Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Thực trạng sâu răng, viêm lợi và hiệu quả truyền thông sức khỏe răng miệng ở trẻ em bị bệnh tự kỷ tại một số trường trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.68 KB, 46 trang )

1

B GIO DC V O TO
B Y T
TRNG I HC Y H NI

NGUYN MNG NG KIU

ĐáNH GIá TìNH TRạNG SÂU RĂNG,
VIÊM LợI, MảNG BáM Và HIệU QUả TRUYềN THÔNG
SứC KHỏE RĂNG MIệNG ở TRẻ EM Bị BệNH Tự Kỷ
TạI MộT Số TRƯờNG TRÊN ĐịA BàN Hà NộI

KHểA LUN TT NGHIP BC S RNG HM MT
Khúa 2009 - 2015

Ngi hng dn khoa hc:
TS. Vế TRNG NH NGC

H NI - 2014
MC LC


2

Danh mục bảng
Danh mục hình

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH




3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tự kỷ là một căn bệnh thần kinh gây ra do nhiều yếu tố tác động. Bệnh
biểu hiện ở trẻ em từ rất sớm khoảng vài tháng tuổi và tồn tại suốt cuộc đời,
ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của trẻ. Hiện nay chưa có phương pháp
chữa khỏi hoàn toàn mà chỉ có những liệu pháp giúp phục hồi chức năng và
hluyện các kỹ năng còn thiếu sót cho trẻ.
Tuy là một căn bệnh về thần kinh nhưng trẻ tự kỷ còn gặp rất nhiều vấn
đề khác về sức khỏe : tiêu hóa, hô hấp,…Sức khỏe răng miệng cũng không loại
trừ. Do đặc tính về thể chất, khả năng chăm sóc bản thân kém cộng với khó
khăn trong việc thăm khám và chữa trị, trẻ thường xuyên gặp những vấn đề
răng miệng như sâu răng, viêm lợi, mảng bám, lở loét niêm mạc,….. Trước
đây việc chữa trị cho trẻ tự kỷ chủ yếu được thực hiện kết hợp với gây mê.
Hiện nay trên thế giới sức khỏe răng miệng của trẻ tự kỷ đang rất được quan
tâm. Đã có nhiều ngiên cứu được thực hiện và nhiều phương pháp giáo dục
và chăm sóc răng miệng cho trẻ được đề xuất với mục tiêu là giúp trẻ tự kỷ
nhận thức được tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe răng miệng, chấp
nhận việc thăm khám chữa trị và tập luyện những kỹ năng chăm sóc răng
miệng cần thiết.
Một phương pháp giáo dục rất phù hợp với trẻ tự kỷ đó là giáo dục thị
giác. Phương pháp này dựa vào một khả năng của trẻ tự kỷ đó là suy nghĩ bằng
hình ảnh, dùng những sách ảnh, câu chuyện bằng tranh, phim mô tả để kích
thích nhận thức của trẻ thông qua thị giác. Từ đó tập luyện những kỹ năng sống,
cải thiện những hành vi xã hội cần thiết và giảm thiểu các hành vi không hợp lý.
Phương pháp này cũng được áp dụng trong việc giáo dục sức khỏe răng miệng
cho trẻ tự kỷ và có kết quả khả quan, từ đó tình trạng răng miệng của trẻ được
cải thiện, chất lượng cuộc sống của trẻ cũng được nâng cao.



4

Ở Việt Nam, số lượng trẻ tự kỷ ngày một tăng cao. Nhiều trung tâm đặc
biệt đã được mở ra để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Cha mẹ cũng đã quan
tâm tìm hiểu nhiều hơn về căn bệnh tự kỷ và áp dụng nhiều phương pháp
giáo dục tiên tiến. Đã có khá nhiều nghiên cứu về trẻ tự kỷ giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về đặc điểm, nguyên nhân, biểu hiện và tiến triển của bệnh. Tuy nhiên
vấn đề sức khỏe răng miệng cho trẻ tự kỷ vẫn chưa được quan tâm triệt để.
Chưa có một nghiên cứu nào về thực trạng sức khỏe răng miệng cũng như
các phương pháp chăm sóc răng miệng cho trẻ tự kỷ được tiến hành dẫn đến
những khó khăn trong việc giáo dục nhận thức và rèn luyện kỹ năng chăm sóc
sức khỏe răng miệng cho trẻ.
Giai đoạn từ 6-12 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp từ bộ răng sữa sang bộ
răng vĩnh viễn. Trẻ dễ mắc nhiều vấn đề như sâu răng, viêm nha chu, chấn
thương, mất răng sớm, thay răng không đúng tuổi…không chỉ ảnh hưởng tới
bộ răng sữa hiện tại mà còn có nguy cơ tới bộ răng vĩnh viễn sắp thay thế như
hư hỏng mầm răng, rối loạn phát triển, mọc lệch chỗ. Ngoài ra còn ảnh hưởng
tới sức khỏe toàn thân và chất lượng sống của trẻ. Do đó, việc giữ gìn tốt vệ
sinh răng miệng ở giai đoạn này là hết sức cần thiết. Mặc khác, trẻ từ 6-12 tuổi
nhận thức đã phát triển khá tốt, khả năng tiếp thu cao nên việc hướng dẫn
chăm sóc sức khỏe răng miệng có thể tiến hành thuận lợi và mang lại hiệu quả.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Thực trạng sâu răng, viêm lợi và
hiệu quả truyền thông sức khỏe răng miệng ở trẻ em bị bệnh tự kỷ tại
một số Trường trên địa bàn Hà Nội", với các mục tiêu như sau:
1. Đánh giá thực trạng bệnh sâu răng, viêm lợi, mảng bám ở nhóm trẻ
tự kỷ tại một số trường trên địa bàn Hà Nội.
2. Đánh giá hiệu quả truyển thông sức khỏe răng miệng ở nhóm đối
tượng nghiên cứu trên



