Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh phổi biệtlập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.12 KB, 63 trang )

1

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phổi biệt lập (Pulmonary sequestration - PS) là một dị tật bẩm sinh
hiếm gặp của đường hô hấp. Nó là một khối nhu mô phổi không có chức năng
hô hấp, thiếu sự thông thương với các nhánh khí phế quản bình thường, biệt
lập so với tổ chức phổi lành và tiếp nhận nguồn cung cấp mạch từ hệ thống
đại tuần hoàn, do động mạch chủ ngực, chủ bụng và các nhánh của nó cung
cấp (trừ động mạch phế quản). Phổi biệt lập được phân chia thành hai loại :
phổi biệt lập trong thuỳ (intralobar pulmonary sequestration - ILS) và phổi
biệt lập ngoài thuỳ (extralobar pulmonary sequestration - ESL). Trong đó
phổi biệt lập trong thuỳ chiếm số lượng lớn, theo các nghiên cứu thống kê
khoảng 75-90% [1], [2].
Dị tật bẩm sinh cơ quan hô hấp là rất hiếm .Phổi biệt lập chiếm 0.156.4% các dị tật ở phổi chính vì vậy nó là một dị tật càng hiếm gặp [1].
Biểu hiện lâm sàng của bệnh phổi biệt lập rất đa dạng, phức tạp, thay
đổi rất nhiều và phụ thuộc chủ yếu vào loại phổi biệt lập, kích thước và vị trí
tổn thương. Có thể chẩn đoán ngay trong giai đoạn bào thai, hoặc biểu hiện
bệnh rất sớm sau sinh trong nghiên cứu của Tokel và cộng sự [3], nhưng cũng
có những trường hợp bệnh chỉ biểu hiện khi đã lớn tuổi.
ESL thường biểu hiện triệu chứng sớm ngay từ khi tuổi còn nhỏ (chủ
yểu ở tuổi vị thành niên) bệnh nhân thường có triệu chứng suy hô hấp, viêm
phổi tái đi tái lại nhiều lần, rất dễ nhầm với tim bẩm sinh. Thậm chí có những
trẻ đến viện khi tình trạng rất nặng: suy tim, tăng áp lực dộng mạch phổi…
Phổi biệt lập ngoài thùy thường biểu hiện bệnh ở tuổi trưởng thành trở
đi, thường được phát hiện khi bệnh nhân vào viện vì biến chứng: Viêm phổi,
áp xe phổi, ho máu, giãn phế quản, có thể ung thư phổi... [4], [5], [6]. Tất cả


2



2

các biến chứng trên đều rất nặng và có nguy cơ tử vong nếu không phát hiện
và điều trị căn nguyên kịp thời.
Việc chẩn đoán phổi biệt lập hiện nay đã dễ hơn rất nhiều nhờ những
tiến bộ của ngành chẩn đoán hình ảnh, chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc đa dãy
(MSCT) đã thay thế các phương pháp cổ điển có độ chính xác không cao
cũng như phương pháp xâm lấn nhiều biến chứng như chụp động mạch. Hình
ảnh điển hình trên MSCT là một khối thường nằm ở thuỳ dưới của phổi, có
thể có màng bọc và được cấp máu bởi các nhánh của động mạch chủ ngực
hoặc chủ bụng [7], [8].
Mục đích của điều trị phổi biệt lập là điều trị triệt để nguyên nhân bằng
cách lấy bỏ tổ chức phổi biệt lập, thắt mạch cung cấp máu của chúng từ hệ
động mạch chủ kèm theo điều trị biến chứng. Có 2 cách điều trị triệt để
nguyên nhân được áp dụng trên thế giới là: phẫu thuật cắt bỏ thuỳ phổi biệt
lập hoặc nút mạch cung cấp máu cho phổi biệt lập. Việc chỉ định phương
pháp nào phụ thuộc vào thể trạng bệnh nhân, đường kính động mạch bất
thường, biến chứng bệnh cũng như tình trạng trang thiết bị, phẫu thuật viên ở
từng cơ sở ngoại khoa. Các tác giả cho rằng chỉ nên làm phẫu thuật này khi
suy tim nặng, toàn trạng bệnh nhân không cho phép làm phẫu thuật lớn, kéo
dài vì khi còn tổ chức phổi biệt lập sẽ còn tồn tại nguy cơ gây biến chứng.
Nhưng một số khác bằng thực nghiệm đã chứng minh nút mạch có hiệu quả
rất tốt trên một số nhóm đối tượng mà mạch máu nuôi dưỡng nhỏ và biến
chứng thường gặp không phải là nhiễm trùng, đặc biệt là trẻ em [3], [9], [10].
Phổi biệt lập được mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ XVIII, tuy nhiên cho
đến gần 50 năm trở lại đây nó mới chính thức được nghiên cứu và bước đầu
hoạch định kế hoạch chẩn đoán cũng như điều trị. Hiện nay trên thế giới
không có một phác đồ chính thức nào trong chẩn đoán cũng như điều trị.
Nguyên nhân có thể kể đến là do bệnh rất hiếm gặp (báo cáo của các trung



3

3

tâm y tế, chăm sóc sức khoẻ cũng như các nghiên cứu của các trường đại học
lớn ít hơn một trường hợp mỗi năm), cỡ mẫu nghiên cứu ít, các tác giả chủ
yếu báo cáo về ca bệnh để rút ra những kết luận, giúp định hướng chẩn đoán
và không bỏ sót bệnh nhân. Ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu về bênh phổi biệt
lập còn rất ít và không toàn diện. Vì vậy, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề
tài : “ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh phổi biệt
lập’’ với mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng các bệnh
nhân được chẩn đoán phổi biệt lập.


