Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Chương 9. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong dạy học Địa lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.1 KB, 12 trang )

Chương IX
KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ
I. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA VIỆC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ
1. Quan niệm về kiểm tra, đánh giá trong dạy học Địa lí
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một vấn đề khó và phức tạp. Nhiệm vụ cơ bản của
việc kiểm tra, đánh giá là làm rõ được tình hình lĩnh hội tri thức, mức độ thành thạo về kĩ năng và trình độ
phát triển tư duy (quá trình hình thành khái niệm, khả năng phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát
hoá kiến thức v.v…) của học sinh trong quá trình học tập.
Thông qua kiểm tra, đánh giá, người giáo viên có thể tự đánh giá việc giảng dạy của mình song song với
sự đánh giá việc học tập của học sinh. Giáo viên sẽ thấy được những thành công và những vấn đề cần phải
rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy của mình, từ đó định ra được những biện pháp sư phạm thích
hợp, nâng cao chất lượng dạy học.
Kiểm tra và đánh giá là công việc không chỉ của giáo viên, mà của cả học sinh. Trong hoạt động dạy học,
người giáo viên tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, đồng thời học sinh cũng phải
biết tự kiểm tra và đánh giá việc học tập của chính mình để nâng cao kiến thức, phát triển tư duy cũng như
trình độ vận dụng thành thạo các kĩ năng cơ bản của môn Địa lí. Ngoài ra, họ còn phải biết cách kiểm tra,
đánh giá lẫn nhau. Đối với học sinh, việc kiểm tra và biết cách kiểm tra lẫn nhau sẽ có tác dụng tích cực
đối với việc tìm ra những phương pháp tự học có hiệu quả.
Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong việc kiểm tra, đánh giá là phải dựa trên nguyên tắc tôn
trọng lẫn nhau và được tiến hành một cách bình thường, thường xuyên. Chính vì vậy, giáo viên cần tạo
điều kiện cho học sinh phát huy tính tự giác, trung thực, độc lập, sáng tạo trong khi thực hiện những bài
kiểm tra ở bất cứ hình thức nào. Về mặt tâm lí, giáo viên phải tạo ra không khí thoải mái, tự tin, tránh
căng thẳng để học sinh có thể đạt được kết quả đúng với năng lực của họ.
Kiểm tra và đánh giá là hai công việc có nội dung khác nhau nhưng có lien quan mật thiết với nhau.
Thông thường thì có kiẻm tra (tự kiểm tra, học sinh kiểm tra lẫn nhau…), rồi mới có đánh giá (giáo viên
đánh giá học sinh, học sinh tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau).
Tuy nhiên, có những trường hợp kiểm tra mà không có mục đích đánh giá. Việc kiểm tra này chỉ nhằm
vào việc tìm hiểu tình hình học tập của học sinh.
Thông thường, qua việc kiểm tra, người giáo viên có cơ sở để cho điểm và rút ra những nhận xét. Việc
kiểm tra, đánh giá như vậy không chỉ làm cho học sinh hiểu được trình độ học vấn của bản than, mà còn
động viên, khuyến khích được tinh thần học tập của học sinh nói chung.