5


6

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về trẻ tự kỷ
1.1.1. Lịch sử phát triển
1.1.1.1. Leo Kanner
Năm 1943, nhà tâm thần học người Mỹ Leo Kanner (1894 – 1981) công
bố nghiên cứu của ông về 11 đứa trẻ bị tự kỷ có những đặc điểm chung như
-

sau [1]:
Thờ ơ, tự cô lập, hạn chế tiếp xúc với mọi người .
Không thích ứng với sự thay đổi của môi trường xung quanh.
Thích những hành động lặp đi lặp lại.
Có những vấn đề về ngôn ngữ như : Sử dụng đảo ngược các đại từ nhân xưng
(ví dụ dùng từ « bạn » thay cho « tôi »), sự nói lắp, vốn từ hạn chế, diễn đạt

-

kém.
Trí thông minh ở mức trung bình, một số có tài năng khéo léo ở một lĩnh vực

-


nào đó.
Sự phát triển về thể chất bình thường, tuy nhiên, thường xuất hiện những
cơn động kinh
Ông đưa ra kết luận rằng tự kỷ không phải là một dạng tâm thần phân
liệt. Khác với tâm thần phân liệt mà trong đó người bệnh tự cách ly hoàn
toàn với thế giới bên ngoài và chỉ sống trong thế giới mà họ tạo ra bằng sự
hoang tưởng và những ảo giác, người tự kỷ vẫn có những sự tiếp xúc đối với
những thứ mà họ có thể thao tác một cách khéo léo và dành cho chúng một
sự quan tâm đặc biệc, đôi lúc thái quá. Họ vẫn có thể tồn tại và thích nghi
trong thế giới thật : đi học, làm việc, sống một mình, tự lái xe, có nhà riêng,
thậm chí có thể kết hôn. Đó là những người có trí nhớ rất tốt, khéo léo, thậm
chí là rất tài năng.Vấn đề của họ là con người. Họ không có khả năng giao
tiếp, không biết thiết lập những mối quan hệ đối với người khác, khó khăn


7

trong việc kết bạn và thể hiện cảm xúc. Do đó, họ thu mình trong chiếc vỏ của
bản thân. [2]
1.1.1.2. Hội chứng Asperger
Năm 1944, bác sỹ nhi người Áo Han Asperger công bố luận văn của ông
« Bênh tử kỷ ở trẻ em ». Theo ông, tự kỷ là một loại tính cách xuất hiện từ nhỏ
và kéo dài cho đến tuổi trưởng thành thể hiện qua những biểu hiện đặc biệt :
sự thiếu hụt về cảm xúc, thiếu khả năng hiểu người khác và sự khó khăn
trong hòa nhập xã hội. Nghiên cứu của ông có nhiều nét tương đồng so với
Kanner ngoại trừ một số điểm : những đứa trẻ trong nhóm nghiên cứu của
Kanner đều mất khả năng giao tiếp tuy nhiên lại khá thông minh. Những đứa
trẻ trong nghiên cứu của Asperger một mặt thường không gặp vến đề về giao
tiếp, mặc khác, trong khi một số rất có năng khiếu, số khác có thể có vến đề về

trí tuệ thậm chí rất nghiêm trọng. [3]
Năm 1981, nhà tâm thần học Lorna Wing lần đầu tiên sử dụng thuật
ngữ « hội chứng Asperger » để mô tả một dạng tự kỷ nhẹ, biểu hiện bởi khả
năng học nói nhanh, trí thông minh trung bình hoặc tốt, nhưng gặp khó khăn
trong quá trình giao tiếp và hòa nhập xã hội.
1.1.1.3 Rối loạn phát triển lan tỏa
Năm 1983, nhà nghiên cứu người Anh Lorna Wing đã thiết lập nhóm 3
đặc điểm điển hình của chứng tự kỷ : khiếm khuyết trong giao tiếp bằng lời
và không bằng lời, rối loạn quan hệ xã hội và hành vi lặp lại. [4]
Năm 1988, thuật ngữ «rối loạn phổ tự kỷ » ra đời để chỉ những chứng
rồi loạn thỏa mãn nhóm ba đặc điểm của wing.
Năm 1993, bản phân loại bệnh quốc tế (CIM) đã đổi « rối loạn phổ tự
kỷ » thành « rối loạn phát triển lan tỏa » (TED) TED được định nghĩa như
sau : một nhóm những rối loạn biểu hiện qua những khiếm khuyết trong các
mối quan hệ xã hội và khả năng giao tiếp cùng với hành vi lặm lại và nhu cầu