4

4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐỊNH NGHĨA PHỔI BIỆT LẬP

Bệnh phổi biệt lập là một rối loạn phát triển hình thành tổ chức phổi
thời kỳ bào thai dẫn đến hình thành một khối kén mô phổi không có chức
năng, không có sự thông khí của phân thùy hay thùy phổi biệt lập với hệ
thống thông khí phổi lành và được cấp máu bởi hệ thống động mạch chủ và
các nhánh của nó
Hệ thống mạch máu cấp máu cho phổi biệt lập không phải từ động

mạch phế quản mà từ động mạch chủ ngực hoặc động mạch chủ bụng (75%)
hoặc các nhánh của chúng như: động mạch thân tạng, động mạch lách, động
mạch dưới đòn, động mạch gian sườn…Tĩnh mạch dẫn lưu từ phổi biệt lập đổ
về tĩnh mạch chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới hoặc tĩnh mạch Azygous (tĩnh
mạch đơn).
Vị trí hay gặp là đáy phổi. Bên trái gặp nhiều hơn bên phải
Dị tật bẩm sinh của cơ quan hô hấp là rất hiếm. phổi biệt lập ước tính
bao gồm 0,15 - 6,4 % của tất cả các dị tật bẩm sinh phổi, nên nó càng hiếm
gặp hơn nữa [1]. Trong các bản báo cáo, nghiên cứu của các trung tâm y tế bệnh viện thuộc trường đại học chẩn đoán ít hơn một trường hợp mỗi năm
[11], [12], [13].
1.2. LỊCH SỬ CỦA BỆNH PHỔI BIỆT LẬP

1.2.1. Sự ra đời
Thuật ngữ “biệt lập” bắt nguồn từ tiếng Latinh có tên là “ sequestare”
có nghĩa là “sepatare” riêng biệt được sử dụng lần đầu tiên bởi Pryce vào năm
1946. Năm 1771, Huber là người đầu tiên mô tả động mạch hệ thống lạc chỗ
(aberrant) cấp máu cho tổn thương phổi, tác giả nhấn mạnh động mạch bất


5

5

thường bắt nguồn từ động mạch chủ ngực cấp máu cho thùy dưới phổi phải
của phổi bình thường. Năm 1861, Rokitansky mô tả một trường hợp Phổi Biệt
Lập đầu tiên, tác giả xác định tình trạng biệt lập phổi ngoài thùy và tin rằng sự
bất thường này là một thùy phổi phụ. Thùy phổi Rokitansky đồng nghĩa với
phổi biệt lập ngoài thùy và khẳng định là một thể lâm sàng riêng biệt. Năm
1946, Pryce mô tả đầy đủ phổi biệt lập trong thùy và khẳng định là một thực
thể lâm sàng riêng biệt.

1.2.2. Lịch sử chẩn đoán
Phổi biệt lập nằm trong nhóm dị tật phế quản phổi ngay sau sinh
(BPFM = Bronchopulmonary – foregut malformation) được sử dụng như một
thuật ngữ chung chỉ tất cả các dị tật ở phổi xuất hiện ngay sau khi sinh.
BPFM bao gồm rất nhiều dị tật như: dị tật đường thở bẩm sinh hoặc thuỳ phổi
khí phế thũng bẩm sinh…Tuy nhiên, ngày xưa thuật ngữ này lại được sử dụng
rộng rãi cho một biến thể hiếm hoi của nó là phổi biệt lập, trong đó nhu mô
phổi cô lập lại thông thương với đường tiêu hoá.
Ngày nay, thuật ngữ phổi biệt lập được sử dụng tách biệt để phân biệt
với các dị tật khác của BPFM.
Khi chưa có chẩn đoán hình ảnh, phổi biệt lập chỉ được phát hiện qua
mổ tử thi hoặc phát hiện tình cờ khi có phấu thuật mở ngực.
Trong 100 năm trở lại đây, kể từ khi chiếc máy X-quang đầu tiên ra
đời, chẩn đoán phổi biệt lập chủ yếu dựa vào lâm sàng và chụp phim thấy
khối mờ ở đáy phổi bên tổn thương, sẽ có chỉ định mở ngực và chẩn đoán
chính xác phổi biệt lập nhờ mở ngực.
Khi chiếc máy chụp động mạch can thiệp qua da ra đời, chẩn đoán phổi
biệt lập đã tiến thêm một bước mới nhờ nó đã mô tả tường tận giải phẫu hệ
động mạch ở ngực và bụng. Lúc đó chụp động mạch can thiệp qua da với


6

6

hình ảnh động mạch bất thường xuất phát từ động mạch chủ tới nhu mô phổi
tổn thương được coi là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán bệnh phổi biệt lập.
Ngày nay, khi tiến bộ của công nghệ điện quang, chụp cộng hưởng từ
có dựng hình động mạch (MRI), chụp cắt lớp xoắn ốc đa dãy (MSCT) lồng
ngực đã thay thế gần như hoàn toàn chụp động mạch can thiệp qua da: một

thủ thuật xâm lấn, nhiều biến chứng và tốn thời gian, không những thế kết quả
mà MRI, MSCT mang lại có độ nhậy và độ đặc hiệu cao hơn phương pháp cũ
rất nhiều. Ngoài quan sát được hệ động mạch nó còn cho phép đánh giá tổn
thương nhu mô phổi một cách chính xác. Nhưng vì MRI cho tỷ lệ của hình
ảnh giả trong phổi biệt lập cao (do những cử động hô hấp [14], [15], [16],
[17]) MSCT đã trở thành phương pháp cận lâm sàng ưu tiên lựa chọn số một
trong chẩn đoán phổi biệt lập. Ban đầu thường sử dụng MSCT 32 dãy, hiện
giờ ưa chuộng sử dụng MSCT 64 dãy, 128 dãy, 256 dãy… vì độ phân giải
cao, cho kết quả sắc nét, hơn nữa còn có thể dựng hình 3D, cho ta cái nhìn
khách quan và đầy đủ nhất về tổn thương phổi và giải phẫu hệ động mạch
nuôi phổi biệt lập.
Năm 2013 báo cáo nghiên cứu của Yue và cộng sự đã phát triển công
nghệ chụp cắt lớp vi tính động mạch đa dãy xoắn ốc (multidetector row CT
angiography - MDCTA = computer tomographic angiography - CT động
mạch) đã thay thế kỹ thuật chụp mạch xâm lấn (digital subtraction
angiography = DSA) ở lồng ngực cho 43 bệnh nhân nghi ngờ bị phổi biệt lập
trước khi trải qua phẫu thuật. Kết quả: chụp CT động mạch và/hoặc phẫu
thuật khẳng định phổi biệt lập ở 37 bệnh nhân; 6 bệnh nhân không mắc phổi
biệt lập. Chất lượng chẩn đoán của CT chụp động mạch phổi xoăn ốc , đa dãy
trong việc đánh giá bệnh nhân mang lại độ chính xác 97,7%, độ nhạy 97,3%,
độ đặc hiệu 100%, giá trị chẩn đoán dương tính (PPV ) 100% và giá trị chẩn
đoán âm tính (NPV ) 85,7 %. Đánh giá động mạch hệ thống khác thường


