Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nelson Mandela

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.6 KB, 24 trang )

Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Nelson Mandela (định hướng).
Nelson Mandela

Mandela vào năm 2008
Tổng thống Nam Phi
Nhiệm kỳ

10 tháng 5 năm 1994 – 14 tháng 6 năm 1999
Frederik Willem de Klerk

Tiền nhiệm

Vai trò Tổng thống Quốc gia Nam Phi

Kế nhiệm

Thabo Mbeki
Tổng thư ký Phong trào không liên kết

Nhiệm kỳ
Tiền nhiệm
Kế nhiệm

3 tháng 9 năm 1998 – 14 tháng 6 năm 1999
Andrés Pastrana Arango
Thabo Mbeki

Đảng

Đại hội Quốc gia châu Phi


Sinh

18 tháng 7, 1918 (92 tuổi)
Mvezo, Liên hiệp Nam Phi

Nơi ở

Điền trang Houghton, Nam Phi

Học trường

Đại học Fort Hare
Đại học London External System
Đại học Nam Phi
Đại học Witwatersrand

Chữ ký

Vợ hay chồng

Evelyn Ntoko Mase (1944–1957)
Winnie Madikizela (1957–1996)
Graça Machel (1998–nay)
Website: Quỹ Mandela


Nelson Rolihlahla Mandela (IPA: [xoˈliɬaɬa manˈdeːla]), sinh ngày 18 tháng 7 năm
1918, [1] là Tổng thống Nam Phi từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu
tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu. Trước khi trở thành
tổng thống, Mandela là nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid (chủ nghĩa phân biệt

chủng tộc), và là người đứng đầu Umkhonto we Sizwe, phái vũ trang của Đảng Đại hội
Quốc gia châu Phi (ANC). Vào năm 1962 ông bị bắt giữ và bị buộc tội phá hoại chính trị
cùng các tội danh khác, và bị tuyên án tù chung thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong
lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben. Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng
2 năm 1990, Mandela đã lãnh đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới một
nền dân chủ đa sắc tộc vào năm 1994. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994
đến 1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.
Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà
bộ lạc của ông thường trao cho những già làng.
Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel
Hòa bình năm 1993.

Mục lục
[ẩn]










1 Thơ ấu
2 Hoạt động chính trị
o 2.1 Hoạt động chống Chủ nghĩa Apartheid
o 2.2 Bị bắt giữ và phiên tòa Rivonia
o 2.3 Thời gian trong tù
o 2.4 Trả tự do

o 2.5 Thương thuyết
3 Thời kỳ làm Tổng thống Nam Phi
o 3.1 Vụ xử Lockerbie
4 Hôn nhân và gia đình
o 4.1 Cuộc hôn nhân đầu tiên
o 4.2 Cuộc hôn nhân thứ hai
o 4.3 Cuộc hôn nhân thứ ba
5 Nghỉ hưu
o 5.1 Sức khỏe
o 5.2 The Elders
o 5.3 Chống AIDS
o 5.4 Phê phán chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
o 5.5 Tranh chấp với Ismail Ayob
 5.5.1 Lý lẽ
o 5.6 Tranh cãi về Kim cương máu
o 5.7 Zimbabwe và Robert Mugabe
6 Tôn vinh
o 6.1 Huân huy chương
o 6.2 Bài hát ca ngợi





6.3 Sách tiểu sử đã xuất bản
6.4 Điện ảnh và truyền hình
6.5 Tượng đài
7 Chú thích
8 Đọc thêm




9 Liên kết ngoài

o
o
o

[sửa] Thơ ấu

Nelson Mandela vào khoảng 1937[2]
Nelson Mandela thuộc chi nhỏ nhất của dòng họ phong kiến Thembu, trị vì các lãnh thổ
Transkei thuộc tỉnh Cape của Nam Phi.[3] Ông sinh ra tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ thuộc
huyện Umtata, thủ phủ của Transkei.[3] Ông cố ruột Ngubengcuka của ông (mất năm
1832) đã trị vì với danh hiệu Inkosi Enkhulu, tức là vua của người Thembu.[4] Một trong
những con trai của nhà vua, có tên là Mandela, chính là ông nội của Nelson và đây chính
là nguồn gốc họ Mandela của ông. Tuy nhiên, vì ông là con trai của Inkosi với một người
vợ thuộc bộ tộc Ixhiba (gọi là "Tả gia"[5]), các con cháu thuộc chi này tuy vẫn thuộc
Hoàng gia nhưng không bao giờ được thừa kế ngai vàng Thembu.
Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là người đứng đầu bộ lạc ở thị
trấn Mvezo.[6][liên kết hỏng] Tuy vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng,
Mphakanyiswa bị tước chức và cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa
vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi, và đóng vai trò là người hỗ trợ cho
Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông
bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi Mphakanyiswa chết.[7] Cha của Mandela có bốn bà
vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn trai, chín gái).[7] Mandela là con của bà vợ thứ ba,
Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà
Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần lớn thời thơ ấu.[8] Tên của ông
Rolihlahla có nghĩa là "kéo cành cây", hay một cách thông tục, có nghĩa là "kẻ gây rối".[9]
[10]



Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia đình được đi học, tại đó cô giáo
Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh là "Nelson".[11]
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan nhiếp chính Jongintaba trở
thành người giám hộ hợp pháp của ông.[7] Mandela đi học trường truyền giáo thuộc Hội
Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp chính. Theo phong tục của người Thembu,
ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi học Học viện Clarkebury Boarding.[12] Mandela đã
hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông thường.[12]
Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha mình, năm 1937, Mandela
chuyển đến trường Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi hầu hết con cháu hoàng
tộc Thembu đều đi học.[13] Vào lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh
và chạy bộ tại trường.[8]
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi ông đã gặp
Oliver Tambo. Tambo và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết.
Mandela cũng kết bạn với người bà con Kaiser ("K.D.") Matanzima, người thuộc dòng
trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là người thừa kế ngai vàng Transkei [5], vì vai trò
mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính sự ủng hộ chính sách này của
ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe chính trị đối lập.[8] Cuối năm thứ nhất,
Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm chống lại quy định của trường
đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không được trở lại chừng nào ông chưa
chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội.[14] Sau này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử
nhân luật của Chương trình đào tọa từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông báo với Mandela và Justice
(con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới
cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định
chuyển đến sống ở Johannesburg.[15] Khi đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh
gác tại một khu mỏ.[16] Tuy nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là
con nuôi đang chạy trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một
công ty luật ở Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người

bạn và người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu.[16] Khi làm việc tại hãng Witkin,
Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử nhân hàm thụ của Trường Đại
học Nam Phi, sau đó ông học luật tại Trường Đại học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn
tới bạn học và sau này là đồng chí chống chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry
Schwarz và Ruth First. Slovo sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ
Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra,
phía bắc Johannesburg.[17]