8

lợi ích hạn chế. Những rối loạn này ành hưởng đến sự phát triển về tất cả mọi
-

mặt của người bệnh. TED bao gồm [5]:
Chứng tự kỷ
Hội chứng asperger
Hội chứng Rett
Rối loạn tan rã ở trẻ em
Tự kỷ không điển hình
1.1.2. Nguyên nhân
Ngày nay, nguyên nhân gây ra bệnh tự kỷ vẫn chưa được khẳng định. Có

rất nhiều giả thuyết và nghiên cứu đã được đưa ra và tiến hành nhằm giải
thích cho sự xuất hiện của hội chứng này.
1.1.2.1. Giả thuyết tâm thần học
Thuật ngữ “người mẹ lạnh lùng” (mères réfrigérateurs) [6] được sử
dụng trong một thời gian dài để giải thích về chứng tự kỷ như là một phương
tiện tự vệ của trẻ chống lại sự sụp đổ giữa mối quanhệ mẹ và con. Để tự bảo
vệ trước sự mất cân bằng trong quan hệ sống khi còn rất nhỏ, trẻ sẽ tự giam
hãm trong một thế giới bên trong, lập ra một bức tường ngăn cách giữa
chúng với môi trường xung quanh.[7] ngày nay giả thuyết này không còn gí
trị nữa.
1.1.2.2. Nguyên nhân về não bộ và thần kinh
Nhiều nghiên cứu khác nhau đã ghi lại những nguyên nhân não bộ và
tâm thần có thể chịu trách nhiệm cho chứng tự kỷ. Và có nhiều giả thuyết
được đưa ra [8]:
- Không có khả năng thực hiện những kết hợp trong bộ não bằng cách
tập hợp lại những thông tin đa dạng, như là phân tích những biểu hiện mặt,
sự hiểu ngôn ngữ, sự biểu hiện cảm xúc thay đổi và thoáng qua trong thực tế
dẫn đến sự khiếm khuyết xã hội.
- Sự giảm lưu lượng máu đến các bán cầu và giảm số lượng xy náp hoạt
động trong các nếp cuộn thái dương trên và rãnh thái dương trên, có nhiệm


9

vụ xử lý thông tin âm thanh, cái nhìn, biểu hiện nét mặt hay những cử chỉ cần
thiết để phân tích kỹ lưỡng tâm trạng và ý nghĩ của người khác. Điều đó có
thể giải thích cho sự khó khăn trong cuộc sống xã hội của những người mắc
hội chứng tự kỷ.
- theo một giả thuyết khác, phần não chuyên biệt hóa trong nhận diện
giọng nói của con người không được kích hoạt ở người bị tự kỷ. Do vậy, bộ

não của người bị tự kỷ xử lý giọng nói của con người như bất cứ âm thanh
nào khác. Điếu này có thể lý giải sự thờ ơ của trẻ tự kỷ với người thân và
những người xung quanh.
1.1.2.3. Những yếu tố sinh học, gen và môi trường
Theo Noya (2001), tự kỷ là kết quả của những tổn thương sớm ở não
gây ra bởi nhiều yếu tố gen và môi trường khác nhau. Gillberg và Coleman
(2000) cũng như Rapin(1997) đề xuất rằng tự kỷ sinh ra từ sự tương tác của
những yếu tố gen (di truyền) và những yếu tố sinh học hay môi trường trong
giai đoạn sớm của sự phát triển.
Những nghiên cứu trên chuột chuyển gen đã chứng minh vai trò của gen
Hoxa1 trong sự phát triển của cầu não. Theo êkip nghiên cứu ở Londre và
Salt Lake City, gen này sẽ được kích hoạt khi hình thành những neuron đầu
tiên , hoạt hoát hoạt động của những gen khác. Sự chín của gen này thường
biểu hiện ở người tự kỷ hơn là người thường. Những người mắc bệnh về gen
xơ cứng củ ( đặc trưng bởi những cơn con giật, bại liệt và rối loạn tâm lý) và
hội chứng X dễ gãy được chứng minh là có nguy cơ lớn bị tự kỷ
Trong một nghiên cứu ở Anh trên trẻ sinh đôi : trong số những người
anh chị em của trẻ tự kỷ, 3-8% có biểu hiện tự kỷ. Trong trường hợp sinh đôi
cùng trứng, khi một trong hai bị tự kỷ, 60% trẻ còn lại cũng bị, 80% trẻ chỉ có
một số biểu hiện tự kỷ. Nếu nguyên nhân gậy tự kỷ hoàn toàn do gen thì tỷ lệ


10

phải là 100% ở những trẻ sinh đôi cùng trứng. Do đó các nhà nghiên cứu
không loại bỏ những yếu tố môi trường.
Trong những năm 1960, một loại thuốc chống nôn có tên là thalidomide
đã gây nhiều tác hại lên thai nhi. Các nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng 5%
những người trưởng thành đã bị phơi nhiễm thuốc trong thời gian trong tử
cung là người tự kỷ, cao gấp 30 lần trong dân số nói chung. Marilyn miler và

Kersin Stromland (trong Rodier, 2000) nghiên cứu những loại dị dạng biểu
hiện ở nạn nhân bị tự kỷ của thứ thuốc này biểu hiện, thời điểm mà những dị
dạng này xuất hiện và rút ra kết luận rằng sự xuất hiện của tự kỷ gây ra do
thalidomide xảy ra từ rất sớm, khi bộ não và hệ thần kinh của phôi phát triển.
Theo Noya (2001) và Wakefield (1998), có mối tương quan giữa vaccin
RRO (sởi, quai bị, rubeol) và sự xuất hiện của chứng tự kỷ khi quan sát những
trẻ em có biểu hiện chững lại mang tính tự kỷ sau một giai đoạn phát triển
hoàn toàn bình thường sau khi tiêm vaccin RRO. Tuy nhiên giả thuyết này vẫn
đang gặp nhiều tranh cãi. [9]
1.1.3. Biểu hiện
1.1.3.1. Những biểu hiện sớm
Chúng ta có thể quan sát được những dấu hiệu sớm ở trẻ tự kỷ ngay từ
vài tháng tuổi. Những dấu hiệu này không thật sự rõ ràng và cũng không
phải là bằng chứng chắc chắn để khẳng định. Tuy nhiên, nhờ có sự nghi ngờ
của cha mẹ đối với những biểu hiện sớm này, trẻ tự kỷ có thể được chuẩn
đoán sớm và được điều trị ở thời điểm thích hợp. [10]
* Trong năm đầu tiên
- Bất thường trong mối quan hệ với người khác:
• Không có sự trao đổi với người mẹ : thờ ơ với giọng nói và khuôn mặt



của người mẹ, không trao đổi ánh mắt với mẹ
Không thiết lập những mối quan hệ với người khác
Không có tiếp xúc bằng mắt, không phản ứng khi được gọi tên