Từ quan niệm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng việc kiểm tra, đánh giá là một khâu không thể thiếu
được trong quá trình dạy học. Đó là một yêu cầu khách quan đối với việc phát triển lí luận dạy học nói
chung cũng như phương pháp giảng dạy Địa lí nói riêng.
2. Nhiệm vụ của việc kiểm tra, đánh giá trong dạy học Địa lí
Trong giảng dạy Địa lí, việc kiểm tra, đánh giá có các nhiệm vụ sau:
- Hiểu rõ và cụ thể việc học tập của học sinh nhằm phát hiện mức độ nắm kiến thức, kĩ năng và trình độ
phát triển tư duy của họ để kịp thời có những thay đổi trong nội dung và phương pháp giảng dạy.
- Góp phần hình thanh ở học sinh những thói quen trong học tập như: biết cách nắm kiến thức, biết
phương pháp nhận thức nội dung khoa học của môn Địa lí, biết trình bày những kiến thức bằng khả năng
ngôn ngữ diễn đạt, biết sử dụng các phương tiện dạy học (bản đồ, quả địa cầu, mô hình, các loại biểu
đồ…) và đặc biệt là biết khai thác tri thức từ các phương tiện dạy học đó. Cuối cùng là biết vận dụng kiến
thức đã học để tiếp thu những kiến thúc mới và tham gia vào các hoạt động thực tiễn ngoài xã hội.
- Góp phần xây dựng phong cách học tập của học sinh. Nếu các câu hỏi kiểm tra chỉ nhằm vào việc kiểm
tra trí nhớ thì điều đó sẽ dẫn đến một thói quen buộc học sinh phải học thuộc long. Còn nếu các câu hỏi
kiểm tra chỉ đơn thuần nhằm vào việc kiểm tra kiến thức mà coi nhẹ yêu cầu vận dụng kĩ năng thì cũng sẽ
làm cho học sinh không chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng cần thiết của môn Địa lí.
Nói tóm lại, việc kiểm tra, đánh giá học sinh trong quá trình học tập địa lí là một khâu cần thiết, nhưng
phải được thực hiện đúng hướng, hợp lí, phù hợp với các quan điểm và phương pháp dạy học hiện nay.
3. Những yêu cầu sư phạm của việc kiểm tra, đánh giá trong việc dạy học Địa lí
Từ những quan niệm về nhiệm vụ của công tác kiểm tra, đánh giá trong giảng dạy môn Địa lí, chúng ta
có thể khẳng định rằng, việc kiểm tra, đánh giá có tác dụng rất lớn đối với việc dạy và học các môn học
trong nhà trường nói chung và đối với môn Địa lí nói riêng. Nhờ đó, giáo viên Địa lí có thể điều chỉnh
được hoạt động giảng dạy của mình, nâng cao được trình độ chuyên môn.
Thông qua việc kiểm tra, đánh giá, và bằng những thông tin thu được (số điểm…), cần công khai hoá kết
quả học tập của mỗi học sinh trong tập thể lớp, trường và trước phụ huynh học sinh cũng như các cơ quan
quản lí giáo dục.
- Về mặt khoa học: Nhờ việc kiểm tra, đánh giá, giáo viên có những thông tin, những căn cứ về mặt định
lượng (kết hợp với định tính) để đưa ra nhũng nhận định chính xác về thực trạng học tập của học sinh (về

khả năng tiếp thu kiến thức, rèn luyện kĩ năng môn học, trình độ phát triển tư duy, thái độ học tập…). Từ
đó, sẽ có một cách nhìn toàn diện hơn với từng học sinh và với tập thể lớp.
- Về mặt sư phạm: Để cho việc kiểm tra, đánh giá được chính xác, cần đảm bảo tính khách quan (tới mức
tối đa có thể), vì vậy, nên tạo điều kiện cho học sinh phát huy hết khả năng, trình độ của bản than. Để làm
được việc đó, cần phải có những biện pháp (cứng rắn và mềm dẻo trong từng trường hợp) ngăn chặn
những hành vi thiếu trung thực như nhìn bài bạn, xem tài liệu, nhắc bạn, làm hộ bài…


Việc kiểm tra, đánh giá cần được tiến hành có kế hoạch (đánh giá trước, trong và sau khi đã học một phần
hay toàn bộ chương trình). Cần kết hợp việc theo dõi thường xuyên với kiểm tra, đánh giá định kỳ (đánh
giá vào cuối kỳ, cuối năm, cuối khoá). Số lần kiểm tra phải đủ mức để có thể đánh giá được chính xác
(thường theo quy định và chỉ tiêu chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra).
Việc kiểm tra, đánh giá nên công khai, kết quả cũng nên công bố kịp thời, để học sinh sớm thấy được
những ưu, nhược điểm của bản thân mà phấn đấu vươn lên cũng như giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
II. KỸ THUẬT KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC ĐỊA LÍ
1. Những nguyên tắc trong kiểm tra, đánh giá
Lí luận dạy học bộ môn đã chỉ ra rằng, để việc kiểm tra và đánh giá đạt hiệu quả, cần tuân thủ một số
nguyên tắc sau:
Đánh giá phải xuất phát từ mục tiêu của môn Địa lí trong nhà trường phổ thông, cụ thể là cần xem sự
lĩnh hội tri thức địa lí của học sinh đạt ở mức độ nào?
Có thể tìm hiểu mức độ nắm kiến thức của học sinh như:
- Hiểu và nắm được kiến thức thể hiện ở chỗ: trả lời và làm được những câu hỏi và bài tập trong sách
giáo khoa.
- Vận dụng được những kiến thức địa lí đã học để giải thích những sự kiện, hiện tượng địa lí xảy ra trong
đời sống xã hội ở địa phương, trong nước và trên thế giới.
- Biết tìm hiểu, nghiên cứu một vấn đề Địa lí tự nhiên và kinh tế - xã hội của địa phương, của đất nước và
của các quốc gia trên thế giới…
Cần xem học sinh nắm đượcnhững kĩ năng địa lí ở mức độ nào?
- Về bản đồ, cần đánh giá các mức độ: hiểu, đọc và sử dụng bản đồ trong quá trình học tập địa lí ở trên
lớp cũng như ở nhà. Ở mức độ thứ nhất, học sinh phải hiểu tỉ lệ bản đồ là gì, biết các kí hiệu biểu hiện các