[sửa] Hoạt động chính trị
Sau chiến thắng của Đảng Quốc gia, ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc apartheid[18]
của những người Afrikaner, Mandela bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị.
Ông đã lãnh đạo rất thành công trong Chiến dịch Phản đối của ANC năm 1952 và Đại hội
Nhân dân năm 1955, từ đó thông qua Hiến chương Tự do là nền tảng cơ bản cho cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid.[19][20] Trong thời gian này, Mandela và luật sư đồng


nghiệp Oliver Tambo điều hành một công ty luật có tên là Mandela và Tambo, nhận bào
chữa miễn phí hoặc giá rẻ cho nhiều người da đen thiếu luật sư đại diện.[21]
Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách thức đấu tranh của Mandela, và cả phương
pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau.[22][23]
Mandela đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm
2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản kháng bất bạo
động) tại Nam Phi.[24]
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị bắt
giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình xét xử kéo
dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án.[25] Từ năm 1952–1959,
xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là những người Toàn Phi
đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của người da đen, lực lượng này
đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm chống lại chế độ của Đảng Quốc gia.[26]
Những nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu

không những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền
lãnh đạo của họ đang bị đe dọa.[26] Vì thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của
mình bằng cách liên minh với các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da
màu, lẫn Da đỏ nhằm tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi.[26]
Những người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại Kliptown năm
1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà chỉ có được một
phiếu trong liên minh Đại hội. Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại
hội đều đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP) tái cơ cấu, gắn liền với chính
sách của Moskva.[27][28] Đến năm 2003 Blade Nzimande, Tổng thư ký SACP, tiết lộ rằng
Walter Sisulu, Tổng thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm
1955[29] có nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do
tại sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một trong
năm bên ngang vai nhau.
Trong năm 1959, ANC mất phần lớn sự ủng hộ từ lực lượng chiến đấu khi phần lớn
những người Toàn Phi, với sự hỗ trợ tài chính từ Ghana và chính trị từ những người
Sotho tại tỉnh Transvaal, đã ly khai để thành lập Đại hội Toàn Phi (PAC) dưới sự lãnh
đạo của Robert Sobukwe và Potlako Leballo.[30]

[sửa] Hoạt động chống Chủ nghĩa Apartheid
Vào năm 1961, Mandela trở thành người đồng sáng lập và là lãnh đạo cánh vũ trang của
ANC, Umkhonto we Sizwe (tạm dịch Cây giáo của Quốc gia, cũng viết tắt là MK).[31]
Ông điều hành các chiến dịch phá hoại chống lại các mục tiêu quân sự và của chính
quyền, lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh du kích nếu phương cách phá hoại vẫn
không chấm dứt được chế độ apartheid.[32] Mandela cũng quyên tiền cho MK ở nước
ngoài và sắp xếp các buổi huấn luyện bán quân sự cho nhóm.[32]
Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến dịch đánh bom do
Mandela dẫn dắt như sau: "Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16


tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa apartheid,

như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương tự... bưu điện
và... các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện điều đó sao cho không
có ai bị thương vong."[33] Mandela đã nói về Wolfie: "Kiến thức về chiến tranh và kinh
nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi."[10]
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế cuối cùng; nhiều
năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của chính quyền đã cho ông
thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa apartheid nhiều năm qua đã không và
cũng không thể thu được tiến triển nào.[10][34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế
độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận rằng
ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con người, chỉ trích
thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những câu chữ phản ánh sự
thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế đi đến
Hoa Kỳ - ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan — nếu không có giấy phép cho
phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ chế độ
apartheid ở Nam Phi.[36][37]

[sửa] Bị bắt giữ và phiên tòa Rivonia
Ngày 5 tháng 8 năm 1962 Mandela bị bắt sau khi ẩn náu được 17 tháng, và giam giữ tại
Pháo đài Johannesburg.[38] Vụ bắt giữ này xảy ra do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa
Kỳ (CIA) đã tiết lộ nơi ẩn náu và nhân dạng giả của Mandela cho an ninh.[39][40][41] Ba
ngày sau đó, người ta đã đọc lời buộc tội ông chủ mưu kêu gọi công nhân đình công vào
năm 1961 và vượt biên bất hợp pháp tại tòa. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, Mandela bị
tuyên án 5 năm tù giam. Hai năm sau vào ngày 11 tháng 6 năm 1964, ông lại phải ra tòa
một lần nữa vì những hoạt động trong Hội đồng Quốc gia châu Phi (ANC).[42]
Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh đạo cốt cán của ANC
vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía bắc Johannesburg.
Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị chánh án, Tiến sĩ
Percy Yutar, cáo buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận

tội này) và các tội tương đương với phản quốc, nhưng chính quyền dễ chứng minh hơn.[43]
Lời buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc vào
Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong phiên tòa ngày 20 tháng 4
năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria, Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng
vũ lực chỉ là một sách lược mà thôi.[44] Lời phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng
các biện pháp hòa bình như thế nào để chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời
cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân
ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm


chỉ hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa
chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không chẳng
khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45] Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành
Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự
thất bại của các chính sách của Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những
người ngoại quốc không còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông kết thúc bài phát
biểu bằng những lời sau đây: "Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người
dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi cũng
chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về một xã hội
dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và bình đẳng. Đó là lý
tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng nếu cần, tôi cũng sẵn sàng
chết vì lý tưởng đó."[34]
Bram Fischer, Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và
George Bizos là các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47] Harold Hanson cũng được bổ sung vào
cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị
tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12
tháng 6 năm 1964.[48] Lời buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ
thể là bốn cáo buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ giúp
nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]


[sửa] Thời gian trong tù

Một khoảnh sân từ ở Đảo Robben

Phòng giam của Nelson Mandela trên Đảo Robben


Nelson Mandela bị giam giữ tại Đảo Robben và đã ở đấy 18 năm trong tổng số 27 năm
trong tù của ông.[49] Khi ở trong tù, ông dần dần trở nên nổi tiếng với vai trò là nhà lãnh
đạo da đen đáng chú ý nhất tại Nam Phi.[1] Ở trên đảo, ông và các tù nhân khác phải lao
động khổ sai ở một mỏ đá vôi.[50] Điều kiện sống trong tù rất cơ bản. Tù nhân cũng bị
phân chia theo sắc tộc và tù nhân da đen là những người nhận được lượng thực phẩm ít
nhất.[51] Tù chính trị được giam giữ riêng biệt với thường phạm và được hưởng ít quyền
lợi hơn.[52] Mandela đã mô tả rằng, do bị xếp vào tù nhân nhóm D (hạng thấp nhất) ông
chỉ được phép có một người khắp viếng thăm và nhận một lá thư mỗi sáu tháng.[53]
Những lá thư thường bị trễ khá lâu và rất khó đọc do chế độ kiểm duyệt trong nhà tù.[10]
Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học Luân Đôn và nhận bằng
Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử làm Hiệu trưởng danh dự của Đại học Luân Đôn
trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc về Công chúa Anne.[54]
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp viên Gordon Winter đã kể về
việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào năm 1969: kế hoạch này bị Winter
tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi, họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể
xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben sang Nhà tù Pollsmoor,
cùng với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed
Kathrada và Raymond Mhlaba.[53] Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh
hưởng của các nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ
đang bị giam tại Đảo Robben, cái gọi là "Trường Đại học Mandela".[56] Tuy nhiên, Thủ
tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói rằng việc chuyển trại này giúp cho việc

liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện
ông phải 'từ bỏ phương cách đấu tranh chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện'.[58]
Coetsee và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không
bao giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá nhân
mình.[59] Đúng là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái
Zindzi trong đó nói rằng "Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi tổ chức
của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể thương lượng mà
thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào hết."[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn ra vào tháng 11
năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks Hospital ở Cape
Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong bốn năm
sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền tảng cho các cuộc
tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì không nhiều.[57]
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và ở đó cho đến khi ông
được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với ông và những người như
Harry Schwarz đã có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela,
biết ông từ khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ


cho Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi Mandela làm
tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở trong cũng như ngoài nước
đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson
Mandela! (Nelson Mandela Tự do)[61] Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi
Botha bị đột quỵ và Frederik Willem de Klerk thay thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk
tuyên bố thả tự do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần khi ông còn ở Đảo
Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những chuyến thăm viếng như
sau: "với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ

thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính
trị."[64][65]

[sửa] Trả tự do

Mandela và Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton năm 1993
Ngày 2 tháng 2 năm 1990, Tổng thống Quốc gia F.W. de Klerk đã hủy lệnh cấm hoạt
động đối với Đảng ANC và các tổ chức chống chủ nghĩa apartheid khác, đồng thời thông
báo Mandela sẽ sớm được trả tự do.[66] Mandela được trả tự do từ Nhà tù Victor Verster ở
Paarl vào ngày 11 tháng 2 năm 1990. Sự kiện này được phát hình trực tiếp trên khắp thế
giới.[67]
Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi đến toàn quốc.[68] Ông
tuyên bố cam kết hòa bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước,
nhưng nói rõ rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói
"phương sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thái phái quân sự trong
ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ
nghĩa apartheid. Các yếu tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện.
Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy
vọng một không khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu
đấu tranh vũ trang không còn nữa."


Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình cho những người da đen
đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]

[sửa] Thương thuyết
Sau khi được trả tự do, Mandela trở lại làm lãnh đạo ANC, rồi từ năm 1990 đến 1994,
ông lãnh đạo đảng này trong cuộc thương lượng đa đảng dẫn tới cuộc bầu cử đa sắc tộc
đầu tiên trong nước.[69]
Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam Phi sau khi được

dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Chủ tịch (President) của tổ chức. Người
bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu
vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như mối quan hệ của ông
với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng được trao Giải Nobel Hòa
bình năm 1993. Tuy nhiên, mối quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như
trong một phát biểu nảy lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một
"chế độ không hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số". Cuộc thương
thuyết có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng 6 năm 1992, khi đó Mandela cùng
đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk
đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ
thảm sát Bisho tháng 9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội
đàm là cách duy nhất để tiến tới một giải pháp.[10]
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng 4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất
nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi
người bình tĩnh, trong bài phát biểu với vai trò 'tổng thống' dù khi đó ông chưa phải là
tổng thống thực sự. Mandela nói rằng "tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả
đen lẫn trắng, những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy
thành kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến
mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da trắng,
gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và mang lại sự công
bằng cho vụ ám sát này. Tên giết người máu lạnh Chris Hani đã tạo một làn sóng rung
chuyển đất nước và thế giới... Giờ đây đã đến lúc mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng
nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả
đời ông cho nó – sự tự do cho tất cả chúng ta".[73] Dù đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau
vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc
bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát
Hani.[57]

[sửa] Thời kỳ làm Tổng thống Nam Phi

Cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi với quyền bỏ phiếu được trao cho tất cả mọi
người đã diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994. ANC giành được 62% số phiếu bầu, và
Mandela, với vai trò là lãnh đạo ANC, đã nhâm chức làm Tổng thống da đen đầu tiên của


Nam Phi vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, de Klerk của Đảng Quốc gia là phó tổng thống
thứ nhất và Thabo Mbeki là phó tổng thống thứ hai trong Chính phủ Thống nhất Quốc
gia.[74] Với vị trí là Tổng thống từ tháng 5 năm 1994 cho đến tháng 6 năm 1999, Mandela
đã chủ trì sự chuyển giao từ quyền lực của thiểu số và chủ nghĩa apartheid, giành được sự
tôn trọng của quốc tế đối với những nỗ lực hòa giải quốc gia và thế giới của ông.[75]
Mandela đã khích lệ những người Nam Phi da đen ủng hộ cho đội Springbok (đội tuyển
rugby quốc gia Nam Phi) trước đây bị dân chúng ghét bỏ khi Nam Phi tổ chức Cúp
Rugby Thế giới 1995.[76] Sau khi Springbok giành chiến thắng trong trận chung kết trước
New Zealand, Mandela đã trao cúp vô địch cho đội trưởng Francois Pienaar, một người
Afrikan, trên người mặc chiếc áo đấu Springbok với con số 6 của Pienaar sau lưng. Hành
động này được xem là bước tiến lớn của sự hòa giải giữa người Nam Phi da trắng và da
đen.[77]
Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng của Mandela là chiếc
áo Batik của ông, còn được biết đến với cái tên "Áo Madiba", kể cả trong những sự kiện
long trọng.[78] Trong hành động quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi,
Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào tháng 9 năm 1998 để
bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili. Vụ việc này diễn ra sau một cuộc
bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn
định này.[79] Những nhà bình luận và phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS
như Edwin Cameron đã chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong
việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau khi nghỉ hưu, Mandela thừa nhận rằng
ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela từ
đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]

[sửa] Vụ xử Lockerbie

Tổng thống Mandela có sự quan tâm đặc biệt trong việc giúp đỡ giải quyết tranh cãi kéo
dài giữa một bên là quốc gia Lybia dưới thời Gaddafi, còn bên kia là Hoa Kỳ và Anh, đối
với việc mang ra xét xử hai người Lybia bị truy tố vào tháng 11 năm 1991 và bị buộc tội
phá hoại Chuyến bay 103 của Pan Am, khiến nó rơi tại thị trấn Lockerbie của Scotland
ngày 21 tháng 12 năm 1988, làm cho 270 người thiệt mạng.[86] Từ đầu năm 1992,
Mandela đã có lời đề nghị không chính thức gửi tới Tổng thống George H.W. Bush yêu
cầu xét xử hai nghi phạm Lybia tại quốc gia thứ ba. Bush tỏ ra tán thành đề nghị này, cả
Tổng thống François Mitterrand của Pháp và Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha cũng
vậy.[87] Vào tháng 11 năm 1994 – sáu tháng sau khi ông đắc cử tổng thống – Mandela
chính thức đề nghị Nam Phi nên là nơi diễn ra phiên toàn xét xử vụ đánh bom Chuyến
bay 103 của Pan Am.[88]
Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính
phủ Anh không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến ba năm sau, Mandela một lần
nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng
thăm Luân Đôn vào tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng
đầu chính phủ của khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng 10 năm 1997,
Mandela đã cảnh báo:


"Không thể có một quốc gia vừa là nguyên cáo, vừa là bên nguyên lẫn quan tòa."
Cuối cùng đã có một thỏa hiệp để tổ chức phiên tòa ở Trại quân sự Zeist ở Hà Lan, xét xử
theo Luật Scotland, và Tổng thống Mandela bắt đầu thương thuyết với Đại tá Gaddafi để
dẫn độ hai bị cáo (Megrahi và Fhimah) vào tháng 4 năm 1999.[90] Sau phiên tòa kéo dài 9
tháng, phán quyết đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm 2001. Fhimah được tuyên
trắng án, nhưng Megrahi bị buộc tội và phải lãnh 27 năm tù trong một nhà tù ở Scotland.
Kháng cáo lần đầu của Megrahi đã bị bác vào tháng 3 năm 2002, và cựu tổng thống
Mandela đã đến thăm người này tại nhà tù Barlinnie vào ngày 10 tháng 6 năm 2002.
'Megrahi hoàn toàn cô độc', Mandela nói trong cuộc họp báo nhỏ trong phòng thăm viếng
của nhà tù. 'Anh ta không có ai để nói chuyện cả. Đây là sự hành hạ về tâm lý mà một
người đàn ông phải chịu đựng trong suốt thời gian dài chịu án hoàn toàn một mình. Sẽ

công bằng hơn nếu anh ta được chuyển đến một quốc gia Hồi giáo — và có nhiều quốc
gia Hồi giáo mà phương Tây tin tưởng. Nó sẽ giúp gia đình anh dễ viếng thăm anh hơn
nếu anh ở một nơi như vương quốc Maroc, Tunisia hay Ai Cập.'[91]
Megrahi sau đó được chuyển đến nhà tù Greenock và không còn bị biệt giam nữa.[92]
Tháng 8 năm 2009, Megrahi, sau khi được chẩn đoán bị ung thư và chỉ còn sống được 3
tháng, đã được trả tự do trong một đợt ân xá và được phép trở về Libya. Quỹ Nelson
Mandela đã ủng hộ quyết định ân xá cho Megrahi trong một bức thư gửi tới Chính quyền
Scotland thay mặt cho Mandela.[93]