11

- Bất thường trong hành vi

• Trẻ quá ngoan, nằm im, không khóc, không phản ứng, đôi khi ngược
lại, trẻ hoạt động quá mức
• Hành động lặp lại
• Phản ứng mạnh khi được người lớn ôm, bồng bế
• Chậm nói hoặc không nói
- Bất thường trong sinh hoạt
• Rối loạn giấc ngủ : ngủ rất ít hoặc không ngủ, ngoan, mắt mở to hoặc


ngược lại, không ngủ đi kèm với hoạt động quá mức.
Rối loạn ăn uống, không biết bú

* Trong năm thứ hai
- Thiếu những hành vi mong đợi của lứa tuổi:
• Sự chỉ tay (hướng sự chú ý tới đồ vật, thể hiện mong muốn của bản



thân) – phương tiện để giao tiếp với người khác
Sự tiếp xúc bằng mắt – thể hiện sự chú ý tới người đối diện
Sự biểu hiện những điều mong muốn (ví dụ muốn người lớn đưa cho

một món đồ chơi nhưng không biết biểu hiện thế nào)
• Sự vui đùa với người khác.
- Hành động lặp lại : Sự chú ý tập trung vào những chuyển động lặp lại
( đóng mở cánh cửa trong hàng giờ đồng hồ, xoay tròn các đồ vật hay tự xoay
tròn,…)
- Vấn đề ngôn ngữ : chậm nói hay hoàn toàn không biết nói
- Thích ở một mình
- Có những biểu hiện tự hung bạo với bản thân

- Có khi giống như bị điếc, không phản ứng khi được gọi tên hay tiếng ồn
1.1.3.2. “Thế giới”
* Thế giới bên ngoài
Do có những rối loạn trong ngôn ngữ, giao tiếp, và hành vi, trẻ tự kỷ gặp
khó khăn trong việc hòa nhập xã hội. “Thế giới bên ngoài” trở nên đáng sợ
đối với trẻ. Thường có những suy nghĩ logic riêng để giải thích cho mọi vấn đề
trong cuộc sống, nhưng lại không biết các diễn tả cho người khác hiểu, trẻ tự
kỷ thường bị coi là kỳ lạ, bất thường, tâm thần, bị chọc ghẹo, la mắng khiến


12

cho trẻ càng sợ hãi, tức giận và rúc vào thế giới nội tâm của mình hoặc phản
ứng hung bạo như một cách tự bảo vệ.
* Thế giới nội tâm.
Gặp rất nhiều trở ngại trong việc hòa nhập xã hội, như một cách tự cân
bằng trẻ tự kỷ thường tạo ra cho mình một “thế giới nội tâm”, nơi trẻ cảm
thấy thoải mái và bình yên. Trong “thế giới” đó, trẻ được tự do thả lỏng tâm
trí, giải thích mọi việc theo cách của mình, thậm chí tạo ra những nhân vật,
những người bạn riêng. Khi trẻ đang “sống” ở trong thế giới nội tâm của
mình, mọi liên hệ với bên ngoài dường như bị chặn, trẻ không nghe thấy hay
phản ứng với tiếng ồn, tiếng gọi tên, hay những sự việc xảy ra chung quanh.
Đôi khi cha mẹ cho rằng trẻ có vấn đề về thính lực.
1.1.3.3. Những rối loạn chức năng
Chức năng cảm nhận
Trẻ có những phản ứng đặc biệt đối với những kích thích khác nhau
( phản ứng quá khích, phản ứng chậm, hoặc tìm kiếm những kích thích cảm
nhận). Ví dụ trẻ có thể thờ ơ với tiếng gọi tên, tiếng nói chuyện xung quanh
nhưng đôi khi lại rất nhạy cảm với một số âm thanh rất nhỏ như tiếng giọt
nước rơi ở lavabo,…

Chức năng cảm thụ thị giác
Trẻ tự kỷ có những rối loạn cảm thụ thị giác của những chuyển động đặc
hiệu của con người : điều này có thể ảnh hưởng tới những hành vi khác nhau
như những mối quan hệ xã hội, sự nhận biết những biểu hiện khuôn mặt và
cảm xúc của người khác.
Chức năng vận động


13

Đặc biệc là những hoạt động mang tính tổ chức ( ví dụ sự phối hợp giữa
hành động và ánh mắt, dự đoán sự phối hợp giữa tư thế, chuỗi vận động
động dự kiến và ý định giả thiết một động cơ để phản ứng và tổ chức hành
động hướng tới một mục đích nào đó)
Chức năng nhận thức
Ở trẻ tự kỷ, chức năng nhận thức được đặc trưng bởi :


Khả năng xử lý dữ liệu tập trung vào chi tiết cao hơn so với hiệu suất




trung bình của dân số nói chung.
Khó khăn trong việc thích nghi với sự thy đổi
Khó khăn trong những chức năng điều hành, đặc biệt là trí nhớ công



việc

Khó khăn khi đánh giá trạng thái tinh thần của người khác và của



bản thân
Có xu hướng xử lý phân mảnh các tác nhân kích thích, nhấn mạnh vào
các chi tiết hơn là tổng thể