đối tượng địa lí trên bản đồ; ở mức độ thứ hai, học sinh phải biết đọc và tìm ra được đặc điểm của đối
tượng địa lí thông qua các kí hiệu trên bản đồ. Còn ở mức độ thứ ba, học sinh phải biết so sánh các bản đồ
để tìm ra mối liên hệ địa lí giữa các đối tượng biểu hiện trên bản đồ.
- Ngoài ra, phải chú ý đến trình độ phát triển tư duy (đặc biệt là tư duy địa lí) của học sinh thông qua
mức độ vận dụng các thao tác tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp…), trình độ giải quyết vấn đề, khả
năng khai thác tri thức từ các nguồn khác nhau…
2. Công cụ kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra và đánh giá bao giờ cũng phải có công cụ. Những công cụ để đánh giá cần:
- Phải có tính hiệu lực. Hệ thống câu hỏi vấn đáp, các câu hỏi viết, các bài trắc nghiệm phải thể hiện
được những kiến thức, kĩ năng cơ bản của từng bài, từng chương hoặc cả chương trình của các khối lớp.
- Phải đảm bảo độ tin cậy của sự đánh giá, tìm ra được những kết luận đúng đắn có tính thuyết phục làm
cơ sở để đưa ra những giải pháp cho từng cá nhân học sinh, cho từng nhóm (yếu, trung bình, khá, giỏi) và
cho cả lớp…


- Phải bảo đảm tính khách quan, chính xác của việc đánh giá kiến thức và kĩ năng (điều này đòi hỏi phải
có những công cụ kiểm tra mới, kể cả việc sử dụng những phương tiện kỹ thuật). Ví dụ: phương pháp
kiểm tra trắc nghiệm in sẵn hoặc được lập trình thành phầm mềm trên máy vi tính.
- Phải bảo đảm tính thuận tiện của việc sử dụng như: soạn sẵn những bộ đề hệ thống câu hỏi trắc nghiệm,
những chương trình cài sẵn trên máy tính phục vụ cho việc tự động kiểm tra và chấm điểm.
3. Kỹ thuật kiểm tra, đánh giá
Hệ thống phương pháp và kỹ thuật đánh giá rất phong phú, giáo viên có thể tuỳ trường hợp cụ thể mà lựa
chọn cho thích hợp với mục đích, đối tượng đánh giá và đềi kiện tiến hành đánh giá.
Trong hệ thống phương pháp và kỹ thuật đánh giá có thể sử dụng các biện pháp sau:
+ Quan sát: Phương pháp này có thể tiến hành trong hoặc ngoài lớp, rất thuận lợi cho việc thu thập các
thông tin, dữ liệu cần cho việc đánh giá. Để đánh giá trình độ và kĩ năng của học sinh, giáo viên có thể
đưa ra bảng số liệu về: Cơ cấu sản xuất lương thực của một nước nào đó trên thế giới để các em tự vẽ.
Trong khi các em vẽ, giáo viên quan sát xem có bao nhiêu em trong lớp biết cách vẽ và bao nhiêu em vẽ
đúng. Tiếp đó giáo viên yêu cầu các em đặt các biểu đồ đó vào đúng vị trí trên bản đồ (bản sao bản đồ
quốc gia mà các em đã chuẩn bị trước). Giáo viên ghi lại xem có bao nhiêu em làm tốt, bao nhiêu em còn

lung túng.
Qua quan sát trên, giáo viên có thể khái quát, đánh giá được kĩ năng vẽ biểu đồ, đặt biểu đồ vào vị trí
trên bản đồ của học sinh và từ đó định ra được phương pháp hướng dẫn, bổ sung thích hợp cho từng đối
tượng học sinh.
+ Phiếu xếp hạng: để đánh giá và kiểm tra năng lực, tư duy của học sinh trong lớp, giáo viên có thể lập
các phiếu xếp hạng. Ví dụ: giáo viên có thể dự một buổi thảo luận nhóm về việc dân số và sự phát triển
dân số thế giới. Trong khi thảo luận, học sinh có nhiều ý kiến về cách hiểu và cách giải quyết vấn đề khác
nhau. Qua quá trình hướng dẫn thảo luận và nghe ý kiến của học sinh, giáo viên ghi chép lạivà lập thành
phiếu xếp hạng như sau:
TT

1
2
3
4

Tên học sinh

Nguyễn Văn A
Nguyễn Văn B
Nguyễn Văn C
Nguyễn Văn X

Tổ

1
2
3



Bám sát

Có khả

Có khả

Đề xuất

nội dung

năng diễn

năng tranh

được

thảo luận

đạt

luận với

những kết

bạn

luận

x
x



x
x
x


x
x
x


x
x


Ghi chú

x

Ngoài ra, có thể kiểm tra theo mẫu điển hình cá nhân (một em đại diện cho một nhóm khá, trung bình,
giỏi v.v…) để rút ra những kết luận cần thiết về một phương diện nào đó.