[sửa] Hôn nhân và gia đình
Mandela đã kết hôn ba lần, và có 6 con, 20 đứa cháu và số chắt thì ngày càng tăng. Ông
là ông nội của Tù trưởng Mandla Mandela.[94]

[sửa] Cuộc hôn nhân đầu tiên
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Mandela là kết hôn với Evelyn Ntoko Mase người cũng như
Mandela, xuất thân từ nơi về sau gọi là vùng Transkei của Nam Phi, mặc dù thực ra họ
gặp nhau tại Johannesburg.[95] Hai người chia tay vào năm 1957 sau 13 năm chung sống,
ly dị vì sự căng thẳng do ông thường xuyên vắng nhà, dành quá nhiều thời gian cho công
cuộc cách mạng, và một phần do bà là tín đồ Chứng nhân Jehovah, một tôn giáo đòi hỏi
một sự trung lập về chính trị.[96] Evelyn Mase chết năm 2004.[97] Hai người có với nhau
hai con trai, Madiba Thembekile (Thembi) (1946–1969) và Makgatho Mandela (1950–
2005), và hai con gái, cả hai đều có tên Makaziwe Mandela (được biết đến với tên Maki;
sinh 1947 và 1953). Đứa con gái đầu hết lúc 9 tháng tuổi, và họ đặt tên đứa con gái thứ
hai theo tên cô con gái đầu lòng.[98] Các con của họ đều đi học Trường Thế giới Thống
nhất ở Waterford Kamhlaba.[99] Thembi chết trong tai nạn xe hơi năm 1969 ở tuổi 25, khi
Mandela đang bị giam giữ tại Đảo Robben, và Mandela không được phép tham dự lễ
tang.[100] Makgatho chết vì bệnh AIDS năm 2005, khi 54 tuổi.[101]

[sửa] Cuộc hôn nhân thứ hai



Người vợ thứ hai của Mandela, Winnie Madikizela-Mandela, cũng xuất thân từ vùng
Transkei, mặc dù hai người cũng gặp nhau tại Johannesburg, nơi bà là công chức da đen
đầu tiên của thành phố.[102] Họ có hai con gái, Zenani (Zeni), sinh ngày 4 tháng 2 năm
1958 và Zindziswa (Zindzi) Mandela-Hlongwane, sinh năm 1960.[102] Zindzi chỉ mới 18
tháng tuổi khi cha cô bị giam tại nhà tù Đảo Robben. Sau này, Winnie phải chịu mối bất
hòa trong gia đình, phản ảnh cuộc xung đột chính trị của đất nước; khi chồng bà đang
chịu án chung thân ở Đảo Robben, còn cha bà lại làm bộ trưởng nông nghiệp ở Transkei.
[102]
Cuộc hôn nhân kết thúc bằng một cuộc ly thân (tháng 4 năm 2002) rồi ly dị (tháng 3
năm 1996), được kích thêm từ mối bất hòa về chính trị.[103]
Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn với Hoàng thân
Thumbumuzi Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc dù
bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà thăm
ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh
doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh
năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một người
ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới khi bà đọc bài diễn văn
của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện vào năm 1985. Bà là nữ doanh
nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con trai, Zondwa Gadaffi Mandela. [107]

[sửa] Cuộc hôn nhân thứ ba
Mandela đã tái giá vào sinh nhật lần thứ 80 của ông năm 1998, với Graça Machel nhũ
danh Simbine, góa phụ của Samora Machel, cựu tổng thống Mozambique và là đồng
minh của ANC bị chết trong vụ rơi máy bay 12 năm trước đó.[108] Cuộc hôn nhân là kết
quả của hàng tháng trời thương thảo ở cấp quốc tế để đặt ra đồ sính lễ chưa từng có trong
lịch sử để được rút khỏi bộ tộc của Machel. Một thỏa thuận miệng đã được thực hiện bởi
nhà vua truyền thống đại diện cho Mandela, Vua Buyelekhaya Zwelibanzi Dalindyebo.
[109]

Ông nội của thủ lĩnh tối cao là quan nhiếp chính Jongintaba Dalindyebo, người đã sắp
xếp cuộc hôn nhân cho Mandela, đã lảng tránh bằng cách trốn sang Johannesburg vào
năm 1940.[15]
Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi của ông quản lý, hiện
ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]

[sửa] Nghỉ hưu
Mandela là Tổng thống đắc cử lớn tuổi nhất của Nam Phi khi ông nhậm chức ở tuổi 75
vào năm 1994. Ông đã quyết định không cầm quyền nhiệm kỳ thứ hai và nghỉ hưu vào
năm 1999, người kế nhiệm ông là Thabo Mbeki.
Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích cực trong nhiều tổ chức xã
hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ phong trào Make Poverty History
(Biến đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là một bộ phận.[111] Giải


golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela, do Gary Player chủ trì, đã thu được hơn 20
triệu rand cho các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền giúp đỡ
trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện trong một đoạn
quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã được trích dẫn trong chiến dịch Chúc
mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
For seventeen days, they are roommates. For seventeen days, they are soulmates. And for
twenty-two seconds, they are competitors. Seventeen days as equals. Twenty-two
seconds as adversaries. What a wonderful world that would be. That's the hope I see in
the Olympic Games.
Tạm dịch:
Trong mười bảy ngày, chúng ta là bạn hữu. Trong mười bảy ngày, chúng ta là tâm giao.
Và trong mười hai giây, chúng ta là đối thủ. Mười bảy ngày bình đẳng. Mười hai giây đối
địch. Thế giới như thế mới tuyệt vời làm sao. Đó là niềm hy vọng mà tôi thấy được trong
Thế vận hội.