Chức năng cảm xúc
Khả năng hiểu những biểu hiện cảm xúc của người khác yếu, dẫn đến
khó khăn trong việc phối hợp và chia sẻ cảm xúc
Chức năng giao tiếp
Chức năng giao tiếp bị giới hạn, đặc biệt trong các phương diện thể hiện
sự chú ý qua lại, bắt chước và ngôn ngữ
Chức năng ngôn ngữ
Khả năng ngôn ngữ không hoàn chỉnh hoặc mất hoàn toàn.
Chức năng cảm nhận đặc biệt về sự đau
Những cơn đau có thể biểu hiện qua những rối loạn trong hành vi hoặc
sự phản hồi (sự tự làm đau, sự hủy hoại, sự lặp lại máy móc, sự hung hăng
sinh lý và vấn đề dinh dưỡng) [11]
1.1.3.4. Những rôi loạn liên quan khác


14

Rối loạn giấc ngủ
Mất ngủ là một trong những than phiền phổ biến nhất ở những gia đình
có trẻ tự kỷ
Rối loạn tâm lý
ở những người trưởng thành bị tự kỷ, sự lo lắng và trầm cảm là nhưng

vấn đề tâm lý thường gặp nhất. Ở trẻ em tự kỷ đó là rối loạn “khiếm khuyết
chú ý – hoạt động quá khích”
Động kinh
Nguy cơ động kinh cao hơn ở những người tự kỷ có kèm theo thiểu năng
trí tuệ. Phạm vi của động kinh ở những người tự kỷ thường đươc phân bổ
theo hai kỳ : cao điểm đầu tiên ở trẻ em chưa đi học và cao điểm thứ hai ở
tuổi vị thành niên.
Chậm phát triển trí tuệ
70% trẻ em tự kỷ có những biểu hiện chậm phát triển trí tuệ (40 % chậm
phát triển trí tuệ nặng, 30% chập phát triển trí tuệ nhẹ. Tuy nhiên không có
chậm phát triển trí tuệ ở những trường hợp bị hội chứng Asperger.
1.1.4. Chẩn đoán
Một số phương tiện dùng để chuẩn đoán bệnh tự kỷ [12]
- Bảng phân loại bệnh quốc tế CIM 10 (tiéng Anh là IDC)
- DSM IV – chẩn đoán các bệnh thần kinh
- CFTMEA – Phân loại các rối loạn thần kinh ở trẻ nhỏ và vị thành niên,
bảng này chỉ sử dụng ở Pháp
- Những công cụ chẩn đoán : là những câu hỏi và những biểu hiện quan
sát được nhằm xác định xem đứa trẻ có hay không những dấu hiệu của bệnh
tự kỷ. Những công cụ đó được đề cập trong bảng sau
Tên công cụ
Đặc điểm
Đánh giá cùng với
CARS (children -sử dụng thông dụng nhất, để Quan sát và khai


15

Autistic Rating
Scale – thang

đánh giá bệnh tự
kỷ ở trẻ em

đánh giá mức độ trầm trọng
của chứng rối loại tự kỷ
- trẻ từ 2 tuổi trở lên
- ít khả năng phân biệt giữa
chậm phát triển và tự kỷ
- người thực hiện việc đánh giá
phải được huấn luyện
- Cho phép đưa ra chẩn đoán
CIM 10 hoặc DSM IV
- Trẻ từ 2 tuổi
- Cần phải được huấn luyện
- Hay sử dụng trong nghiên cứu
hơn thực tế lâm sàng

thác thông tin từ bố
mẹ

ADI-R
(autism
Phỏng vấn bố mẹ từ
diagnostic
2 đến 4 tiếng, dựa
interview

trên lịch sử của đứa
revised)
1994

trẻ
(Lord và Rutter)
Phỏng vấn chẩn
đoán tự kỷ sửa
đổi
ADOS-G (Autism - Cho phép kiểm tra sự biểu hiện 30 đến 40 phút, với
diagostic
hay không những hành vi đặc trẻ (có thể có bố mẹ
ovservation
biệc để chẩn đoán tự kỷ
đi cùng với trẻ nhỏ)
Schedule) (Lord - trẻ từ 2 tuổi
và Rutter 2000)
- cần phải được huấn luyện
- Phương tiện phát hiện : thông dụng nhất là CHAT (checklist for autism
in Toddlers) dùng để thu thập những dấu hiệu đầu tiên của bệnh tự kỷ. Thực
hiện với trẻ từ 18 tháng tuổi, và khai thác thông tin từ bố mẹ.
- Đánh giá chức năng





Đánh giá hành vi
Đánh giá chức năng tâm lý
Đánh giá sự giao tiếp và ngôn ngữ
Đánh giá vận động và xúc cảm

1.2. Điều trị cho trẻ tự kỷ
1.2.1. Điều trị giáo dục

1.2.1.1. Phương pháp ABA (applied Behavior Analysis – phân tích ứng dụng
hành vi)
Phân tích ứng dụng hành vi (ABA) là phương pháp phân tích hành vi kết
hợp với can thiệp nhằm mục đích giúp bệnh nhân hòa nhập tối đa với xã hội