Muốn ghi chép có chất lượng, giáo viên cần đề ra cho mỗi mục (tiêu chí) những tiêu chuẩn cụ thể. Có
như thế việc đánh giá và xếp loại mới chính xác.
+ Các hình thức kiểm tra: trong kiểm tra, đánh giá quan trọng nhất là hình thức kiểm tra trực tiếp từng cá
nhân học sinh. Tuỳ điều kiện cụ thể, việc kiểm tra có thể tiến hành dưới nhiều dạng khác nhau như: kiểm
tra vấn đáp, kiểm tra bằng câu hỏi viết, kiểm tra bằng cách làm bài thực hành, bằng cách viết tiểu luận
v.v…

- Kiểm tra vấn đáp (dùng lời nói)
Phương pháp kiểm tra vấn đáp thường được sử dụng rộng rãi trong việc kiểm tra thường xuyên và được
tiến hành thường xuyên và được tiến hành trong mỗi giờ Địa lí ở các lớp để kiểm tra kiến thức bài cũ,
những hiểu biết của học sinh trước khi học bài mới hoặc để củng cố ở cuối mỗi tiết, mỗi chương, nhằm hệ
thống hoá, khái quát hoá nội dung kiến thức của từng phần trong chương trình v.v…Qua kiểm tra, giáo
viên thu nhận được những thông tin ngược từ phía học sinh để đánh giá sơ bộ về mức độ nắm kiến thức, kĩ
năng, trình độ tư duy của học sinh làm cơ sở cho việc điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy.
Thực hiện viêc kiểm tra, vấn đáp, giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Yêu cầu về các câu hỏi kiểm tra.
Khi chuẩn bị câu hỏi, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những kiến thức của bài, nắm vững yêu cầu của
chương trình, xác định rõ các kiến thức cần kiểm tra và mục đích kiểm tra của chúng. Ngoài ra, dung
lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh ở các lớp. Giáo viên cần dự kiến
trước thời gian trả lời của học sinh. Ví dụ: đối với học sinh lớp 11 có các câu hỏi:
1. Vị trí và điều kiện tự nhiên của Nhật Bản có những khó khăn gì trong phát triển kinh tế? (thời gian trả
lời dự kiến 2 phút).
2. Tại sao nói Nhật Bản là một nước nghèo khoáng sản? (thời gian trả lời, dự kiến 1 phút).
Đối với học sinh lớp 12 có các câu hỏi:
1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề lương thực đối với sự phát triển KT – XH của nước ta hiện nay?
(thời gian trả lời, dự kiến 2 phút).
2. Đối với nước ta, tại sao đất đai là một tài nguyên vô cùng quý giá? (thời gian trả lời, dự kiến 1 phút).
Câu hỏi nêu ra cho học sinh phải chính xác, rõ ràng, ngôn ngữ trong sáng để học sinh không thể hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau, dẫn đến việc trả lời lạc đề.
Bên cạnh câu hỏi chính phải có câu hỏi bổ sung (mang tính chất gợi mở hoặc phát triển câu hỏi chính).
Các câu hỏi cho học sinh có thể có nội dung kiểm tra về kiến thức, về kĩ năng hoặc đánh giá về trình độ
tư duy. Theo kinh nghiệm của nhiều giáo viên, chúng ta có thể dựa vào các câu hỏi ở cuối bài, cuối
chương…của sách giáo khoa để soạn ra những câu hỏi chính hoặc những câu hỏi bổ sung.
Các câu hỏi phải kích thích được tính tích cực tư duy của học sinh. Tuy nhiên trong một tiết giáo viên chỉ
có thể nêu được một số câu hỏi nhất định, vì vậy giáo viên cần phải biết cách chọn lựa. Việc sử dụng các
câu hỏi có hợp lí thì việc kiểm tra mới có hiệu quả.