[sửa] Sức khỏe
Tháng 7 năm 2001 Mandela được chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt và tiến hành
chữa trị. Ông được xạ trị trong 7 tuần.[115] Năm 2003, Mandela bị CNN thông báo nhầm là
đã chết khi bản cáo phó viết sẵn của ông (cùng với vài yếu nhân khác) do sơ xuất đã hiển
thị trên website của CNN vì lỗi bảo vệ mật khẩu.[116] Vào năm 2007, một nhóm cánh tả
không chính thống đã phổ biến email và tin nhắn SMS giả mạo nói rằng nhà chức trách
đang giấu giếm cái chết của Mandela và những người Nam Phi da trắng sẽ bị tàn sát sau
tang lễ của ông. Mandela lúc đó đang đi nghỉ tại Mozambique.[117]
Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không tham gia các hoạt
động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông muốn có nhiều thời gian
hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly hoàn toàn khỏi công chúng,
nhưng muốn mình ở vị thế "sẽ gọi cho các bạn để hỏi xem tôi có được chào đón hay
không, chứ không phải được mời làm các thứ và tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu
của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi cho các bạn."[118] Từ năm 2003, ông ít xuất hiện
trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông di
chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng mất trí
nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi khắp đất nước ngày 18
tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà Qunu của ông.[121] Một buổi
hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong buổi diễn
văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy giúp đỡ người
nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện trong suốt kỳ World Cup 2010 tại


Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế mạc, tại đó ông đã được "chào đón nhiệt
liệt".[123]

[sửa] The Elders
Ngày 18 tháng 7 năm 2007, Nelson Mandela, Graça Machel, và Desmond Tutu tụ họp

một nhóm các nhà lãnh đạo thế giới tại Johannesburg để đóng góp sự hiểu biết và khả
năng lãnh đạo độc lập để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trên thế giới. Nelson
Mandela thông báo lập nên một nhóm mới, The Elders, trong một bài diễn văn nhân sinh
nhật lần thứ 89 của mình.[124]
Tổng giám mục Tutu làm chủ tịch của The Elders. Các thành viên sáng lập nhóm bao
gồm Graça Machel, Kofi Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy Carter, Lý
Triệu Tinh, Mary Robinson và Muhammad Yunus.[125]
"Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công khai lẫn hậu trường về bất
cứ hành động nào cần thực hiện", Mandela nói. "Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động
để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và
truyền hy vọng tại nơi tuyệt vọng."[126]

[sửa] Chống AIDS
Sau khi về hưu, một trong những sự quan tâm chính của Mandela là đấu tranh chống lại
bệnh dịch AIDS. Ông đã có bài phát biểu bế mạc Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XIII
năm 2000, tại Durban, Nam Phi.[127] Vào năm 2003, ông hỗ trợ bằng cách cho phép chiến
dịch gây quỹ chống AIDS 46664 sử dụng số hiệu tù nhân của ông.[128] Tháng 7 năm 2004,
ông bay tới Bangkok để phát biểu tại Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XV.[129] Con trai
ông, Makgatho Mandela, chết vì bệnh AIDS vào ngày 6 tháng 1 năm 2005.[130]

[sửa] Phê phán chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
Nelson Mandela phản đối mạnh mẽ vụ can thiệp của NATO tại Kosovo năm 1999 và gọi
đó là nỗ lực của các cường quốc nhằm kiểm soát thế giới.[131] Năm 2002 và 2003,
Mandela chỉ trích chính sách ngoại giao của chính quyền Tổng thống Mỹ George W.
Bush trong nhiều bài phát biểu.[132][133] Phê phán về việc thiếu sự tham gia của Liên Hiệp
Quốc trong quyết định bắt đầu Chiến tranh Iraq, ông nói, "Đó là một bi kịch, những gì
đang xảy ra, những gì Bush đang làm. Nhưng Bush giờ đây đang làm xói mòn Liên Hiệp
Quốc." Mandela cho rằng ông chỉ ủng hộ hành động chống lại Iraq nếu đó là do Liên
Hiệp Quốc ra lệnh. Mandela cũng nói bóng gió đến việc Liên Hiệp QUốc có lẽ đã bị ảnh
hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc vì đã không tuân theo ý kiến của Liên Hiệp Quốc và

tổng thư ký Kofi Annan về vấn đề chiến tranh. "Có phải vì tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
hiện tại là một người da đen hay không? Họ không bao giờ làm vậy khi tổng thư ký là
người da trắng".[134]
Ông kêu gọi nhân dân Mỹ tham gia vào các cuộc biểu tình lớn chống lại Bush và kêu gọi
các nhà lãnh đạo thế giới, đặc biệt là những nước có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo


an Liên Hiệp Quốc, phản đối Bush.[135] "Điều tôi lên án ở đây là chỉ một cường quốc, với
một vị tổng thống không có óc chiến lược, người không thể nghĩ cho đúng đắn, giờ đang
muốn đẩy thế giới vào một cuộc tàn sát." Ông tấn công Hoa Kỳ vì các thành tích xấu về
nhân quyền và đã thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II. "Nếu
có một quốc gia có hành động tàn ác đến mức không thể diễn tả được bằng lời, đó là Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ. Họ bất cần."[134] Nelson Mandela cũng chê trách nặng nề Thủ tướng
Anh Tony Blair và gọi ông là "ngoại trưởng của Mỹ."[136]

[sửa] Tranh chấp với Ismail Ayob
Ismail Ayob từng là một người bạn tin cậy và là luật sư riêng của Mandela trong hơn 30
năm. Vào tháng 5 năm 2005, Ayob được Mandela yêu cầu dừng bán các ấn phẩm có chữ
ký của Mandela và tính toán lại lợi nhuận thu được từ việc bán chúng. Tranh chấp này đã
khiến Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao Nam Phi vào năm đó.[137] Ayob cho rằng mình
không làm điều gì sai trái,[138] và nói rằng ông là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ do
các cố vấn của Mandela, mà cụ thể là luật sư George Bizos, dựng lên.[139]
Vào năm 2005 và 2006, Ayob và vợ con của ông trở thành đối tượng chỉ trích của các cố
vấn của Mandela. Vụ tranh chấp này được truyền thông rộng rãi, với Ayob được mô tả ở
vị thế phản diện, cao điểm là khi Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao. Đã có những cuộc
họp công khai trong đó những người thân cận của Mandela chỉ trích Ayob và công chúng
còn kêu gọi tẩy chay Ayob và gia đình ông.[140] Lời biện hộ của Ismail và Zamila Ayob
(vợ ông, và cũng là bị cáo liên quan) đưa ra các văn bản do Mandela ký và được các thư
ký của ông làm chứng, từ đó bác bỏ nhiều lý lẽ của Nelson Mandela và các cố vấn.[141]
Tranh chấp này một lần nữa lại xuất hiện trên mặt báo vào tháng 2 năm 2007 khi trong

một phiên tòa tại Tòa án Tối cao Johannesburg, Ayob hứa sẽ trả 700.000 rand cho
Mandela, chuyển qua các quỹ vì trẻ em của Mandela, và gửi lời xin lỗi,[142] [143] mặc dù
sau đó ông cho rằng ông là nạn nhân của "Sự trả thù" từ Mandela.[144] Một số nhà bình
luận bày tỏ sự cảm thông cho vị thế của Ayob, nói rằng vị trí biểu tượng của Mandela
khiến cho Ayob khó mà được đối xử một cách công bằng.[139]
[sửa] Lý lẽ
Ayob, George Bizos và Wim Trengove là những người được ủy thác của Quỹ Ủy thác
Nelson Mandela, được thành lập để cất giữ hàng triệu rand do các nhân vật kinh doanh
nổi tiếng, trong đó có gia đình Oppenheimer, tặng cho Nelson Mandela vì lợi ích của con
và cháu của ông.[145] Ayob sau này rút lui của Quỹ ủy thác. Vào năm 2006, hai người
được ủy thác còn lại của Nelson Mandela Trust đã tố cáo Ayob đã chi tiêu tiền từ quỹ ủy
thác mà không báo cho họ biết.[146] Ayob tuyên bố rằng số tiền này là để trả cho Dịch vụ
Doanh thu Nam Phi, cho con và cháu của Mandela, cho chính Mandela, và trả cho bốn
năm làm việc của công ty kế toán.[143]
Bizos và Trengrove từ chối thông qua việc chi trả cho con cháu của Nelson Mandela và
tiền trả cho công ty kế toán. Phiên tòa đã thỏa thuận rằng Ismail Ayob phải trả số tiền
này, tổng cộng hơn 700.000 rand, cho quỹ ủy thác vì lẽ Ayob đã chưa được sự đồng ý


của hai ủy thác viên khác trước khi dùng tiền.[147] Người ta cũng khẳng định là Ayob đã
có những nhận xét phỉ báng Mandela trong bản khai, vì thế tòa cũng yêu cầu Ayob xin
lỗi.[148] Người ta đã cho thấy các nhận xét này, tập trung vào các tài khoản ở nước ngoài
của Nelson Mandela và việc không trả thuế cho các tài khoản này, không xuất phát từ lời
khai của Ayob mà là từ chính lời khai của Nelson Mandela và George Bizos.[149]