7

7

mang lại độ chính xác 98.0%, độ nhạy 97,8 %, độ đặc hiệu 100%, PPV 100%
và NPV 85,7%. Chính vì vậy nó được coi là phương pháp không xâm lấn

chẩn đoán chính xác phổi biệt lập một cách mạnh mẽ [18].
1.2.3. Lịch sử điều trị
Phương pháp điều trị phổi biệt lập cổ điển nhất là mở ngực, cắt cả khối
thuỳ phổi hoặc một phần thuỳ phổi tổn thương kèm thắt động mạch nuôi
dưỡng nhu mô phổi đảm bảo mục tiêu điều trị là lấy hết nhu mô phổi biệt lập
và thắt động mạch cấp máu cho nó. Ngày nay cừng với tiến bộ của chẩn đoán
hình ảnh, nội soi phát triển mạnh mẽ, mổ nội soi với nhiều ưu điểm như chảy
máu ít, nhiễm khuẩn ít, thời gian hồi phục sớm, thời gian dẫn lưu khoang
màng phổi giảm xuống, nhưng tỷ lệ giải quyết nguyên nhân tương đương mổ
mở nên được áp dụng rộng rãi tại các trung tâm phấu thuật lồng ngực lớn trên
thế giới.
Trong khoảng 20-30 năm trở lại đây khi công nghệ chẩn đoán hình ảnh
phát triển và mở rộng vào điều trị can thiệp, phổi biệt lập đã có nhưng bước
tiến đầu tiên trong can thiệp mạch máu nhờ nút mạch mà không cần thiết phải
mổ. Nó đã biến điều trị phổi biệt lập trở nên đơn giản hơn. Công nghệ này
được áp dụng rộng rãi ở Mỹ và các nước châu Âu, chính nó cũng phát triển
một cách mạnh mẽ ở các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc [9], [10],
[3]… Ở Việt Nam, công nghệ này đang trên đà phát triển và đã áp dụng thành
công tại trung tâm phẫu thuật lồng ngực tim mạch bệnh viện Việt Đức [19].
Tuy nhiên chỉ định của can thiệp mạch hạn chế hơn nhều so với phấu thuật
lồng ngực và đòi hỏi trang thiết bị máy móc cũng như trình độ kỹ thuật viên
mà không phải trung tâm cũng như bác sỹ phẫu thuật tim mạch lồng ngực nào
cũng có thể giải quyết được.


8

8

1.3. GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ PHỔI


1.3.1. Sự phân nhánh của động mạch và tĩnh mạch phổi
Có hai động mạch phổi phải và trái tách ra từ thân động mạch phổi.
Động mạch phổi phải chạy ngang sang phải, qua rốn phổi, bắt chéo mặt trước
phế quản chính phải ngay dưới phế quản thuỳ trên. Động mạch phổi trái nhỏ
hơn và ngắn hơn, chạy chếch lên trên sang trái bắt chéo mặt trước phế quản
chính trái ở phía trên phế quản thuỳ trên. Vào trong phổi, cả hai động mạch
chạy xoắn quanh thân phế quản chính và cũng phân chia thành các nhánh
thuỳ, các nhánh cho phân thuỳ rồi lại tiếp tục phân chia nhỏ dần cho tới mạng
mao mạch quanh phế nang. Các lưới mao mạch quanh phế nang tập trung dần
để đổ vào các tĩnh mạch quanh tiểu thuỳ, các tĩnh mạch nhỏ hợp nên các tĩnh
mạch lớn dần cuối cùng tạo thành hai tĩnh mạch phổi trên và dưới ở mỗi bên
và đổ và tâm nhĩ trái.
1.3. 2. Động mạch và tĩnh mạch phế quản
Động mạch nuôi dưỡng cho cây phế quản và mô phổi là các nhánh của
động mạch chủ ngực, thường có 1-2 nhánh mỗi bên và đi sau phế quản chính.
Sau khi qua rốn phổi vào phổi, các động mạch phế quản phân chia thành các
nhánh nhỏ hơn tới thùy và phân thùy và tận cùng ở các tiểu phế quản hô hấp.
Các tĩnh mạch sâu dẫn lưu máu từ trong phổi đổ vào tĩnh mạch phổi, còn các
tĩnh mạch nông dẫn lưu máu từ phế quản ngoài phổi và màng phổi đổ vào các
tĩnh mạch bán đơn và bán đơn phụ
1.3.3. Phân chia thùy và phân thùy phổi
Phổi phải được chia thành ba thuỳ: thuỳ trên, thuỳ giữa và thuỳ dưới
bởi hai khe, khe chếch và khe ngang. Khe chếch ngăn cách thuỳ dưới với các
thuỳ giữa và trên, khe ngang ngăn cách thuỳ trên với thuỳ giữa. Phổi trái được
chia thành hai thuỳ : thuỳ trên và thuỳ dưới bởi khe chếch. Cả 2 phổi đều
được phân chia thành 10 phân thuỳ.


9


9

1.4. PHÂN LOẠI PHỔI BIỆT LẬP: theo giải phẫu

Có 2 loại phổi biệt lập: trong thùy (intralobar sequestration) chiếm khoảng
75% - 90% và ngoài thùy (extralobar sequestration) chiếm khoảng 25%.
1.4.1. Phổi biệt lập trong thùy:
- Là phổi biệt lập được giới hạn trong nhu mô phổi bình thường,
thường ở phân thùy đáy sau của thùy dưới cạnh cột sống mặc dù có thể lan tới
các phân thùy phổi liền kề và không có màng phổi riêng bao bọc.
- Tỷ lệ gặp nhiều hơn phổi biệt lập ngoài thùy (75%).
- Thường gặp ở thùy đáy phổi trái (65%).
- Động mạch cấp máu nuôi từ động mạch chủ ngực chiếm 75% , còn lại
là động mạch chủ bụng và động mạch liên sườn.
- Tĩnh mạch dẫn lưu theo tĩnh mạch phổi đổ về nhĩ trái.
- Tỷ lệ bị bệnh ở nam: nữ là như nhau và hiếm khi đi kèm cùng các bất
thường khác của cơ thể.
- Biểu hiện bệnh thường gặp ở trẻ lớn hoặc người lớn.
- Hay gặp nhiếm trùng tái phát.
- Có thể là tổn thương bẩm sinh hoặc tổn thương do mắc phải ( có thể
do tắc nghẽn phế quản hoặc viêm phổi sau tắc nghẽn mãn tính).
- Không có động mạch phổi hoặc cây phế quản.GPB có thể tổn thương
mô đặc hoặc nang chứa dịch máu, chất nhày,khí thũng… hầu hết là cấu trúc
giàu mạch máu do bội nhiếm đông đặc phổi lân cận, viêm nhiễm mạn tính
kích thích sinh mạch.
- Phổi biệt lập trong thuỳ lại chia thành 2 thể:
+ Thể Pryce: không có phế quản tới phế quản phân thùy phổi biệt lập
hoặc có chỉ là 1 mỏm cụt phế quản dài vài cm. Không có động mạch phổi
thùy hoặc động mạch phổi phân thùy tương ứng với thùy hoặc phân thùy phổi

biệt lập. (không có động mạch nuôi dưỡng tổ chức phổi biệt lập).