- Yêu cầu về tổ chức kiểm tra vấn đáp:
Thái độ của giáo viên: cần tránh thái độ dễ dãi nhưng sự nghiêm khắc cũng không nên quá mức, phải
động viên, khuyến khích học sinh tự tin, khích lệ học sinh mạnh dạn trả lời song vẫn phải đánh giá học
sinh một cách khách quan, vô tư.
Sau khi nêu câu hỏi chung cho cả lớp, giáo viên cần dành một thời gian thích đáng cho học sinh suy
nghĩ, chuẩn bị tiếp đến mới chỉ định học sinh trả lời.
Việc đánh giá kết quả câu trả lời của học sinh không chỉ là việc cho điểm mà còn là dịp uốn nắn về thái
độ, phương pháp học tập cho học sinh, vì vậy giáo viên cần phải có nhận xét, nói rõ những sai sót về nội
dung, về cách thức trình bày trong câu trả lời để học sinh rút kinh nghiệm.
Do ý nghĩa quan trọng của việc kiểm tra vấn đáp nên việc xây dựng câu hỏi và hệ thống câu hỏi trong
việc giảng dạy Địa lí trở thành một phương pháp dạy học (phương pháp đàm thoại vấn đáp và phương
pháp đàm thoại gợi mở).
+ Kiểm tra viết (làm bài viết)
Hình thức kiểm tra viết là hình thức phổ biến thường được giáo viên sử dụng ở trên lớp. Nó có thể giúp
giáo viên kiểm tra được toàn bộ học sinh trong lớp, trong một khoảng thời gian ngắn. Ví dụ: 10 – 15 phút
ở đầu tiết học hoặc cuối tiết học. Mục đích của hình thức kiểm tra này là nhằm đánh giá việc nắm tri thức
và kĩ năng của học sinh sau mỗi bài, mỗi chương. Cũng có những bài kiểm tra viết được tiến hành trong
suốt tiết học. Đây thường là những bài kiểm tra cuối học kì, cuối năm hoặc cuối những chương quan
trọng.
Qua bài kiểm tra viết, giáo viên có thể đánh giá được quá trình phát triển ngôn ngữ, kĩ năng diễn đạt tri
thức bằng văn viết của học sinh.
Để tránh việc học sinh chép bài của nhau, làm cho kết quả kiểm tra thiếu chính xác, các câu hỏi đặt ra
cho các bài kiểm tra viết thường có sự phân biệt đối với các học sinh ngồi gần nhau (đề chẵn, lẻ). Biện
pháp này có ư điểm là giáo viên có thể kiểm tra được nhiều vấn đề trong cùng một lúc, ngoài ra còn giúp
cho học sinh tránh được thái độ học tập thiếu trung thực.
Ví dụ: ĐỀ THI HỌC KÌ I – NĂM HỌC...
Môn Địa lí – lớp 12 - Thời gian 60 phút
Đề 1 (chẵn)
Câu 1: Hãy trình bày cơ cấu ngành công nghiệp của nước ta và những biến chuyển trong cơ cấu công

nghiệp trong những năm gần đây?
Câu 2: Vẽ biểu đồ biểu hiện sự phân hoá lãnh thổ công nghiệp theo giá trị sản phẩm giữa các vùng lãnh
thổ (%) theo bảng số liệu sau:
Vùng
Vùng núi và trung du phía Bắc

Năm 1977 (%)
15

Năm 1988
9,3


Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

36,3
6,7
6
1,1
29,6
5,3

20,5
4,8
7,9

1,4
39,6
16,5

ĐỀ THI HỌC KÌ I – NĂM HỌC...
Môn Địa lí - lớp 12 - Thời gian 60 phút
Đề 2 (lẻ)
Câu 1: Hãy nêu hiện trạng của các vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm nước ta.
Câu 2: Vẽ biểu đồ cơ cấu đất của nước ta (%) theo bảng số liệu năm 1989.
Loại đất
Đất nông nghiệp
Đất lâm nghiệp
Đất chuyên dụng, thổ cư
Đất hoang hoá

%
21,0
29,2
4,9
44,9

Kiểm tra viết có thể áp dụng kiểm tra: kiến thức, kĩ năng và trình độ tư duy của học sinh. Đặc biệt đối
với những bài thực hành, cách kiểm tra viết trên giấy có điều kiện tốt hơn các phương pháp kiểm tra khác.
+ Một số điểm cần lưu ý khi kiểm tra viết:
.- Khi tiến hành kiểm tra viết, ngoài yêu cầu đánh giá trình độ, kết quả học tập chung của lớp còn có yêu
cầu đánh giá kết quả và trình độ của từng học sinh, vì vậy giáo viên cần phải giáo dục cho học sinh tinh
thần nghiêm túc, trung thực, tự tin trong khi làm bài.
- Bài kiểm tra phải đánh giá được những ưu, khuyết điểm chính, nhắc nhở những học sinh học kém phấn
đấu, vươn lên đạt thành tích cao hơn. Vì vậy, giáo viên cần có đáp án và biểu điểm chi tiết, bảo đảm việc
cho điểm công bằng và chính xác.