[sửa] Tranh cãi về Kim cương máu
Trong một bài viết trong báo The New Republic tháng 12 năm 2006, Nelson Mandela bị
chỉ trích vì một số lời nhận xét tốt đẹp về ngành công nghiệp kim cương. Người ta lo ngại
là điều này sẽ làm lợi cho những nhà cung cấp kim cương máu.[150] Trong bức thư gửi tới
Edward Zwick, đạo diễn của bộ phim Kim cương máu, Mandela nói rằng:

...sẽ cực kỳ đáng tiếc nếu bộ phim này vô tình sai sự thật, và kết quả là, khiến cho thế giới
tin rằng cần phải có hành động thích hợp để ngưng việc mua kim cương được khai thác
từ châu Phi. ... Chúng tôi hy vọng rằng khát khao được kể một câu chuyện lịch sử về câu
chuyện có thật hấp dẫn và quan trọng sẽ không dẫn đến sự mất ổn định tại các quốc gia
sản xuất kim cương ở châu Phi, và cuối cùng là nhân dân các nước đó.[151]
Bài báo trên New Republic nói rằng lời bình luận này, cũng như các sáng kiến và phát
biểu trong cuộc đời ông và trong thời gian làm tổng thống Nam Phi, bị ảnh hưởng từ cả
tình bạn với Harry Oppenheimer, cựu chủ tịch De Beers, lẫn từ quan điểm 'quyền lợi
quốc gia hẹp hòi' của Nam Phi (là nhà sản xuất kim cương chính).[152]

[sửa] Zimbabwe và Robert Mugabe
Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe, người đã lãnh đạo đất nước này từ khi độc lập
năm 1980, đã nhận được nhiều lời chỉ trích trên thế giới vì trận đánh giết chết khoảng
3000 người vào thập niên 1980 cũng như tham nhũng, quản lý yếu kém, đàn áp chính trị
và theo gia đình trị dẫn đến nền kinh tế nước này sụp đổ.[153][154]
Mặc dù cùng xuất thân là những nhà hoạt động vì tự do quốc gia, Mandela và Mugabe ít
khi được xem là gần gũi. Mandela chỉ trích Mugabe vào năm 2000, nhắc tới những nhà
lãnh đạo châu Phi đã giải phóng đất nước họ nhưng khư khư giữ ghế quá lâu.[155][156] Khi
về hưu, Mandela ít nhắc đến Zimbabwe và các vấn đề đối nội đối ngoại hơn,[119] đôi khi
đưa đến chỉ trích là không biết sử dụng ảnh hưởng của mình để khuyến khích giảm bớt
chính sách của mình.[157] Luật sư của ông George Bizos tiết lộ rằng Mandela đã được
khuyên để giữ gìn sức khỏe ông phải tránh tham gia vào các hoạt động nhiều áp lực như
các tranh cãi về chính trị.[158] Tuy nhiên, vào năm 2007, Mandela đã nỗ lực thuyết phục
Mugabe rời chức "sớm hơn", với "chút ít chân giá trị còn lại", trước khi ông bị săn đuổi
như Augusto Pinochet. Mugabe không phản ứng gì trước lời phát biểu này.[159] Vào tháng
6 năm 2008, ở cao trào khủng hoảng trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe, Mandela
lên án "sự thất bại thảm hại của quyền lãnh đạo" tại Zimbabwe.[160]

[sửa] Tôn vinh



Chiến sĩ giải phóng Nam Phi Nelson Mandela trên con tem kỷ niệm của Liên Xô năm
1988
Theo một bài viết trên tạp chí Newsweek, "Mandela đã có được một vị trí bất khả xâm
phạm khi nhắc đến Nam Phi. Ông là nhà giải phóng dân tộc, vị cứu tinh, là Washington
và Lincoln hòa lại làm một".[161]
Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo ngày sinh của Mandela, 18
tháng 7, sẽ được gọi là "Ngày Mandela" để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do
của thế giới.[162]

[sửa] Huân huy chương
Mandela đã nhận được nhiều giải thưởng của Nam Phi, nước ngoài và quốc tế, trong đó
có Giải Nobel Hòa bình năm 1993 (cùng với Frederik Willem de Klerk),[163] được Nữ
hoàng Elizabeth II trao Huân chương Công lao và Baliff Grand Cross của Huân chương
Thánh John, Huy chương Tự do Tổng thống của George W. Bush.[164]Bản mẫu:Failed
verification[165] Tháng 7 năm 2004, thành phố Johannesburg trao tặng danh hiệu cao nhất
cho Mandela sự tự do của thành phố tại buổi lễ ở Orlando, Soweto.[166]
Ông cũng thường nhận được sự tán dương khi đi ra nước ngoài. Trong chuyến thăm
Canada năm 1998, 45.000 học sinh đã chào đón ông khi ông có bài phát biểu tại
SkyDome, Toronto.[167] Vào năm 2001, ông là người còn sống đầu tiên trở thành Công
dân danh dự của Canada (người nhận danh hiệu duy nhất trước đó là Raoul Wallenberg
sau khi đã mất).[168] Khi còn ở Canada, ông cũng nhận Huân chương Canada, là một trong
số ít người nước ngoài nhận được huân chương này.[169]
Năm 1990 ông nhận được Giải thưởng Bharat Ratna của chính phủ Ấn Độ và là người
cuối cùng nhận được Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô.[170] Vào năm 1992 ông
được nhận Giải thưởng Hòa bình Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã từ chối giải thưởng vì
cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó đang vi phạm nhân quyền,[171] nhưng đến năm 1999 thì chấp
nhận giải thưởng.“Mandela changes his mind”. Turkish Press Review (7 January 1999).



Truy cập 2 tháng 1 năm 2007.</ref> Vào năm 1992 ông nhận được Nishan-e-Pakistan,
giải thưởng phục vụ cộng đồng cao nhất của Pakistan.[172]