16

bằng cách củng cố những hành vi thích nghi và giảm những hành vi được
đánh giá là không phù hợp
Bệnh nhân sẽ được phân tích đánh giá những hành vi phù hợp và không
phù hợp từ đó đưa ra tiến trình điều trị thích hợp.
1.2.1.2. Phương pháp PECS (Picture Exchange Communication System – hệ
thống giao tiếp bằng hình ảnh)
PECS là một hệ thống giao tiếp bằng cách trao đổi hình ảnh áp dụng chủ
yếu ở trẻ chưa đi học. Mục tiêu của phương pháp này là hướng dẫn cho trẻ
tương tác chủ động.
PECS sử dụng các phương pháp dạy trẻ đổi ảnh lấy những thứ mà chúng
muốn như một đồ vật hay một hoạt động. Người áp dụng PECS sẽ lại gần và
đưa ảnh có vật mong muốn cho người cần giao tiếp để được đồ vật đó. Trẻ sẽ
tiến dần qua các pha theo trình tự, nhờ thế chúng sẽ giao tiếp được trong tình
huống xã hội.
1.2.1.3 phương pháp TEACCH ( treatment and education of autistic and
related communication handicapped – chữa trị và giáo dục cho trẻ tự kỷ và
khuyết tật chậm giao tiếp)
TEACCH đưa ra một phương pháp dạy học bài bản dựa trên ý tưởng
rằng môi trường xung quanh nên thích nghi với đứa trẻ mắc bệnh tự kỉ chứ
không phải đứa trẻ phải thích nghi với môi trường. Chương trình dựa trên
những hiểu biết đầy đủ về khả năng hoạt động của trẻ. Các chiến lược giảng
dạy được thiết kế cho phù hợp với những điểm mạnh và điểm yếu đã được

xác định ở trẻ. TEACCH không sử dụng duy nhất một phương pháp chữa trị
mà dùng nhiều phương pháp và cách thức hiện có để giáo dục với mục đích là
giúp đứa trẻ đạt được mức độ tự quản tối đa. Chương trình nhấn mạnh vào
tầm quan trọng đặc biệt của việc giúp đỡ những người bị mắc bệnh tự kỷ và


17

gia đình của họ sống cùng nhau một cách hiệu quả hơn bằng cách giảm thiểu
hoặc xóa bỏ “những hành vi tự kỉ [16].
1.2.2. Chữa trị bằng thuốc
Không có loại thuốc nào chữa khỏi được bệnh tự kỷ. Tuy nhiên, một số
thuốc được khuyên dùng để điều trị các bệnh liên quan tới bệnh tự kỷ, bao
gồm :
- Vấn đề tâm lý : trầm cảm, lo lắng quá mức
- Rối loạn hành vi
- Động kinh
- Rối loạn giấc ngủ
- Một số vấn đề khác : liệu pháp vitamin và chế độ ăn không gluten và
caséine, kháng sinh, kháng nấm, miễn dịch,…[13]
1.2.3. Một số phương pháp khác


Vật lý trị liệu : cải thiện những khó khăn trong vận động gây ra do



những hạn chế về chức năng
Hợp nhất các giác quan : nâng cao khả năng xử lý của các giác quan,





giúp trẻ đạt được những kỹ năng cao hơn.
Cải thiện kỹ năng giao tiếp xã hội
Liệu pháp điều hòa thính giác : điều trị cho những trẻ gặp khó khăn



trong việc xử lý âm thanh hoặc nhạy cảm với âm thanh
Trị liệu ngôn ngữ [13]

1.3. Chăm sóc sức khỏe răng miệng cho trẻ bị tự kỷ - các phương pháp
truyền thông
1.3.1. Mối liên quan giữa tự kỷ và các vấn đề răng miệng
1.3.1.1. Những khó khăn và các yếu tố nguy cơ đến sức khỏe răng miệng ở trẻ
tự kỷ
Nhạy cảm miệng


18

Trẻ tự kỷ thường có một phản ứng quá mức đối với một số kích thích
cảm quan. Nhạy cảm miệng là một dạng nhạy cảm tiếp xúc ở trong miệng.
Trẻ có thể từ chối ăn uống hay không thích một số dạng thức ăn hay chỉ ăn
được thức ăn ở một nhiệt độ xác định
Rối loạn ăn uống
Một số loại thuốc được dùng để giảm rối loạn hành vi ở những bệnh
nhân bị tự kỷ có thể gây giảm tiết nước bọt. Sự thiếu nước bọt làm tăng nguy
cơ sâu răng, do đó cần phải chú ý tăng lượng nước bọt ở trong miệng.

Một số loại thuốc khac chống co giật là nguồn gốc của các phản ứng
trong miệng, hay gặp nhất là phì đại lợi dẫn tới đau và khó khăn khi ăn uống


19

Nghiến răng và tự hung bạo
Xu hướng tự làm đau bản thân (ở miệng: cắn, tự nhổ răng, tự va vào vật
cứng,…) và nghiến răng là những thói quen xấu thường gây ra chấn thương
răng ở trẻ tự kỷ.
Động kinh
Động kinh thường đi kèm với chứng tự kỷ. Vùng miệng là vùng có nhiều
nguy cơ vì khi đang lên cơn, bệnh nhân có thể tự làm cho mình bị thương
(cắn vào lưỡi, má, môi)
Sâu răng
Khuyết tật, vệ sinh răng miệng kém, rối loạn ăn uống, thói quen xấu,
dùng thuốc, ít đến nha sỹ dẫn tới nguy cơ sâu răng ở trẻ tự kỷ rất cao.
Nha chu
Những bệnh nha chu rất thường gặp ở bệnh nhân khuyết tật. Những yếu
tố nguy cơ gồm : vệ sinh răng miệng không đủ, thói quen có hại, rối loạn ăn
nhai, chậm phát triển trí tuệ hay thể chất, răng lệch lạc, sâu mặt bên, rối loạn
ăn uống, thuốc
Khớp cắn
Trẻ tự kỷ thường có một khớp cắn không tốt, chủ yếu là vị trí răng bất
thường và răng chen chúc. Hậu quả của vấn đề này là