10

10

+ Thể Le Brigand Dupper: Tổ chức phổi biệt lập có tất cả các nhánh
phế quản phân thùy nhưng tận cùng của phân chia các nhánh đó là những kén
như tổ ong.Các nhánh động mạch phổi thùy, phân thùy có đầy đủ.
1.4.2. Phổi biệt lập ngoài thùy:
- Là phổi biệt lập có màng phổi riêng bao bọc.Thùy phổi bất thường nằm
ngoài lá tạng màng phổi.Được mô tả như một tổn thương kiểu thùy phổi phụ.
- Tỷ lệ gặp ít hơn phổi biệt lập trong thùy (25%).
- 90% gặp ở đáy trái thùy dưới trái
- Động mạch nuôi thường là động mạch chủ Bụng
- Hồi lưu tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch Azygos( tĩnh mạch Đơn) hoặc
hemiazygos (tĩnh mạch bán đơn) rồi về nhĩ phải.
- Tỷ lệ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam(4:1) và thường đi kèm với các bất
thường khác của cơ thể: dị dạng tuyến nang bẩm sinh (congenital cystic
adenomatoid

malformation),

thoát

vị

hoành


bẩm

sinh

(congenital

diaphragmatic hernia), bệnh tim bẩm sinh, bất thường cột sống…
- Biểu hiện bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ
- Được bao bọc bởi màng phổi riêng vì vậy ít xuất hiện tình trạng
nhiễm trùng
- Là tổn thương bẩm sinh
- Thùy phổi biệt lập là một khối nhu mô mềm đồng nhất, chứa các tiểu
phế quản bị giãn, ống phế nang và phế nang, mô kẽ.có thể là nang chứa đầy
dịch, hiếm khi chứa khí, tổn thương nằm tiếp giáp với thực quản đôi khi xuất
hiện đường rò.


11

11

1.4.3. Sự khác biệt giữa hai thể phổi biệt lập trong và ngoài thùy:
Tuổi phát hiện
Triệu chứng
Hình thái

Trong thùy
Ngoài thùy
Người lớn và tuổi vị thành niên Dưới vị thành niên
Thường bị nhiễm trùng

Hiếm khi bị nhiễm trùng
Nằm trong thùy phổi, không có Nằm ngoài thùy phổi, có

Vị trí tổn thương
Động mạch nuôi

màng phổi bao bọc
màng phổi bao bọc riêng
60% ở thùy đáy trái
90% ở đáy trái thùy dưới trái
Động mạch chủ ngực là chủ yếu Thường là động mạch chủ

TM hồi lưu

bụng
Thường là tĩnh mạch phổi, đổ Thường là tĩnh mạch đơn, đổ

Sự xuất hiện

về nhĩ trái
Thường là chứa khí

về nhĩ phải
Hiếm chứa khí, chủ yếu chứa
dịch

1.5. SINH LÝ BỆNH PHỔI BIỆT LẬP

Cơ sở phôi thai cho sự phát triển phổi biệt lập và dị tật bẩm sinh khác
của đường hô hấp dưới là không rõ ràng [11], [12]. Tổn thương có thể xảy ra

rất sớm trong sự phát triển của phôi thai, trước khi tách riêng động mạch chủ
và động mạch phổi [20]. Một khả năng là tất cả các dị tật sau sinh bắt nguồn
từ phổi nguyên thuỷ và nụ phổi nguyên thủy đại diện cho hình ảnh (sự phân
bố theo tính chất) của phôi thai bất thường [20], [21], [22]. Ví dụ, bất thường
phát triển trong quá trình hình thành chồi phổi có khả năng có thể dẫn đến
phổi biệt lập, BPFM khác như: thùy phổi khí phế thũng bẩm sinh, dị tật
đường thở bẩm sinh (CPAM, CCAM), hoặc bất thường u nang phế quản [23],
[24], [25], [26].
Một lời giải thích là một phần của phổi đang phát triển đươc tách ra
khỏi phần còn lại do chịu đè ép từ các cấu trúc thuộc hệ tim mạch, kéo theo
có hệ thống mạch từ động mạch chủ bất thường, hoặc không tương xứng với
lưu lượng máu phổi. Thật không may, giả thuyết này không hoàn toàn giải
thích tất cả các loại tổn thương, đặc biệt BPFM [11], [12].


12

12

Một quan điểm khác là một số phổi biệt lập nội thùy có thể mắc phải
chứ không phải là một tổn thương bẩm sinh. Trong một báo cáo nghiên cứu
về 15 mẫu bệnh lý của phổi biệt lập nọi thùy, hầu hết được cho là đại diện cho
một trong hai dị tật đa u nang bẩm sinh (CPAM) mà không được công nhận
cho đến khi nó bị nhiễm trùng, hoặc phổi phát triển bình thường được cung
cấp bởi một động mạch hệ thống khác thường [27]. Chứng minh nguồn gốc
mắc phải sau khi sinh của phổi biệt lập nội thùy cũng được hỗ trợ bởi độ tuổi
phát bệnh. Phổi biệt lập trong thùy thường xuất hiện từ tuổi vị thành niên có
dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng tái phát, trong khi phổi biệt lập ngoài
thùy thường xuất hiện trong giai đoạn trước vị thành niên với tổn thương về
đường hô hấp.

1.6. GIẢI PHẪU BỆNH PHỔI BIỆT LẬP

1.6.1. Đại thể
Phổi biệt lập được đặc trưng bởi vị trí, phần nhu mô phổi biệt lập thông
thương với các cấu trúc khác, cung cấp máu của hệ mạch và kết hợp với các
bất thường khác.
1.6.1.1. Vị trí :


Hầu hết phổi biệt lập xảy ra ở các thùy dưới; Tuy nhiên, nó có
thể xảy ra bất cứ nơi nào trong ngực [28]. Ngoài ra, phổi biệt lập
ngoài thùy có thể hiểu như một màng phổi tạng nhỏ tách biệt hẳn
với lá tạng màng phổi bình thường hoặc khối sau phúc mạc [29].
Mức độ gặp ở phổi nào nhiều hơn khác nhau giữa phổi biệt lập
ngoài thùy và trong thùy. Phổi biệt lập ngoài thùy hầu như luôn
luôn liên quan đến phổi trái. Trong khi đó phổi biệt lập trong
thùy có mức độ ưu thế phổi trái thấp hơn: khoảng 60 % các
trường hợp nằm trong phân thuỳ sau của thùy dưới bên trái [30],
[11], [2],[31]. Ngược lại, BPFM hay gặp hơn ở phổi bên phải.


