, nhà ở...). Tài nguyên thiên nhiên
bao gồm: Nhiên liệu ban đầu như than đá, dầu mỏ, khí đốt, khoáng sản như quặng sắt, đồng,
bô xít, rừng tự nhiên... Tất cả loại đầu vào thuộc nhóm này đều là sản phẩm của tự nhiên ban
tặng cho loài người tức đều là sản phẩm của tự nhiên chứ không phải sản phẩm của lao động.
+ Lao động: Là năng lực của con người được sử dụng theo một mức độ nhất định trong
quá trình sản xuất.
+ Tư bản (vốn): Là những hàng hoá như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, đường sá... được
sản xuất ra để rồi lại được sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Việc tích luỹ các hàng
hoá tư bản trong nền kinh tế có một vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao năng suất
lao động, hiệu quả sản xuất.
Ngoài ba nhóm yếu tố trên, hiện nay nhiều nhà kinh tế còn cho rằng trình độ quản lý và
công nghệ cũng được xem như một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
1.4.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất
Để đơn giản hoá trong nghiên cứu, người ta giả định rằng nền kinh tế sử dụng toàn bộ
yếu tố sản xuất chỉ để sản xuất hai loại hàng hoá: lương thực (X) và quần áo (Y). Khả
năng sản xuất của nền kinh tế đạt được khi sử dụng toàn bộ yếu tố sản xuất được thể hiện
ở bảng sau:

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô


..15


Bảng 1-1. Khả năng sản xuất quần áo và lương thực
Khả năng

Lương thực (tấn)

Quần áo (nghìn bộ)

A

0

7,5

B

1

7,0

C

2

6,0

D


3

4,5

E

4

2,5

F

5

0

Nguồn: Số liệu giả định
Bảng 1-1 cho biết khả năng thay thế lẫn nhau khi sản xuất lương thực và quần áo trong
điều kiện cho trước về các yếu tố sản xuất. Biểu diễn những khả năng này lên đồ thị ta được
đường giới hạn khả năng sản xuất của nền kinh tế. Đường giới hạn khả năng sản xuất biểu
hiện các tổ hợp hàng hoá dịch vụ mà một nền kinh tế có thể sản xuất ra khi sử dụng có hiệu
quả nguồn tài nguyên khan hiếm.

7,5

A

B


N

C
D

M

O

E
5

Lương thực (X)

Hình 1-1. Đường giới hạn khả năng sản xuất
Các điểm nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất (A, B, C, D, E, F) cho biết các
cách kết hợp tốt nhất giữa việc sản xuất hai loại hàng hoá và là những điểm đạt hiệu quả.
Như vậy, một nền kinh tế đạt hiệu quả khi các điểm lựa chọn phải nằm trên đường giới
hạn khả năng sản xuất. Hay một nền kinh tế có hiệu quả khi nó không thể tăng sản lượng
một loại hàng hoá này mà không cắt giảm sản lượng loại hàng hoá khác. Những điểm nằm
phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất (điểm M) là điểm không hiệu quả vì lãng phí
tài nguyên. Điểm nằm ngoài đường này(N) là điểm không thể đạt được của nền kinh tế với
điều kiện tài nguyên hiện có.
1.4.3. Chi phí cơ hội (Opportunity cost - OC)
Do các nguồn tài nguyên khan hiếm cho nên khi ra bất cứ một quyết định nào (trong sản
xuất hoặc tiêu dùng) con người luôn bỏ qua cơ hội để thực hiện một quyết định khác. Đó