Khó ăn nhai
Khó khăn ngôn ngữ
Tăng nguy cơ chấn thương
Tăng nguy cơ bệnh nha chu
Tăng nguy cơ sâu răng


20

Những khó khăn khác
Khó khăn trong nhận thức và giao tiếp
Mức độ hiểu và giao tiếp ở trẻ tự kỷ thường kém gây khó khăn trong việc
khám chữa bệnh. Đdể có được sự tin tưởng và hợp tác của trẻ, bác sỹ thường
sử dụng phương pháp “tell-show-do” tức là nói và mô tả (bằng tranh ảnh, thử
trên tay bệnh nhân) cho bệnh nhân biết những việc sẽ làm trước mỗi động
tác thăm khám chữa bệnh
Rối loạn cảm xúc và tri giác
Ở trẻ tự kỷ, một thay đổi đuột ngột có thể dẫn tới những phản ứng hung bạo


Thính giác : trẻ tự kỷ rất nhạy cảm với âm thanh. Phòng khám nha
khoa lại là một nơi ồn ao với những tiếng động rất kho chịu với trẻ
(tiếng khoan, hút nước, đèn,..) Do đó, khó khăn trong việc làm trẻ bình



tĩnh, tin tưởng và hợp tác
Thị giác : trẻ tự kỷ thường khôn chịu được việc tiếp xúc ánh mắt, đồng




thời, chúng còn nhạy cảm với màu sắc, ánh sáng
Xúc giác : sự tiếp xúc là một cảm giác nguy hiểm làm cho trẻ tự kỷ sợ



hãi nên việc đưa dụng cự khám chữa vào miệng trẻ rất khó khăn
Vị giác : trẻ tự kỷ thường không chấp nhận đưa những chất không
quen thuộc vào miệng của mình

Rối loạn hành vi, hành động lặp lại và hành động không kiểm soát
Việc chữa răng có thể bị cảm nhận là nguy hiểm và dẫn tới những phản
ứng hung bạo hay tự làm đau bản thân. Cần phải có sự quan sát và kịp thơi
xử lý trước những hành động không kiểm soát ở trẻ tự kỷ để tránh gây ra
những tổn thương ngoài ý muốn
Rối loạn nhận thức
Những bất thường trong việc nhận thức, giao tiếp, cảm xúc (lo lắng,
hành động lặp lại,…) co thể dẫn tới những phản ứng quá khích như gào thét,


21

ném đồ vật, tránh né tiếp xúc. Để thu hút sự chú ý của trẻ, cần đưa ra những
chỉ thị ngắn và dễ hiểu.
Biểu hiện cơn đau
Trẻ tự kỷ tuy có cảm xúc rất nhạy cảm nhưng lại bị rối loạn cảm nhận về
sự đau. Trẻ không cảm thấy đau khi bị thương hoặc phản ứng bất thường
( rối loạn giấc ngủ, hung bạo, tự bạo lực) do đó việc phát hiện những tổn
thương trên cơ thể thường chậm trễ. [14]

1.3.1.2. Những biểu hiện trong miệng ở trẻ tự kỷ
Sâu răng
Nguy cơ sâu răng cao ở những trẻ có chế độ ăn uống nhiều đồ ngọt,
mềm, dính, thói quen xấu gây tổn thương, vệ sinh răng miệng kém. Tuy nhiên
nhiều báo cáo chỉ ra rằng chỉ số sâu mất trám (DMFT) ở trẻ tự kỷ thường
thấp hơn, hoặc không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm trẻ không mắc
bệnh. Do đó, bệnh tự kỷ không phải là yếu tố nguy cơ gây sâu răng. [16] [17]
Bệnh nha chu
Bệnh nha chu phát triển ở bệnh nhân tự kỷ theo cùng một cách như ở
bệnh nhân bình thường. Trong nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ tự kỷ thường vệ
sinh răng miệng kém làm tăng nguy cơ mắc bệnh nha chu. Stress là một yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến vệ sinh răng miệng.
Sự mọc răng
Ở trẻ tự kỷ, sự mọc răng có thể bị chậm trễ do phì đại lợi dưới tác dụng
ủa Phenytoin – Một loại thuốc hay được kê cho bệnh nhân bị tự kỷ.
Chấn thương và tổn thương
Chấn thương và tổ thương vùng miệng thường hay xảy ra ở trẻ tự kỷ.
Trẻ có thể nghiến chặt răng tới đau ê hàm, cắn môi chảy máu, tự nhổ răng
như một phản ứng chống lại stress. Những rối loạn tiêu hóa dẫn tới nôn mửa


22

thường xuyên và dẫn tới loét niêm mạc miệng. Những cơn động kinh khiến
trẻ không kiểm soát và té ngã gây chấn thương. [15]
1.3.2. Chăm sóc sức khỏe răng miệng cho trẻ tự kỷ
1.3.2.1. Chăm sóc tại nhà