13

13

Trường hợp hiếm hoi của phổi biệt lập hai bên phổi cũng đã
được báo cáo [32], hay gặp cả hai thể phổi biệt lập tỷ lệ rất hiểm
3/2625 trường hợp [33].
1.6.1.2. Mối liên kết
Phổi biệt lập trong thùy không có phế quản của nó và không thông với

cây phế quản. Nếu một liên kết tồn tại, đó là bất thường. Tuy nhiên, các liên
kết bất thường có thể liên kết phổi biệt lập với phế quản khác, nhu mô phổi,
hoặc đường tiêu hóa [2], [34]. Những kết nối này và hoặc các lỗ - khe rỗng
của Kohn có thể cho phép vi khuẩn xâm nhập vào phổi biệt lập và gây nhiễm
trùng tái phát, thường thấy ở phổi biệt lập trong thùy.
Phổi biệt lập ngoài thùy tương tự như phổi biệt lập trong thùy, không
liên hệ với cây phế quản gốc. Nó có thể kết nối với đường tiêu hóa, hoặc hiếm
hơn là các cấu trúc trong phổi [2], [34]. Biến chứng nhiễm trùng không phổ
biến ở thể này.
1.6.1.3. Cung cấp mạch máu
Trong phổi biệt lập nội thùy, nguồn cung động mạch thường có nguồn
gốc từ động mạch chủ ngực thấp hoặc động mạch chủ bụng trên. Trong một
báo cáo 25 trường hợp, 16 trường hợp có một thân động mạch duy nhất và 9
trường hợp còn lại có nhiều động mạch [2].Hệ thống tĩnh mạch thường là
tĩnh mạch phổi về tâm nhĩ trái, mặc dù có các nhánh hồi lưu bất thường của
hệ tĩnh mạch chủ, tĩnh mạch đơn…có thể về tâm nhĩ phải .
Nói chung, cấp máu động mạch của phổi biệt lập ngoài thùy xuất phát
từ một nhánh khác thường phát sinh từ động mạch chủ ngực [34]. Nhánh
thường nhỏ, với lưu lượng máu thấp. Tổn thương thường có hệ thống tĩnh
mạch hồi lưu bất thường tĩnh mạch chủ, hệ thống tĩnh mạch đơn…về tâm nhĩ
phải [35].
1.6.1.4. Bất thường liên quan


14

14

Bất thường bẩm sinh có thể đi kèm với phổi biệt lập, xảy ra thường
xuyên hơn ở những bệnh nhân phổi biệt lập ngoài thùy so với phổi biệt lập

trong thùy. Trong 28 trường hợp ở trẻ em và người lớn, dị tật kèm theo xảy
ra trong 43 % phổi biệt lập ngoài thùy và 17 % của phổi biệt lập nội thùy [1].
Bất thường liên quan bao gồm thoát vị hoành bẩm sinh, dị tật cột sống, bệnh
tim bẩm sinh, giảm sản phổi, đại tràng…[11], [12]. Dị tật bẩm sinh đường thở
u đa nang tuyến bẩm sinh (CPAM) đôi khi được ghi nhận cộng hợp với phổi
biệt lập ngoài thùy, xảy ra ở 23 trên 46 trường hợp (50% ) ở báo cáo [21].
1.6.2. Vi thể:
- Phổi biệt lập ngoài thùy có thể giống nhu mô phổi bình thường hoặc
nhu mô phổi đang phát triển ở thời kỳ bào thai tương tự như các loại u nang
nhỏ của CPAM.
- Phổi biệt lập nội thùy gặp thường xuyên hình ảnh biến đổi bất thường
trên một nền còn một vài vùng nhu mổ phổi bình thường. Trên lát cắt nhu mô
phổi biệt lập thường được phân định rõ ràng với các nhu mô bình thường lân
cận. Nhu mô bất thường đã lan rộng tổn thương và dày lên gây tổn thương
nhu mô phổi lành kế cận. Phế quản vùng tổn thương thường giãn ra và chứa
đầy chất nhầy.
Sự xuất hiện mô phổi bình thường trong phổi biệt lập nội thùy cho thấy
sự biến dạng các nhu mô phổi nhiều hơn phổi biệt lập ngoài thùy, với đặc
điểm: các vùng viêm, tích tụ chất nhầy, mủ và hình thành cũng như biến đổi
những nang nhỏ. Đôi khi các kênh bạch huyết giãn có liên quan đến tổn
thương. Phổi biệt lập nội thùy có thể giống như CPAM loại u nang nhỏ hoặc
hẹp phế quản.
Trong một số trường hợp, tổn thương có thể kết hợp giữa phổi biệt lập
và CPAM [21], [22], [36]. Trong một báo cáo, 5 trường hợp phổi biệt lập
trong thùy và 1 trường hợp phổi biệt lập ngoài thùy đã được chẩn đoán trước


15

15


khi sinh đã có một nhánh của động mạch chủ đi đến nuôi dưỡng cho tổn
thương , nhưng mô học lại phù hợp với CPAM. Trong loạt mẫu bệnh phẩm
của nghiên cứu khác, 23 trong 46 trường hợp phổi biệt lập ngoài thùy có kết
quả mô học là CPAM typ 2. Trong số này, 11 trường hợp là u niêm cơ vân
thoái hóa [21].
1.7. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG PBL

1.7.1. Lâm sàng
Tổ chức phổi biệt lập phát triển lớn lên cùng tuổi đời của người bệnh.
Thường người bệnh không có biểu hiện lâm sàng khi ở giai đoạn chưa có biến
chứng nếu phát hiện ở giai đoạn này thường do khám sức khỏe tình cờ. Đến
khi tổ chức PBL phát triển lớn dần hoặc hoặc có biến chứng như nhiễm trùng,
ho máu, giãn phế quản, ung thư hóa… thì người bệnh mới phát hiện ra. Nên
khi hỏi và khám bệnh ta phải quan tâm đến tiền sử các bệnh được chẩn đoán
trước đó, đặc biệt tại phổi. Có 2 loại tiền sử được nhắc đến trong phổi biệt lập:


Loại thứ nhất : Tiền sử được chẩn đoán là phổi biệt lập trước đó nhưng
chưa điều trị gì. Loại này gặp chủ yếu trong phổi biệt lập ngoài thùy
được chẩn đoán trước sinh. Loại thứ nhất được chuẩn đoán chủ yếu trên
siêu âm hoặc MRI trước sinh. Vấn đề này đã được báo cáo trong
nghiên cứu [37]: có 41 thai được xác định là phổi biệt lập ngoài thùy



trong một khoảng thời gian 14 năm.
Loại thứ hai: Tiền sử chưa được chẩn đoán phổi biệt lập trước đó mà
chỉ được chẩn đoán mắc các bệnh khác. Loại này gặp trong cả hai thể do
chỉ chẩn đoán được biến chứng mà bỏ sót nguyên nhân hoặc ở phổi biệt

lập ngoài thùy là tình trạng bệnh do các dị dạng khác kèm theo khi mà
phổi biệt lập ngoài thùy chưa có biểu hiện trên lâm sàng. Loại này gồm:
• Trẻ sơ sinh mắc phổi biệt lập ngoài thùy thường có triệu chứng
suy hô hấp, viêm phổi tái phát…hoặc suy tim, tăng áp lực động
mạch phổi [3].


16

16



Trong phổi biệt lập nội thùy, có thể có biểu hiện ho máu, đau
ngực trong nghiên cứu hai tác giả nước ngoài [4], [2], hay báo
cáo trong nước [19]. Hay gặp nhất là biến chứng viêm phổi tái
diễn nhiều lần [3], áp xe phổi, viêm phổi kéo dài, bộinhiễm lao,
nấm. Hay hiếm gặp như : ung thư hóa [38]

- Phổi biệt lập ngoài thùy điển hình biểu hiện sớm hơn so với phổi biệt
lập trong thùy. Việc chẩn đoán có thể được thực hiện sớm ở trẻ sơ sinh hoặc
trẻ nhỏ với các triệu chứng của nó. Tuy nhiên, một số trường hợp của phổi
biệt lập ngoài thùy được phát hiện ở người lớn. Trong một loạt các báo cáo ở
trên, tuổi chẩn đoán dao động từ trẻ sơ sinh đến 65 tuổi [39]. Trong số 50
trường hợp phổi biệt lập ngoài thùy, 12 đã có chẩn đoán trước khi sinh và 23
trường hợp đã được phát hiện trong giai đoạn ba tháng đầu của trẻ [39].
Vì vậy, bất kỳ bệnh nhân với các bệnh cảnh lâm sàng trên ta phải chẩn
đoán xem bệnh nhân có bị phổi biệt lập không vì điều trị các bệnh trên chỉ là
điều trị triệu chứng, biếm chứng, không giải quyết được gốc rễ của vấn đề nên
nguy cơ tái phát rất cao.

1.7.2. Cận lâm sàng
Bệnh nhân phổi biệt lập vào viện với rất nhiều lý do nên cận lâm sàng
cũng phong phú và phụ thuộc vào tình trạng của bệnh nhân. Gồm:
- Xét nghiệm chẩn đoán bệnh phổi biệt lập
- Xét nghiệm chẩn đoán biến chứng
- Xét nghiệm phục vụ điều trị
Trong đó xét nghiệm chẩn đoán biến chứng và phục vụ điều trị phụ
thuộc vào loại biến chứng, còn xét nghiệm chẩn đoán xác định phổi biệt lập
dựa vào: chụp động mạch chủ có cản quang, MRI và MSCT nhưng chính xác
nhất vẫn là MSCT.


17

17

1.8. CHẨN ĐOÁN PHỔI BIỆT LẬP

1.8.1. Chẩn đoán xác định
1.8.1.1. Chẩn đoán trước sinh
- Hình ảnh SA: Khối tăng âm hình tam giác ở phổi kèm theo đa ối, phù
thai. Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh phổi tuyến nang typ III, dựa vào siêu âm
Doppler màu. (Bệnh Phổi tuyến nang ĐM nuôi phổi xuất phát từ ĐM Phổi).
- Vùng tăng âm đáy phổi trái được cấp máu bởi ĐM Chủ
- Cắt ngang ngực ở 22 đến 24 tuần trên SA 4D thấy một khối tăng âm
dày đồng dạng ở phần thấp lồng ngực trái. Vùng tăng âm dày đồng dạng được
cung cấp máu nuôi từ động mạch chủ. Hay gặp các di dạng phối hợp theo bao
gồm thoát vị hoành, dị dạng nang tuyến phổi.
- Ngoài ra chụp cộng hưởng từ trước khi sinh (MRI) có thể giúp phân
biệt phổi biệt lập với CPAM, thoát vị hoành bẩm sinh, hoặc tổn thương phổi ít

phổ biến khác. Hình ảnh là vùng tăng tín hiệu trên T2 đồng thời thấy mạch
máu nuôi xuất phát từ động mạch chủ.
1.8.1.2. Chẩn đoán xác định sau sinh dựa vào MSCT
- Hình ảnh điển hình gồm:


Nang chứa dịch



Hang chứa cả dịch lẫn khí



Đông đặc dạng viêm phổi
- Vị trí hay gặp là đáy phổi
- Nhánh động mạch cấp máu bất thường của vùng nhu mô phổi tổn

thương xuất phát từ động mạch chủ ngực hoặc động mạch chủ bụng. Có thể
có 1 hoặc nhiều nhánh


18

18

- Tĩnh mạch hồi lưu có thể đổ về hệ tĩnh mạch đơn, tĩnh mạch chủ,
tĩnh mạch phổi…
1.8.2. Chẩn đoán phân biệt:
Chỉ đặt ra chủ yếu với ELS trong bào thai và khi còn nhỏ, cần phân biệt

với các dị tật đường hô hấp khác.
Hay biến chứng của ILS do nó hay không phải do nó trong các trường
hợp khó, khi chỉ định điều trị là khác nhau giữa 2 chẩn đoán.
- Chẩn đoán phân biệt với các bệnh bẩm sinh đường hô hấp khác:


Chẩn đoán phân biệt của phổi biệt lập bao gồm tổn thương phổi
nang khác, chẳng hạn như CPAM. Trái ngược với phổi biệt lập,
CPAM có kết nối với cây phế quản và được cấp máu từ tuần
hoàn phổi. Tuy nhiên, tổn thương lai với các đặc tính mô học
của CPAM và một nguồn cấp máu từ động mạch chủ đã được
báo cáo [40]. Trong một nghiên cứu khác, 25 trong 50 trường



hợp phổi biệt lập liên kết với một CPAM [39]
Ngoài CPAM, chẩn đoán phân biệt của phổi biệt lập bao gồm
các tổn thương ngực với một vùng tổn thương biệt lập khác. Bao
gồm thoát vị hoành bẩm sinh, u nang phế quản và thùy phổi khí
phế thũng bẩm sinh. Phổi biệt lập cũng có thể bị nhầm lẫn với
một khối u trung thất như u quái hoặc u nguyên bào thần kinh.