[sửa] Bài hát ca ngợi
Nhiều nghệ sĩ đã viết bài hát và nhạc về Mandela. Một trong những nhóm nổi tiếng nhất
là The Specials đã thu âm bài hát "Free Nelson Mandela" vào năm 1983. Stevie Wonder
viết bài hát đã đoạt giải Oscar "I Just Called to Say I Love You" cho Mandela, dẫn đến
bài này bị Hãng thông tấn Nam Phi cấm lưu hành.[173] Vào năm 1985, album Nelson
Mandela của Youssou N'Dour là bản phát hành đầu tiên tại Mỹ của ca sĩ người Senegal
này.
Năm 1988, một buổi hòa nhạc Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 70 của Mandela đã diễn ra tại
Sân vận động Wembley ở Luân Đôn là trung tâm của phong trào chống chủ nghĩa
apartheid, tại đó nhiều ca sĩ đã góp tiếng nói ủng hộ Mandela.[174] Jerry Dammers, tác giả
của bài hát Nelson Mandela, là một thành viên trong ban tổ chức.[174] Simple Minds đã
thu âm bài hát "Mandela Day" dành cho buổi hòa nhạc,[174] Santana đã thu âm bản giao
hưởng "Mandela",[174] Tracy Chapman trình diễn bài "Freedom Now", dành tặng cho
Mandela và phát hành album Crossroads,[174] Salif Keita đến từ Mali, có chơi ở buổi hòa
nhạc, sau này có đến thăm Nam Phi và năm 1995 thu âm bài hát "Mandela" trong album
Folon.[174]
Tại Nam Phi, "Asimbonanga (Mandela)" ("Chúng tôi chưa thấy ông") trở thành một
trong những bài hát nổi tiếng nhất của Johnny Clegg, xuất hiện trong album Third World
Child năm 1987.[175] Hugh Masekela, khi đó đang lưu vong ở Anh, đã hát bài "Bring Him
Back Home (Nelson Mandela)" vào năm 1987.[176] Bài hát "Black President" vào năm
1989 của Brenda Fassie, cũng dành tặng Mandela, trở nên cực kỳ nổi tiếng dù nó bị cấm
tại Nam Phi.[177] Nhạc sĩ nhạc reggae người Nigeria Majek Fashek đã phát hành đĩa đơn,
"Free Mandela" vào năm 1992, đưa ông thành một trong nhiều nghệ sĩ Nigeria phát hành
bài hát liên quan đến phong trào chống chủ nghĩa apartheid và đến Mandela.
Vào năm 1990, ban nhạc rock ở Hồng Kông Beyond đã ra mắt bài hát tiếng Quảng Đông
nổi tiếng, "Days of Glory". Bài hát với chủ đề chống chủ nghĩa apartheid đã nhắc đến
cuộc đấu tranh anh hùng của Mandela vì sự công bằng sắc tộc.[178] Nhóm Ladysmith

Black Mambazo đã đi cùng với Mandela tới buổi trao Giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na
Uy vào năm 1993, và trình diễn trong buổi nhậm chức năm 1994. Vào năm 2003,
Mandela đồng ý đưa tên tuổi của ông vào chiến dịch 46664 chống lại căn bệnh AIDS, đặt
theo số tù của ông. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã trình diễn trong các buổi hòa nhạc.[179]
Sơ lược tiểu sử của Mandela đã được chiếu trong bản video nhạc "If Everyone Cared"
của Nickelback vào năm 2006.[180] Bài hát "Turn This World Around" của Raffi dựa trên
bài diễn văn của Mandela khi ông giải thích thế giới cần phải "xoay vòng, vì những đứa
trẻ".[181] Một buổi hòa nhạc kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Mandela đã diễn ra tại Hyde
Park, Luân Đôn ngày 27 tháng 6 năm 2008.[182]

[sửa] Sách tiểu sử đã xuất bản


Tự truyện của Mandela, Long Walk to Freedom, được xuất bản vào năm 1994. Mandela
đã bắt đầu viết cuốn sách này một cách bí mật khi ở trong tù.[183] Trong quyển sách này
Mandela không tiết lộ điều gì về sự đồng lõa của F. W. de Klerk trong những vụ bạo lực
xảy ra vào thập niên 80 và 90, hay vai trò của bà vợ cũ Winnie Mandela trong những vụ
tắm máu đó. Tuy nhiên, ông sau này có cộng tác cùng với bạn ông, nhà báo Anthony
Sampson bàn luận về các vấn đề này trong Mandela: The Authorised Biography.[184] Một
chi tiết khác mà Mandela đã bỏ qua là cuốn sách có phần giả mạo Goodbye Bafana.[185]
Tác giả của nó, cai ngục James Gregory trên đảo Robben, nhận mình là bạn tâm tình của
Mandela trong tù và đã xuất bản những chi tiết về những vụ yêu đương trong gia đình của
người tù.[185] Sampson luôn nói rằng Mandela không biết rõ Gregory lắm, nhưng có thể
Gregory đã kiểm duyệt những bức thư gửi cho Mandela nên khám phá ra những chi tiết
về đời tư của Mandela. Sampson cũng quả quyết rằng các cai ngục khác nghi ngờ
Gregory là mật thám của chính phủ và Mandela đang xem xét việc kiện Gregory. [186]

[sửa] Điện ảnh và truyền hình
Bộ phim Mandela and De Klerk kể lại câu chuyện phóng thích Mandela.[187] Mandela do
Sidney Poitier đóng vai. Goodbye Bafana, một bộ phim phóng sự nói về cuộc đời của

Mandela, ra mắt tại liên hoan phim Berlin ngày 11 tháng 2 năm 2007. Bộ phim có diễn
viên Dennis Haysbert đóng vai Mandela và diễn tả tình bạn trong tù giữa Mandela và
James Gregory.[188]
Trong loạt chương trình truyền hình Mỹ The Cosby Show cháu nội của Cliff và Claire
Huxtable được đặt theo tên của Nelson và Winnie để tôn vinh Mandela và bà vợ khi đó
của ông Winnie.
Trong cảnh cuối năm 1992 bộ phim Malcolm X, Mandela – vừa được phóng thích sau 27
năm ở tù – đóng vai thầy giáo trong một lớp học Soweto.[189] Ông nhắc lại một phần bài
diễn văn nổi tiếng nhất của Malcolm X, trong đó có câu: "Chúng ta sinh ra trên trái đất
với quyền làm người, phải được tôn trọng như một con người, được trao những quyền
của một con người trong xã hội này, trên trái đất này, vào ngày này, điều chúng ta muốn
đưa thành hiện thực..." Đoạn cuối nổi tiếng của câu đó là "bằng bất cứ giá nào."[190]
Mandela đã thông báo với đạo diễn Spike Lee rằng ông không thể đọc câu này trước máy
quay vì sợ chính quyền apartheid sẽ dùng nó chống lại ông. Lee đã rất biết ơn, và những
giây cuối cùng của bộ phim là đoạn phim trắng đen của chính Malcolm X đọc câu này.
[190]

Mandela và đội trưởng Springboks, Francois Pienaar, là chủ đề của cuốn sách năm 2008
của John Carlin, Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation,
[191]
trong đó nhấn mạnh vai trò của chiến thắng trong Giải rugby vô địch thế giới 1995 tại
Nam Phi thời hậu apartheid. Carlin bán quyền làm phim cho Morgan Freeman.[192] Bộ
phim này, có tên Invictus,[193] được đạo diễn bởi Clint Eastwood, trong đó Freeman đóng
vai Nelson Mandela và Matt Damon vai Pienaar.[192]

[sửa] Tượng đài


Vật tưởng niệm Nelson Mandela


Tượng Mandela ở Quảng trường Nghị viện, Luân Đôn.