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..16



chính là chi phí cơ hội. Vậy chi phí cơ hội là lợi ích bị bỏ qua khi các tác nhân trong nền kinh
tế đưa ra một sự lựa chọn kinh tế.
Chẳng hạn, bạn có 200 triệu đồng, nếu bạn đầu tư vào kinh doanh thì bạn đã bỏ qua cơ
hội dùng số tiền đó vào việc khác, ví dụ: gửi số vốn đó vào ngân hàng để lấy lãi, hoặc mua cổ
phiếu của công ty cổ phần để thu cổ tức.
Sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất, chúng ta có thể tính được chi phí cơ hội khi
quyết định sản xuất thêm lương thực. Khi chuyển từ khả năng A sang khả năng B tức là sản
xuất thêm 1 tấn lương thực ta phải bỏ qua cơ hội sản xuất 0,5 nghìn bộ quần áo. Chi phí cơ
hội là căn cứ quan trọng để các chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng lựa chọn quyết
định tối ưu khi lựa chọn phương án hành động.
1.5. QUY LUẬT THU NHẬP GIẢM DẦN VÀ QUY LUẬT CHI PHÍ TƯƠNG ĐỐI
NGÀY CÀNG TĂNG
1.5.1 Quy luật thu nhập giảm dần (Năng suất cận biên giảm dần – Diminishing returns
to scale)
Quy luật thu nhập giảm dần (hiệu suất giảm dần) là một hiện tượng phổ biến thường gặp
trong các hoạt động kinh tế. Quy luật này phản ánh mối quan hệ giữa yếu tố đầu vào và yếu tố
đầu ra đạt được từ các yếu tố đầu vào đó. Với điều kiện các yếu tố đầu vào khác không đổi,
khối lượng đầu ra có thêm sẽ càng giảm khi liên tục bỏ thêm những đơn vị bằng nhau của một
đầu vào biến đổi.
Ví dụ: Khi các điều kiện đất đai, vốn, công nghệ kỹ thuật là cố định khi tăng thêm lượng
lao động đến một giới hạn nào đó thì mỗi đơn vị lao động tăng thêm phía sau sẽ tạo ra lượng
sản phẩm ít hơn mỗi đơn vị tăng thêm trước nó. Phần sản phẩm tăng thêm khi sử dụng thêm
một đơn vị yếu tố đầu vào đó gọi là sản phẩm biên của đầu vào. Chẳng hạn đầu vào là lao
động ta có sản phẩm biên của lao động (MPL).
1.5.2. Quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng
Trong điều kiện nguồn lực khan hiếm, để có thêm số lượng bằng nhau về một mặt hàng
xã hội phải hy sinh ngày càng nhiều số lượng mặt hàng khác.
Bảng 1-2. Sản phẩm biên của lao động giảm dần

Số lao động (L)
(người)

Sản lượng thóc (Q)
(tạ)

Sản phẩm cận biên (MPL)
(tạ)

100

2500

-

101

2520

20

102

2535

15

103

2545


10
Nguồn : Số liệu giả định

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..17


Trở lại ví dụ về đường giới hạn khả năng sản xuất ở hình 1.1 cho chúng ta thấy: để có
thêm 1 tấn lương thực, nền kinh tế phải cắt giảm ngày càng nhiều đơn vị quần áo (từ điểm A
đến B, C, D, E, F), số lượng quần áo phải cắt giảm lần lượt là: 0,5 - 1,0 - 1,5 - 2,0 - 2,0.
Tương tự để sản xuất thêm 1 nghìn bộ quần áo (từ điểm F đến điểm A), số lượng lương thực
phải cắt giảm lần lượt là: 1/ 2,5 - 1/ 2,0 - 1/ 1,5 - 1/ 1,0 và 1/ 0,5.
Chính vì quy luật này nên đường giới hạn khả năng sản xuất thường là đường cong dốc
xuống dưới về phía phải. Do vậy, quy luật này chỉ đúng trong điều kiện tỷ lệ sử dụng hai đầu
vào của hai loại hàng hoá phải khác nhau. Chẳng hạn, với yếu tố đầu vào là đất đai và lao
động thì để sản xuất ra quần áo chỉ cần lao động, nhưng sản xuất lương thực cần cả hai yếu tố
này. Nhưng nếu tỷ lệ này như nhau thì đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ là đường thẳng và
khi đó quy luật này không đúng.
1.6. PHÂN TÍCH CUNG - CẦU
1.6.1 Cầu (Demand - D)
+ Cầu: Là một thuật ngữ dùng để chỉ số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng có
khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một khoảng không gian và thời
gian nhất định khi các yếu tố khác không thay đổi.
+ Lượng cầu: Là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng có khả năng và sẵn sàng
mua ở một mức giá cụ thể trong một khoảng không gian và thời gian nhất định khi các yếu tố
khác không thay đổi.
Bảng 1-3. Cầu về xăng
P


Giá - P
($/thùng)