Hướng dẫn vệ sinh răng miệng : đánh răng hàng ngày, dùng chi tơ




nha khoa
Chú ý dinh dưỡng : ba bữa chính, một bữa phụ. Tránh ăn vặt hoặc ăn
những thức ăn ít nguy cơ như trái cây, phô mai,… tránh những thực



phẩm dính hoặc nhiều đường
Bổ sung fluor

1.3.2.2. Chăm sóc tại bệnh viện hoặc phòng khám


Nên tìm một nha sỹ có kinh nghiệm chăm sóc trẻ khuyết tật, thông báo
cho bác sỹ viết về tình trạng đặc biệt của trẻ, giải thích những cảm



giác đặc biệt với sự tiếp xúc và ánh sáng.
Buổi thăm khám nên lựa chọn thời điểm mà trẻ ổn định nhất trong



ngày
Nên đề nghị một buổi hẹn cho trẻ làm quen với bác sỹ và phòng khám




trước buổi khám chính thức
Chuẩn bị tâm lý trước cho trẻ : cho trẻ xem những hình ảnh, video giải
thích về phòng khám, những vật dụng được bố trí trong phòng khám,



bác sỹ, những hành động bác sỹ sẽ làm và tại sao cần phải đến nha sỹ
Tại phòng khám : nha sỹ cần giải thích cho trẻ biết những hành động





mình sẽ làm, có thể biểu diễn trước trên tay trẻ
Có thể đem theo món đồ chơi hoặc âm nhạc yêu thích của trẻ
Việc khám răng nên nhắc lại 6 tháng một lần
Phụ huynh nên thảo luận với bác sỹ về trám bít hố rãnh và bổ sung
fluor

1.3.3. Các phương pháp truyền thông trong giáo dục sức khỏe răng miệng
cho trẻ tự kỷ


23

Giáo dục sức khỏe răng miệng cho trẻ tự kỷ là một vấn đề hết sức quan
trọng và cần thiết. Mục tiêu là giúp trẻ làm quen với việc tự chăm sóc và thích
nghi với môi trường phòng khám, bệnh viện, chấp nhận sự chăm sóc của bác
sỹ. Việc này đòi hỏi không chỉ sự hợp tác của trẻ mà còn sự hỗ trợ của bố mẹ
hay người chăm sóc.

Những cách ứng xử thông thường với trẻ em trong điều trị nha khoa
như nói, trình diễn, làm, sự khen ngợi và giao tiếp, kiểm soát giọng nói,…có
thể hiệu quả đối với những bệnh nhân bình thường, Tuy nhiên không phải lúc
nào cũng thành công đối với trẻ em tự kỷ với khả năng ngôn ngữ kém và giao
tiếp xã hội giới hạn. Do đó, cần có những phương pháp khác, phù hợp hơn với
đặc điểm và khả năng của trẻ.
Giáo dục thị giác là một phương pháp không truyền thống có nhiều ưu
điểm khi khai thác được khả năng phản ứng với hình ảnh tốt hơn từ ngữ của
trẻ tự kỷ. Nó bao gồm sách ảnh, câu chuyện xã hội, phim ảnh và có thề kết hợp
với những phương pháp thông thường như khen ngợi, nói-trình diễn-làm để
tăng khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ.
1.3.3.1. Sách ảnh
Backman và cộng sự đã sử dụng những quyển sách với những chuỗi hình
ảnh màu sắc để miêu tả những bước trong một cuộc thăm khám răng miệng
cho trẻ tự kỷ chưa đến tuổi đến trường. Tác giả báo cáo đã có được sự hợp
tác tốt hơn so với những trẻ không được sử dụng phương pháp này
1.3.3.2. Câu chuyện xã hội
Câu chuyện xã hội được sử dụng rộng rãi trong giáo dục trẻ tự kỷ. Được
phát triển đầu tiên bởi Carol Gray, giáo viên giáo dục đặc biệt, Câu chuyện xã
hội giúp trẻ có thể hiểu được một vấn đề hay hoạt động xã hội. Nó được thiết
kế bằng những mô tà, quan điểm, câu khẳng định đi kèm với hình ảnh.


24

Ở trẻ tự kỷ, câu chyện xã hội có thể cải thiện hành vi xã hội như là rửa
tay, chào hỏi mọi người một cách thích hợp và chia sẻ đồ chơi. Những hành vi
không hợp lý cũng có thể được giảm bớt khi sử dụng phương pháp này. Tuy
nhiên, phải xem xét khả năng đọc và nghe của trẻ trước khi sử dụng phương
pháp này.

Một ví dụ về câu chuyện xã hội “My dental story” được sử dụng rất phổ
biến, có thể tìm thấy trên link sau:
/>
1.3.3.3. Phim modeling
Đối với bệnh nhân có khả năng đọc và nghe kém, phim modeling là một
phương pháp thay thế phù hợp. Trên phim, một diễn viên với khuôn mặt
được thay thế bằng khuôn mặt của trẻ sẽ thực hiện những hành vi mong
muốn giáo dục cho trẻ, cùng với lời mô tả ngắn gọn dễ hiểu. Phương pháp
này có hiệu quả tích cực, cải thiện kỹ năng sống và hành vi xã hội cho trẻ
Một ví dụ về phim modeling mô tả các bước khi đến phòng khám nha sỹ
[18]
1.4. Hệ thống hóa lịch sử nghiên cứu về tự kỷ và bệnh răng miệng
1.4.1. Trên thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về răng miệng của trẻ tự kỷ. Các
nghiên cứu xoay quanh những vấn đề :






Tình trạng sâu răng, viêm lợi ở trẻ tự kỷ
Những biểu hiện trong miệng ở trẻ tự kỷ
Những khó khăn và ảnh hưởng của bệnh tự kỷ tới vấn đề răng miệng
Các phương pháp chăm sóc sức khỏe răng miệng cho trẻ tự kỷ
Các phương pháp tiếp cận, phòng ngừa và chữa trị các vấn đề răng
miệng cho trẻ tự kỷ

Nhìn chung, các nghiên cứu khá đầy đủ trong tất cả các khía cạnh và đưa ra
một bức tranh khá toàn diện về tự kỷ và bệnh răng miệng.



25

1.4.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam các nghiên cứu về bệnh tự kỷ vẫn còn ít, chưa có một
nghiên cứu nào về vấn đề răng miệng ở trẻ tự kỷ.


×