- Chẩn đoán phân biệt với các biến chứng của chính nó dựa vào chụp
MSCT thấy hình ảnh động mạch nuôi xuất phát từ hệ động mạch chủ thì chẩn
đoán xác định là phổi biệt lập.
1.9. ĐIỀU TRỊ


19


19

- Phổi biệt lập khi chưa có biến chứng thì phải điều trị căn nguyên để
tránh biến chứng.
- Có biến chứng thì phải điều trị song song cả biến chứng và căn nguyên.
- Điều trị nội khoa phổi biệt lập nhằm mục đích điều trị triệu chứng và
biến chứng nhưng các biến chứng này sẽ tái phát chừng nào chưa giải quyết
dứt điểm nguyên nhân.
- Điều trị căn nguyên PBL trên thế giới hiện nay áp dụng 2 phương pháp:
+ Phẫu thuật cắt bỏ thùy hay phân thùy PBL được chỉ định trong
trường hợp có biến chứng nhiễm trùng phổi tái phát, áp xe phổi, ung thư
phổi… Về nguyên tắc điều trị phẫu thuật cắt bỏ phổi biệt lập trong thùy:


Thể Pryce cắt bỏ tổ chức phổi biệt lập cùng với thùy mà phổi biệt
lập nằm trong đó (cắt thùy phổi)



Thể Le Brigand Dupper người ta có thể cắt riêng tổ chức phổi biệt
lập mà vẫn giữ lại tổ chức phổi lành xung quanh nhất là trong trường
hợp tổ chức phổi biệt lập chưa có nhiễm trùng. Nhưng không phải
trường hợp phổi biệt lập nào của thể Le Brigand cũng có thể cắt
riêng được phổi biệt lập mà giữ lại phần phổi xung quanh mà vẫn
phải cắt cả phổi biệt lập lẫn thùy phổi chứa phổi biệt lập, vì phổi biệt
lập thường nhiễm trùng lan ra xung quanh phần thùy phổi khác.

+ Điện quang can thiệp (nút các nhánh mạch cấp máu của phổi biệt lập
bằng Coil hoặc Amplazer) khi có biến chứng ho ra máu tái phát, tăng áp lực
động mạch phổi và có cuống mạch nuôi rõ.

+ Chọn phương pháp nào phụ thuộc tình trạng bệnh, thể trạng bệnh
nhân và phương tiện kỹ thuật.
- Can thiệp thai nhi :


20

20

+ Phổi biệt lập trên siêu âm có thể tự tiêu biến chỉ có vài bào thai bị
phù tăng dần.
+ Vì vậy, sự can thiệp của thai nhi là rất hiếm và được chỉ định trong
trường hợp thai nhi bị tổn thương nghiêm trọng.
+ Chỉ nên được thực hiện tại các trung tâm có kinh nghiệm trong phẫu
thuật thai nhi. Can thiệp trước khi sinh cần tư vấn rộng rãi cho phụ huynh về
những rủi ro tiềm tàng so với lợi ích của phẫu thuật.
+ Tuy nhiên, kỹ thuật phẫu thuật thai nhi phát triển đã đưa can thiệp
trước sinh là một lựa chọn có giá trị trong điều trị sớm phổi biệt lập.
+ Một nghiên cứu đánh giá 294 trường hợp dị dạng phổi thai nhi bao
gồm 23 phổi biệt lập. Trong số này, ba phù thai tiến triển và tất cả đã được
điều trị thành công trong giai đoạn tử cung [41].
+ Trẻ không có phù thai tăng dần có thể phẫu thuật tốt nếu được hoãn
lại cho đến sau khi sinh.
+ Kết luận: trong trường hợp không có dị tật bẩm sinh quan trọng khác,
tiên lượng cho trẻ em với phổi biệt lập nói chung là rất tốt [25], [41]. Điều
này được minh họa bằng 2 báo cáo của các bệnh nhân trải qua phẫu thuật cắt
bỏ. Trong 10 bệnh nhân (7 trẻ em và 3 người lớn), đã cắt thùy phổi điều trị
phổi biệt lập nội thùy hoặc phổi biệt lập ngoài thùy, 9 không có triệu chứng ở
6 tháng đến 10 năm sau khi phẫu thuật [42]. Một trẻ sơ sinh non (29 tuần tuổi
thai) chết một tháng sau khi sinh vì viêm ruột hoại tử. Báo cáo nghiên cứu

[43]: mô tả 22 bệnh nhân bị bệnh phổi nang chẩn đoán trước khi sinh, 7 người
trong số họ bị phổi biệt lập được phẫu thuật điều trị. Thời gian sống trung
bình sau phẫu thuật là 6,9 năm. Mặc dù nói chung các ca mổ đều tốt, nhưng
một số đã bị nhiễm trùng đường hô hấp thường xuyên hoặc tăng trưởng chậm.
Các tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm sóc hô hấp dài hạn và đánh giá


21

21

các thông số tăng trưởng. Nghiên cứu cho thấy rằng chức năng thông khí, tưới
máu có thể hữu ích trong việc quản lý lâu dài của bệnh nhân sau phẫu thuật
các dị dạng phổi bất thường.

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định là phổi biệt lập dựa vào:
- Triệu chứng lâm sàng.
- Hình ảnh chụp MSCT điển hình.
- Phẫu thuật mở ngực hoặc nội soi thấy vùng phổi tổn thương được cấp
máu bởi các nhánh của động mạch chủ.
2.1.2. Thời gian: từ 11/ 2010 đến 02/2014.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu.

2.2.2. Phương pháp thu thập thông tin
Nghiên cứu hồi cứu trên hồ sơ bệnh án của 10 bệnh nhân phổi biệt lập
tại phòng lưu trữ hồ sơ thuộc phòng kế hoạch tổng hợp bệnh viện Bạch Mai
và bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108. Mỗi bệnh nhân được điền các thông
tin vào một mẫu thống nhất
1.
2.
3.

Thông tin chung: tuổi, giới, nghề nghiệp
Lý do vào viện: sốt, ho đờm, ho máu, đau ngực…
Tiền sử các bệnh đã được ghi nhận trước đó


22

22

4.