Lượng cầu - QD
(ngàn thùng/tháng)

10

40

20

30

30

24

40

20

50

18

A

D1

B
D0
D2
Q

o

Nguồn: Số liệu giả định
Hình 1-2. Đường cầu và sự di chuyển,
dịch chuyển của đường cầu
+ Biểu cầu: Là một bảng mô tả mối quan hệ giữa số lượng hàng, hoá dịch vụ mà người
tiêu dùng có khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..18


+ Đường cầu là đường biểu diễn biểu cầu trên đồ thị, đường cầu thị trường thường dốc
xuống dưới về phía phải.
+ Luật cầu: Là luật của người tiêu dùng, nó chỉ ra rằng khi các điều kiện khác không thay
đổi, nếu giá cả hàng hoá dịch vụ giảm thì lượng cầu sẽ tăng lên và ngược lại. Tức là tồn tại
một mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá và lượng cầu hàng hoá dịch vụ.
Cầu hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giá hàng hoá dịch vụ đó, thu nhập của người
tiêu dùng, giá hàng hoá lên quan, số lượng người tiêu dùng, thị hiếu của người tiêu dùng, kỳ
vọng của người tiêu dùng về sự thay đổi các yếu tố trên...
- Khi yếu tố nội sinh (giá hàng hoá đang xét) thay đổi sẽ làm đường cầu di chuyển (thay
đổi điểm cầu) tức làm thay đổi lượng cầu ở từng mức giá cụ thể.
- Khi yếu tố ngoại sinh (các yếu tố ngoài giá hàng hoá đang xét) thay đổi sẽ làm đường
cầu thị trường dịch chuyển, tức là làm thay đổi lượng cầu ở tất cả các mức giá.

1.6.2. Cung (Supply - S)
+ Cung: Là một thuật ngữ dùng để chỉ số lượng hàng hoá dịch vụ mà người sản xuất có
khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một khoảng không gian và thời gian
nhất định khi các yếu tố khác không thay đổi
+ Lượng cung: Là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người sản xuất có khả năng và sẵn
sàng bán ở một mức giá cụ thể trong một khoảng không gian và thời gian nhất định khi các
yếu tố khác không thay đổi.
+ Bảng cung: Là một bảng mô tả mối quan hệ giữa số lượng hàng hoá dịch vụ mà người
sản xuất có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau.
Bảng 1-4. Cung về xăng
Giá - P
($/thùng)

Lượng cung - QD
(1000 thùng/tháng)

10

0

20

14

30

24

40


32

50

36

S2

P

S0
B

S1

A

Q

Nguồn: Số liệu giả định

0
Hình 1-3. Đường cung và sự di chuyển,
dịch chuyển của đường cung

+ Đường cung: là đường biểu diễn biểu cung trên đồ thị, đường cung thị trường thường
dốc lên trên về phía phải

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô


..19


+ Luật cung: là luật của người sản xuất, nó chỉ ra rằng khi các điều kiện khác không thay
đổi, nếu giá cả hàng hoá dịch vụ tăng lên thì lượng cung sẽ tăng lên và ngược lại. Tức là tồn
tại một mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa giá và lượng cung hàng hoá dịch vụ
Cung hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giá hàng hoá dịch vụ đó, giá cả các yếu tố
đầu vào, công nghệ kỹ thuật, chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ (thuế, giá, đầu tư, tín
dụng...), số lượng người sản xuất, kỳ vọng của người sản xuất về sự thay đổi các yếu tố trên...
- Khi yếu tố nội sinh (giá hàng hoá đang xét) thay đổi sẽ làm đường cung di chuyển (thay
đổi điểm cung) tức làm thay đổi lượng cung ở từng mức giá cụ thể.
- Khi yếu tố ngoại sinh (các yếu tố ngoài giá hàng hoá đang xét) thay đổi sẽ làm đường
cung thị trường dịch chuyển, tức là làm thay đổi lượng cung ở tất cả các mức giá.
1.6.3. Cân bằng cung - cầu
Kết hợp đường cung với đường cầu trên một đồ thị sẽ xác định được điểm giao nhau giữa
hai đường này. Tại điểm E0, số lượng hàng hoá của cung, (người sản xuất) muốn bán đúng
bằng lượng cầu những người tiêu dùng cần mua. Do đó, giá cả và lượng hàng hoá không có
xu hướng thay đổi. Đó chính là điểm cân bằng thị trường (E0) với mức giá cân bằng (P0) và
lượng cân bằng (Q0). Ngoài mức giá cân bằng P0 thị trường sẽ tồn tại trạng thái dư thừa (nếu
giá hiện tại P1 > P0 ) hoặc trạng thái thiếu hụt (nếu giá hiện tại P2 < P0). Khi đó sẽ tạo ra sức
ép làm giá giảm xuống (nếu dư thừa) do các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau, hoặc sức ép
làm giá tăng lên (nếu thiếu hụt) do những người tiêu dùng cạnh tranh với nhau, chỉ tại điểm
có mức giá cân bằng P0 thì mong muốn của những người mua và những người bán đều được
thoả mãn.
Bảng 1-5. Quan hệ cung cầu thị trường xăng
P
($/thùng)