+ Kiểm tra trắc nghiệm
Phương pháp kiểm tra đánh giá truyền thống trong nhà trường phổ thông lâu nay tuy có nhiều ưu điểm,
song đã bộc lộ một số nhược điểm như: thiếu tính khách quan, chưa lượng hoá được kết quả cũng như
chưa kiểm tra được nhiều loại kiến thức và chưa kích thích được năng lực học tập của học sinh. Để hạn
chế những vấn đề trên, gần đây trong dạy học (nói chung) và dạy học Địa lí (nói riêng), người ta đã chú ý
nhiều đến phương pháp kiểm tra trắc nghiệm.
- Đặc điểm của hình thức kiểm tra trắc nghiệm:
Học sinh không phải làm bài như hình thức kiểm tra viết, nghĩa là không phải trình bày, chứng minh, lí
giả nội dung câu hỏi bằng bài viết mà chỉ cần lựa chọn câu trả lời đã có sẵn (do người ra đề soạn thảo)
hoặc điền thêm vào nội dung câu hỏi những từ sao cho câu đó đúng nghĩa v.v...


Thông thường, mỗi bài kiểm tra có từ 60 đến 90 câu hỏi, được thực hiện trong một thời gian quy định
(60 đến 90 phút). Các câu hỏi được đánh giá theo thang điểm (thang điểm 10 hay 100).
Việc cho điểm và tính điểm có thể thực hiện ngay trên bài in sẵn hoặc sử dụng các phương tiện kỹ thuật
như: phiếu đục lỗ hoặc máy vi tính.
Các câu trắc nghiệm có thể chia làm hai loại: câu hỏi trắc nghiệm khách quan và câu hỏi trắc nghiệm tự
luận.
Các kiểu câu hỏi trắc nghiệm
Tự luận - trả lời

Khách quan

Câu hỏi

Câu hỏi

lựa chọn đúng sai
câu


Câu hỏi

Câu hỏi

Câu hỏi

Điền

Điền

Viết

Làm bài

điền

yêu cầu

có đáp

vào chỗ

hay viết

tiểu

tập, bài

thêm


xếp thứ

án đối

trống

một

luận

thực

tự

chiếu

đoạn về

hành địa

từng đôi

nội



đúng

dung
địa lí

Để soạn thảo được các loại câu hỏi trên, người soạn thảo ngoài việc phải nắm vững những kiến thức cần
kiểm tra còn phải có một số kĩ năng soạn thảo nhất định.
* Một số câu trắc nghiệm khách quan thường dùng trong dạy học địa lí
- Câu hỏi lựa chọn câu đúng:
Loại này có hình thức của một câu phát biểu không đầy đủ hay một câu hỏi dẫn được nối tiếp bằng một
số câu trả lời mà học sinh phải chọn.
Các câu kiểm tra này bao gồm:
- Câu dẫn: kích thích, gợi lên câu trả lời đúng cho người được hỏi.
- Câu chọn: gồm từ 3 đến 5 câu trả lời cho sẵn, học sinh phải tìm ra câu trả lời đúng trong số những câu
hỏi này.
- Câu đúng: là câu đúng nhất trong các câu chọn.
Ví dụ:
* Câu: Sản lượng lương thực của Trung Quốc trước thời kỳ hiện đại hoá:
- Không tăng, không giảm.
- Có tăng nhưng không đáng kể.
- Không tăng.


- Tăng rất nhiều.
- Câu đúng sai (hoặc có - không)
Câu đúng – sai có thể là những phát biểu (nhận định) được đánh giá là đúng hay sai. Hoặc có thể là câu
hỏi trực tiếp để được trả lời là “có“ hay “không“. Loại câu này chỉ thích hợp cho việc kiểm tra những kiến
thức sự kiện (mốc lịch sử, địa danh, các định nghĩa, khái niệm, các công thức...)
* Ví dụ:
Câu: Miền Đông Trung Quốc có nền kinh tế phát triển mạnh hơn so với miền Tây là do:
- Điều kiện tự nhiên đa dạng và phong phú.
- Nguồn nhân lực dồi dào.
- Diện tích lớn hơn nhiều lần so với miền Tây.
- Giàu có về tiềm năng khoáng sản.
- Có sự đầu tư khoa học kỹ thuật hơn hẳn miền Tây.