Bức tượng cao 6 mét tại Quảng trường Nelson Mandela, Sandton, Johannesburg

Khu vườn Nelson Mandela ở Leeds

Cầu Nelson Mandela ở Johannesburg
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2001, Khu vườn Nelson Mandela ở Quảng trường Thiên niên
kỷ, Leeds đã chính thức khai trương và Nelson Mandela được tặng giải sự tự do của
thành phố và được tặng một 'con cú vàng' (biểu tượng của Leeds) làm kỷ niệm. Trong bài
phát biểu bên ngoài Đại sảnh Leeds trước 5000 người, Mandela đã cảm ơn nhầm 'nhân
dân Liverpool vì sự hào phóng của các bạn'.[194]


Vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, Quảng trường Sandton ở Johannesburg được đổi tên
thành Quảng trường Nelson Mandela, sau khi người ta dựng bức tượng Nelson Mandela
cao 6 mét ở quảng trường để vinh danh nguyên thủ Nam Phi của mình.[195]
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2007, một bức tượng Nelson Mandela được khánh thành tại
Quảng trường Nghị viện ở Luân Đôn bởi Richard Attenborough, Ken Livingstone,
Wendy Woods, và Gordon Brown.[196] Chiến dịch dựng tượng bắt đầu vào năm 2000 bởi
Donald Woods, một nhà báo Nam Phi lưu vong vì tham gia phong trào chống chủ nghĩa
apartheid. Mandela nói rằng nó đại diện cho không chỉ ông, mà còn cho những ai đang
chống lại áp bức, đặc biệt tại Nam Phi.[197] Ông nói thêm: "Lịch sử đấu tranh tại Nam Phi
đầy những câu chuyện về các nam nữ anh hùng, một số họ là nhà lãnh đạo, một số là
người ủng hộ. Tất cả họ đều xứng đáng được ghi nhớ."[198]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, một bức tượng của Nelson Mandela được khánh thành
tại Trại cải tạo Drakenstein Groot giữa Paarl và Franshhoek trên đường R301, gần Cape
Town. Trước đây có tên Victor Verster, đây là nơi Mandela trải qua những năm cuối
cùng trong thời gian 27 năm ở tù, khi ông và các đồng chí ở ANC đã thương thảo với
chính quyền apartheid về những điều khoản để ông được tự do và bản chất của nước Nam

Phi mới. Bức tượng được đặt ngay nơi Mandela bước bước đi đầu tiên với tư thế một
người tự do. Ngay bên ngoài cổng tù – đỉnh điểm của Long Walk to Freedom – tên tự
truyện của Mandela.[199][200]
Sau Trận động đất Loma Prieta năm 1989 phá hủy phần Cầu cạn đường Cypress của Xa
lộ Nimitz tại Oakland, California, thành phố đã đổi tên con đường này và đặt tên là
Mandela Parkway.
Tại Leicester, nước Anh, có một Công viên Nelson Mandela với khẩu hiệu "Nam Phi
thuộc về tất cả những ai sống tại đó, dù Trắng hay Đen".

[sửa] Chú thích
1. ^ a b “Nelson Mandela - Biography”. 'Nobelprize.org'. The Nobel Foundation
(1993). Truy cập 30 April 2009.
2. ^ Mandela 1996, trang 16, 17
3. ^ a b “South Africa: Celebrating Mandela At 90”. AllAfrica.com (17 July 2008).
Truy cập 28 October 2008.
4. ^ Kopkind, Andrew (16 March 1990). “Book Review - Higher than Hope”.
Entertainment Weekly. Time Inc.. Truy cập 28 October 2008.
5. ^ a b Mafela, Munzhedzi James (October 2008). “The revelation of African culture
in Long Walk to Freedom”. Indigenous Biography and Autobiography. Australian
National University. Truy cập 18 July 2009.
6. ^ “President of South Africa: Nelson Mandela”. Chalre Associates. Truy cập 28
October 2008.[liên kết hỏng]
7. ^ a b c Aikman (2003), pp 70–71
8. ^ a b c Mandela, Nelson (2006). Mandela: The Authorized Portrait. Kansas City,
Mo.: Andrews McMeel Pub. tr. 13. ISBN 0-7407-5572-2.


Truy cập 26 May
2008.
9. ^ Mandela 1996, p.7

10. ^ a b c d e Mandela, Nelson (1994). Long Walk to Freedom. Little, Brown and
Company.
11. ^ Mandela 1996, p. 9. "Không ai trong gia đình tôi đi học cả [...] Trong ngày nhập
học, cô giáo của tôi, cô Mdingane, đặt cho mỗi đứa một cái tên tiếng Anh. Hồi đó
đây là thông lệ của người châu Phi và rõ ràng nó thể hiện xu hướng thiên về tiếng
Anh trong nền giáo dục mà chúng tôi thụ hưởng. Hôm đó, cô Mdingane bảo với
tôi tên mới của tôi sẽ là Nelson. Tại sao cô lại đặt cho tôi tên này, tôi cũng không
biết nữa."
12. ^ a b “Mandela celebrates 90th birthday”. BBC (17 July 2008). Truy cập 28
October 2008.
13. ^ “Healdtown Comprehensive School”. Historic Schools Project: South Africa.
Truy cập 28 October 2008.
14. ^ Mandela 1996, pp. 18-19.
15. ^ a b Mandela 1996, pp. 10, 20.
16. ^ a b “Nelson Mandela Biography - Early Years”. Nelson Mandela Foundation.
Truy cập 28 October 2008.
17. ^ “Nelson Mandela Children's Fund - Organise”. Nelson Mandela Children's
Fund. Truy cập 28 October 2008.
18. ^ “The 1948 election and the National Party Victory”. South African History
Online. Truy cập 28 October 2008.
19. ^ “The Defiance Campaign”. African National Congress. Truy cập 28 October
2008.
20. ^ “Congress of the People, 1955”. African National Congress. Truy cập 28
October 2008.
21. ^ Callinicos, Luli (2004). Oliver Tambo: Beyond the Engeli Mountains. New
Africa Books. 173. ISBN 0864866666.
22. ^ Mandela, Nelson (3 January 2000). “The Sacred Warrior”. Time 100: The Most
Important People of the Century. Truy cập 26 May 2008.
23. ^ Bhana, Surendra; Vahed, Goolam (2005). The Making of a Political Reformer:
Gandhi in South Africa, 1893–1914. tr. 149.

24. ^ Bhalla, Nita, “Mandela calls for Gandhi's non-violence approach”, Reuters, 29
January 2007. Truy cập 26 May 2008.
25. ^ “Nelson Mandela's Testimony at the Treason Trial 1956-60”. African National
Congress. Truy cập 28 October 2008.
26. ^ a b c “ANC - Statement to the Truth and Reconciliation Commission”. African
National Congress (August 1996). Truy cập 28 October 2008.
27. ^ Shillington, Kevin (2005). Encyclopedia of African History. CRC Press. 1449.
ISBN 1579582451.
28. ^ “The Freedom Charter”. African National Congress. Truy cập 28 October 2008.
29. ^ SACP Salutes Walter Sisulu
30. ^ Leeman, Bernard (1996). Alexander, Peter; Hutchison, Ruth; Schreuder,
Deryck. ed. The PAC of Azania in Africa Today. The Humanities Research


Centre, The Australian National University Canberra: The Australian National
University Canberra. ISBN 07315 24918.
31. ^ “Umkhonto is Born”. African National Congress. Truy cập 28 October 2008.
32. ^ a b c Whittaker, David J. (2003). The Terrorism Reader (ấn bản Updated).
Routledge. 244. ISBN 0415301017.
33. ^ “Tell me about the bomb at the brickworks - Frontline The Long Walk of
Nelson Mandela”. PBS.
34. ^ a b Mandela, Nelson (20 April 1964). “"I am Prepared to Die" — Nelson
Mandela's statement from the dock at the opening of the defence case in the
Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập 26 May 2008.
35. ^ “Mandela admits ANC violated rights, too”, Financial Times, 2 November
1998.
36. ^ “BBC News: US shamed by Mandela terror link” (10 April 2008).
37. ^ “Mandela taken off US terror list”. BBC News (1 July 2008). Truy cập 1 July
2008.
38. ^ “5 August - This day in history”. The History Channel. Truy cập 28 October

2008.
39. ^ Blum, William. “How the CIA sent Nelson Mandela to prison for 28



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×