QD
(1000 thùng/tháng)


QS
(1000 thùng/tháng)

Quan hệ
cung cầu

Sức ép đối
với giá

10

40

0

thiếu hụt

tăng

20

30

14

thiếu hụt

tăng


30

24

24

cân bằng

không

40

20

32

dư thừa

giảm

50

18

36

dư thừa

giảm


Nguồn: Số liệu giả định
Trạng thái cân bằng chỉ mang tính chất tạm thời, nó sẽ thay đổi (biến động) khi có sự
thay đổi của cung hoặc cầu. Chẳng hạn khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi sẽ làm
đường cầu dịch chuyển D0 sang D1 (tăng cầu), hoặc giá cả yếu tố đầu vào giảm xuống sẽ làm
đường cung dịch chuyển So sang S1 (tăng cung). Khi đó thị trường hình thành điểm cân bằng
mới (E1) với giá và lượng cân bằng mới (P1và Q1).
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..20


P

P

P
S

S0

S

S1

Dư thừa
P1
P0

E0


P0

P1

Thiếu
0

P1

Q

E1
E0

E0

D

P1
P0

D

E1
D

D

Q


Hình 1-4. Cân bằng cung cầu

0

Q

0
Q

P Q

Q

Hình 1-5. Sự thay đổi trạng thái cân bằng

Như vậy, lý thuyết cung cầu cho phép giải thích cơ chế hình thành giá cả hàng hoá dịch
vụ trong thị trường cạnh tranh. Đồng thời cũng giải thích nguyên nhân nào dẫn đến sự biến
động của giá cả hàng hoá dịch vụ.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..21


TÓM TẮT CHƯƠNG
1.

Kinh tế học là môn khoa học của sự lựa chọn, nó nghiên cứu cách thức xã hội
phân bổ tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng cạnh tranh, để thỏa mãn
nhu cầu của con người.


2.

Kinh tế học ra đời cách đây hơn 200 năm, trong quá trình phát triển được phân ra
Kinh tế học Vi mô và Kinh tế học Vĩ mô (Dựa vào đối tượng nghiên cứu); Kinh tế
học thực chứng, Kinh tế học chuẩn tắc (Dựa vào phương pháp phân tích).

3.

Nguồn lực khan hiếm, nhu cầu của con người, xã hội là vô hạn, do vậy mỗi quốc
gia phải lựa chọn, doanh nghiệp phải lựa chọn, thực hiện 3 vấn đề kinh tế cơ bản
cơ bản đó là: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.

4.

Do nguồn lực khan hiếm nên con người, xã hội phải lựa chọn trong sản xuất, tiêu
dùng. Yêu cầu phải sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực trên cơ sở chi phí cơ hội
(oc - opportunity cost).

5.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua 4 kiểu tổ chức kinh tế (mô hình
kinh tế) mô hình Kinh tế truyền thống, mô hình kinh tế chỉ huy, mô hình Kinh tế
thị trường và mô hình Kinh tế hỗn hợp.

6.

Con người ra quyết định luôn chịu chi phối bởi các nguyên lý đánh đổi, chi phí của
bất kỳ hành động nào cũng được tính bằng những cơ hội bị bỏ qua, con người khi
ra quyết định dựa trên sự so sánh giữa chi phí và lợi ích, lợi ích cận biên và họ

luôn phản ứng với những kích thích.