* Câu: Ngành nông nghiệp của Trung Quốc:
- Mới chỉ bắt đầu phát triển từ sau khi tiến hành hiện đại hoá.
- Ngành được nhà nước đạt lên hàng đầu khi tiến hành hiện đại hoá đất nước.
- Được phát triển ở cả miền Đông và miền Tây.
- Chỉ phát triển ở xung quanh các thành phố lớn của Trung Quốc.
- Chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị hàng công – nông nghiệp.
- Câu có đáp án đối chiếu ở từng đôi (hay câu kiểm tra kết hợp)
Câu kết hợp là sự biến đổi của hình thức lựa chọn một câu đúng. Loại này thường gồm hai dãy thông tin.
Một dãy là câu hỏi (hay câu dẫn), một dãy khác là câu trả lời (hay câu lựa chọn). Mỗi câu hay một từ ở
dãy thứ nhất được kết hợp với một câu hay một từ ở dãy thứ hai để trở thành một nhận định đúng. Loại
câu này thích hợp cho việc kiểm tra một nhóm kiến thức gần gũi chủ yếu là kiến thức sự kiện, những thuật
ngữ, khái niệm, những định nghĩa v.v...
Ví dụ:
* Câu: Hãy điền đúng tên những thành phố lớn nhất vào mỗi vùng của Trung Quốc sau đây:
1. Vùng Đông Bắc a. Bắc Kinh
2. Vùng Hoa Bắc

b. Thượng Hải.

3. Vùng hoa trung c. Thiên Tân.
4. Vùng Hoa Nam d. Quảng Châu
e. Thẩm dương.
* Hãy điền đúng thế mạnh phát triển kinh tế của mỗi vùng ở Trung Quốc.
1. Vùng Đông Bắc a. Phát triển nông nghiệp nhiệt đới.
2. Vùng Hoa Bắc

b. Phát triển mạnh cả về nông nghiệp và công nghiệp.

3. Vùng Hoa Trung c. Phát triển mạnh về công nghiệp.



4. Vùng Hoa Nam d. Phát triển mạnh về ngư nghiệp.
e. Phát triển mạnh cả công nghiệp, nông nghiệp và đánh cá.
* Câu hỏi có câu trả lời bằng cách điền them
Đó là một nhận định được viết dưới hình thức một mệnh đề không đầy đủ, đặt ra trước học sinh được
kiểm tra. Học sinh phải trả lời bằng cách điền vào một số liệu hay một từ. Loại câu hỏi này thường được
dùng để hỏi về một loại thông tin nào đó có tính chất cụ thể như câu hỏi về diện tích, dân số, tên thủ đô…
Ví dụ:
Hãy điền vào chỗ trống:
- Ấn Độ có bao nhiêu dân tộc…Sản lượng lương thực của Ấn Độ tăng lên là nhờ có …đóng vai trò quyết
định.
- Nước có diện tích lớn nhất thế giới là…
* Câu hỏi có đáp án đòi hỏi sắp xếp theo thứ tự
Loại câu hỏi này có nhiều câu trả lời ở mức độ khác nhau. Người được kiểm tra phải xét từng câu và
đánh dấu, hoặc sắp xếp các câu trả lời theo số thứ tự từ mức độ hợp lí nhất đến mực độ ít hợp lí hơn.
Loại câu hỏi này thích hợp cho việc kiểm tra một vấn đề có liên quan đến nhiều vấn đề khác. Nó có thể
là nguyên nhân hoặc kết quả của nhiều nhân tố.
Ví dụ: Hãy đánh số thứ tự các nguyên nhân chính làm cho nền kinh tế - xã hội trung quốc chậm phát
triển. Nguyên nhân quan trọng nhất đánh số 1.
- Trung Quốc là nước đông dân, dân cư lại phân bố không đồng đều giữa miền Đông và miền Tây.
- Tư tưởng nóng vội tiến lên CNXH đã dẫn đến sai lầm trong việc tổ chức các hình thức sản xuất không
thích hợp.
- Trung Quốc xây dựng đất nước từ một nền kinh tế yếu kém, trình độ sản xuất thấp.
- Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp không sát với thực tế đất nước trong quá trình xây dựng kinh
tế - xã hội.
* Một bộ câu hỏi trắc nghiệm có giá trị phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Có mức độ chính xác cao về kiến thức khoa học Địa lí.
- Có độ tin cậy cao, xác định đúng trình độ nắm vững kiến thức và khái niệm, khả năng tư duy, khả năng
vận dụng của học sinh.
- Có độ phân hoá cao, cho phép phân biệt được rõ các trình độ khác nhau (giỏi, khá, trung bình, kém).