Thông tin ở tuyến trước: thời gian bị bệnh trước khi vào viện đầu tiên,

5.
6.

thời gian điều trị tại tuyến trước, chẩn đoán ở tuyến trước.
Triệu chứng cơ năng: ho, khó thở, đau ngực, sốt…
Triệu chứng toàn thân: hội chứng nhiếm trùng, hội chứng thiếu máu,

7.


gầy sút cân…
Triệu chứng thực thể: hội chứng đông đặc, hội chứng ba giảm, rale ở

8.

phổi…
Triệu chứng X-quang phổi chuẩn: Mô tả vị trí tổn thương, hình ảnh tổn
thương, số lần chụp X-quang của bệnh nhân và so sánh với kết quả lần

9.

trước.
Cắt lớp vi tính thường và cắt lớp vi tính xoắn ốc đa dãy: mô tả vị trí,
hình ảnh tổn thương, động mạch cấp máu và tĩnh mạch hồi
Lưu.
Nội soi phế quản
Bilan viêm: số lượng và công thức bạch cầu, tốc độ máu lắng, CRP…
Giải phẫu bệnh tổ chức phổi sau phẫu thuật: Đại thể và vi thể
Các xét nghiệm các cần cho chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán bệnh phổi biệt lập : lúc vào viện, sau khi có kết quả chụp

MSCT, trước mổ, trong và sau mổ.
Phương pháp điều trị phổi biệt lập:


Điều trị biến chứng




Điều trị nguyên nhân: Phẫu thuật hoặc nút mạch



Phương pháp điều trị khác: Điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ trước
và sau mổ

2.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU

Số liệu thu thập được xử lý bằng tay với các thuật toán y học thống kê.


23

23

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. TUỔI, GIỚI VÀ NGHỀ NGHIỆP

3.1.1. Tuổi và giới
Bảng 3.1: Sự phân bố nhóm tuổi và giới trong bệnh phổi biệt lập (n=10)
Nhóm tuổi
15-29
30-44
>45

Nam
3
1

1

Nữ
2
3
0

Số bệnh nhân
5
4
1

Tỷ lệ %
50
40
10

Tổng

5

5

10

100

Nhận xét:
Nghiên cứu của tôi chỉ thực hiện trên bệnh nhân trưởng thành, tuổi
nhỏ nhất là 20, tuổi lớn nhất là 68. Tuổi trung bình là 32,2 + - 13,9

• Nhóm tuổi từ 15-29 gặp nhiều nhất sau đó đến nhóm tuổi 30-44 .
Nhóm tuổi sau 45 chỉ gặp một bệnh nhân
• Tỷ lệ gặp ở nam và nữ là như nhau, trong đó nam gặp nhiều hơn nữ ở
nhóm tuổi 15-29 , nhưng nữ lại gặp nhiều hơn nam ở nhóm tuổi 30-44.
3.1.2. Nghề nghiệp


Bảng 3.2: Phân bố nghề nghiệp trong bệnh phổi biệt lập
Nghề nghiệp
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Công nhân
3
30
Trí thức
3
30
Sinh viên
1
10
Tự do
3
30
Tổng
10
100
Nhận xét: tỷ lệ mắc ở công nhân , trí thức và nhóm nghề tự do là như
nhau, chiếm 30%. Sinh viên chiếm 10%
3.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG BỆNH PHỔI BIỆT LẬP


3.2.1. Tiền sử mắc bệnh trước đó
Bảng 3.3: Tiền sử bệnh đã được ghi nhận trước đó (n=10)
Tiền sử

Số bệnh

Tỷ lệ %


24

24

Tại phổi Bẩm sinh
Kén phổi
Mắc phải Áp xe phổi
Giãn động mạch phế quản
U phế quản
Xẹp phổi
Ho máu
Khoẻ mạnh
Tổng

nhân
1
1
1
1
1
1

4
10

10
10
10
10
10
10
40
100

Nhận xét:
Số bệnh nhân có tiền sử bệnh phổi chiếm đa số (60%). Trong đó: một
bệnh nhân có kén phổi bẩm sinh và được chẩn đoán năm 2 tuổi, một bệnh
nhân bị xẹp một phân thuỳ phổi do viêm phế quản nhiều lần khi còn nhỏ, còn
lại 4 bệnh nhân khác có tiền sử mắc bệnh về phổi đã được chẩn đoán và điều
trị. Các bệnh nhân khác đều được chẩn đoán bệnh lần đầu.
3.2.2. Thời gian vào viện trước khi bị bệnh của bệnh nhân phổi biệt lập
Bảng 3.4: Thời gian bị bệnh của bệnh nhân phổi biệt lập trước khi nhập
viện (n=10)
Thời gian (ngày)
<14
14-29
>30
Nhận xét:

Số bệnh nhân
3
4

3

Tỷ lệ %
30
40
30

Thời gian bị bệnh trước khi vào viện 14-29 ngày và chiếm 4/10 ca, còn
lại thời gian nhỏ hơn 14 ngày và trên 30 ngày trước khi vào viện chiếm 3/10
ca. Trong đó: một bệnh nhân đi khám tình cờ phát hiện ra bệnh mà không có
biểu hiện lâm sàng trước đó; một bệnh nhân có thời gian bị bệnh trước đó 3
tháng, một bệnh nhân có thời gian biểu hiện bệnh đợt này là một tuần nhưng
thường xuyên có những đợt bệnh diễn biến như vậy 5 năm nay và chưa một
lần được chẩn đoán phổi biệt lập.
3.2.3. Lý do vào viện


25

25

Bảng 3.5: Lý do vào viện chính của bệnh nhân phổi biệt lập (n=10)
Lý do vào viện
Ho kéo dài
Ho máu
Ho đờm
Ho mủ
Đau ngực
Sốt
Tình cờ đi khám phát hiện

Tổng

Số bệnh nhân
1
2
2
1
2
1
1
10

Tỷ lệ %
10
20
20
10
20
10
10
100

Nhận xét:
Lý do khiến bệnh nhân phải đến viện hay gặp là ho máu, ho đờm và
đau ngực( chiếm 20% cho mỗi lý do), các lý do khác ít gặp hơn
3.2.4. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân phổi biệt lập (n=10)
Bảng 3.6: Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân phổi biệt lập
Triệu chứng lâm sàng
Ho khan
Ho máu

Ho mủ
Triệu chứng cơ năng
Ho đờm
Đau ngực
Khó thở
Rung thanh giảm
Gõ vang
Rì rào phế nang giảm
Triệu chứng thực thể Rale nổ
Rale ẩm
Hội chứng đông đăc
Hội chứng ba giảm
Triệu chứng toàn thân Sốt
Nhận xét:

Số bệnh nhân Tỷ lệ %
2
20
2
20
1
10
4
40
5
50
1
10
1
10

1
10
5
50
4
40
2
20
3
30
1
10
4
40


×