7.

Thương mại đem lại lợi ích cho cả hai phía, người bán và người mua (quốc gia
nhập khẩu và quốc gia xuất khẩu); Thị trường luôn là phương thức tốt nhất để tổ
chức các hoạt động kinh tế…và đôi khi Chính phủ cũng có thể khắc phục được
những thất bại của thi trường.

8.

Nền kinh tế với tư cách là một tổng thể, năng suất lao động cao hay thấp quyết
định mức sống của cư dân; Khi Chính phủ in quá nhiều tiền sẽ gây nên tăng giá và
gây nên lạm phát; Trong ngắn hạn xã hội (Chính phủ) luôn đối mặt với sự đánh
đổi giữa thất nghiệp và lạm phát.

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..22


MỘT SỐ THUẬT NGỮ CÓ LIÊN QUAN
-

Economics

Kinh tế học

-


Scarcity

Sự khan hiếm

-

Microecomics

Kinh tế vi mô

-

Macroeconomics

Kinh tế vĩ mô

-

Production possiilities frontier

Đường giới hạn năng lực sản xuất

-

posstive statement

Nhận định thực chứng

-


Normative statement

Nhận định chuẩn tắc

-

efficiency

Hiệu quả

-

Opportunty cost

Chi phí cơ hội

-

Productivity

Năng suất

-

Inflation

Lạm phát

-


Market Economy

Nền kinh tế thị trường

CÂU HỎI ÔN TẬP
1- Hãy cho ví dụ mà bạn phải đánh đôi trong cuộc sống?
2- Kinh tế học là gì? Tại sao chúng ta phải dành thời gian nghiên cứu kinh tế học?
3- Kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô?
4- Kinh tế học thực chứng, kinh tế học chuẩn tắc? Cho ví dụ?
5- Nêu và phân tích 3 vấn đề kinh tế cơ bản của một tổ chức kinh tế?
6- Trình bầy khái quát các mô hình kinh tế, ưu nhược điểm của mỗi mô hình?
7- Cho 1 ví dụ về quyết định của bạn trong cuộc sống? Phân tích chỉ ra quyết định của
bạn bị chi phối bởi nguyên lý nào trong 10 nguyên lý của kinh tế học?
8- Năng suất lao động? Tại sao năng suất lao động lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng?
9- Lạm phát, nguyên nhân của lạm phát?
10- Mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát trong ngắn hạn?

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..23


BÀI TẬP
Bài 1: Hình vẽ sau minh họa đường giới hạn năng lực sản xuất (PPF) của xó hội với hai
loại sản phẩm là máy ảnh và đồng hồ.
Máy ảnh
A
60
50


B
C

40

Đồng hồ

O
O
200 250

300

Hình 1. Đường cong giới hạn năng lực sản xuất

Yêu cầu:
1. Hãy xác định các tập hợp sau có hiệu quả, không có hiệu quả, không đạt được:
a- 60 máy ảnh, 200 đồng hồ.
b- 60 đồng hồ, 80 máy ảnh.
c- 300 đồng hồ, 40 máy ảnh.
d- 300 đồng hồ, 35 máy ảnh
e- 58 máy ảnh, 250 đồng hồ
2. Xã hội đang sản xuất 300 đồng hồ, 40 máy ảnh, nếu muốn sản xuất thêm 20 máy ảnh
thì phải giảm bao nhiêu đồng hồ?
3. ở mức 200 đồng hồ, 60 máy ảnh nếu muốn sản xuất thêm 50 đồng hồ thì phải giảm
bao nhiêu máy ảnh?
Bài 2: Nguồn lực hiện có của một doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp có các
phương án sản xuất sau:
1
2

3
4
5
6
Phương án
Lúa (tấn)
0
4
8
12
18
22
Cây ăn quả (tấn)
54
48
36
24
16
0
1. Vẽ đường cong giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp?
2. Tính chi phí cơ hội khi sản xuất : 4; 8; 12; 18; 22 tấn lúa?
3. Nếu Doanh nghiệp được vay vốn ưu đãi thì đường cong giới hạn năng lực sản xuất sẽ
thay đổi như thế nào? Minh họa trên đồ thị?

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

..24



×