- Có độ khó vừa phải, phù hợp với trình độ học sinh. Gây được hứng thú và kích thích sự nổ lực tư duy
của học sinh.
+ Các trường hợp kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm
- Hình thức kiểm tra trắc nghiệm có ưu điểm là tiết kiệm được công sức khi phải kiểm tra một khối lượng
lớn học sinh trong một thời gian ngắn. Nó cũng giúp giáo viên có thể đánh giá, kiểm tra được toàn bộ kiến


thức, kĩ năng của học sinh sau một thời gian học. Chính vì vậy, hình thức này rất thích hợp với các kì
kiểm tra cuối học kì hoặc cuối năm.
- Hình thức kiểm tra trắc nghiệm có thể tiến hành dưới dạng kiểm tra viết (điền phiếu in sẵn) hoặc thực
hiện trên máy vi tính (60 phút, 90 phút hoặc 120 phút). Nội dung các câu kiểm tra có thể là kiến thức, kĩ
năng hoặc trình độ phát triển tư duy tuỳ theo mục đích của việc kiểm tra.
Để việc kiểm tra đạt kết quả tốt, điều quan trọng nhất là giáo viên phải chuẩn bị kĩ các câu hỏi kiểm tra
(phải tuân thủ những yêu cầu chung trong việc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan).
Để có sẵn những câu hỏi tốt, các giáo viên có kinh nghiệm thường xây dựng cho mình một “ngân hang
câu hỏi”. Ngân hàng câu hỏi là hình thức lưu trữ những câu hỏi dùng để kiểm tra học sinh khi cần. Giáo
viên nên thường xuyên bổ sung các câu hỏi để làm tăng số lượng câu hỏi tốt là loại trù câu hỏi không thích
hợp.
Ngân hang câu hỏi có thể viết trên giấy hoặc lưu trữ trên phần mềm của máy vi tính.
Nói chung, phương pháp trắc nghiệm trong việc kiểm tra đánh giá là một phương pháp tốt, bảo đảm được
tính khách quan khi đánh giá trình độ, khả năng vận dụng kiến thức và phát triển tư duy của học sinh.
Nhưng nó không thể thay thế được các phương pháp kiểm tra đánh giá truyền thống, đặc biệt về mặt sư
phạm phương pháp trắc nghiệm không thể đánh giá được năng lực trình bày, diễn đạt và tự luận của học
sinh.
4. Thang điểm trong kiểm tra.
Kết quả học tập của học sinh thường được xếp loại bằng điểm số qua các bài kiểm tra theo thang điểm 10
bậc (đối với câu hỏi trắc nghiệm có thể là 29, 100).
- Điểm 9 – 10 (hoặc 90 – 100) được xếp loại giỏi. Biểu hiện cụ thể của mức độ này là học sinh có kiến
thức, kĩ năng vững vàng, chính xác, trong việc vận dụng có yếu tố sáng tạo.
- Điểm 7 – 8 (hoặc 70 – 80) được xếp loại khá. Biểu hiện cụ thể là phần lớn kiến thức đúng, không sai

nhưng đôi chỗ tỏ ra chưa vững vàng.
- Điểm 5 – 6 (hoặc 50 – 60) được xếp loại trung bình. Biểu hiện cụ thể là phần lớn tri thức đúng, những
chỗ sai không cơ bản. Việc vận dụng tri thức còn lúng túng.
- Điểm 3- 4 (hoặc 30 – 40) được xếp loại yếu. Biểu hiện cụ thể là kiến thức, kĩ năng còn nhiều sai sót,
chưa vận dụng được tri thức.
- Điểm 1 – 2 (hoặc 10 – 20) xếp loại kém. Kiến thức và kĩ năng còn nhiều sai sót, tỏ ra chưa nắm đuợc
bài.
Tuy nhiên, muốn đánh giá được chính xác kết quả học tập của học sinh thì tốt nhất cần phải chú ý theo
dõi, quan sát trong suốt quá trình học tập trong năm học ở trên lớp cũng như ở nhà, không thể chỉ dựa vào
một vài bài kiểm tra ở cuối học kì hoặc cuối năm.
Để động viên, khuyến khích học sinh học giỏi bộ môn, cuối học kì hoặc cuối năm nên tổ chức những
cuộc thi học sinh giỏi về Địa lí. Việc này rất có ý nghĩa, nó sẽ giúp giáo viên lựa chọn những học sinh có


khả năng về bộ môn, hiểu được trình độ nắm tri thức của học sinh, giúp cho giáo viên cải tiến nội dung và
phương pháp dạy học.
Câu hỏi thảo luận
1. Hãy trình bày quan niệm về việc kiểm tra, đánh giá trong dạy học Địa lí.
2. Hãy nêu nhiệm vụ của việc kiểm tra, đánh giá trong dạy học Địa lí.
3. Trong các hình thức kiểm tra, anh (chị) thấy hình thức nào có tác dụng nhiều nhất? Cho biết lí do.
4. Trình bày các kĩ thuật kiểm tra, đánh giá trong dạy học Địa lí.
5. Việc kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm có những ưu và nhược điểm gì?
TÀI LIỆU THAM KHẢO



×