Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.26 KB, 13 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Vận dụng lý luận của C.Mác vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga,
V.I.Lênin đã hoạch định kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Chính
sách kinh tế mới được V.I.Lênin khởi xướng đã đáp ứng được nhu cầu thực hiện kế
hoạch đó. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin đã làm cho nước Nga từ bị tàn phá
kiệt quệ trong nội chiến trở nên phát triển nhanh chóng. Nó đã củng cố liên minh
giai cấp công nông, tạo tiền đề ban đầu cho việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Thực tế hiện nay nước ta
tuy không giống hoàn toàn như nước Nga hồi đầu những năm 20 của thế kỉ XX,
nhưng cũng không ít điểm chung, đó là chúng ta cũng đang thực hiện quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, thực hiện nền kinh tế hàng hoá, thực hiện Công nghiệp hoá-Hiện
đại hoá.
Đảng ta, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện
sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong chính sách kinh tế mới của
V.I.Lênin. Để thực hiện thành công mục tiêu, chủ trương mà Đảng, Nhà nước
đã đề ra đó, chúng ta không thể không tham khảo kinh nghiệm của các nước xã
hội chủ nghĩa đi trước để rút ra lý luận, con đường cho riêng mình. Thực tiến đã
chứng minh rằng : Việc vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới (NEP) của
Lênin vào hoàn cảnh nước ta là việc làm cần thiết, kết quả của nó là nền tảng
cho chúng ta tực hiện thành công quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung của nó
rất phù hợp với điều kiện hiện nay ở nước ta cũng như xu thế chung của thế giới
là : hợp tác hoá, da phương hoá, … Do đó, chính sách kinh tế mới của
V.I.Lênin có ý nghĩa thực tiễn to lớn, và việc nghiên cứư đề tài ‘‘Chính sách
kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng ở Việt Nam’’ là vấn đề quan trọng trong
giai đoạn hiện nay.
Nội dung
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I. Cơ sở lý luận : Hoàn cảnh ra đời và nội dung của NEP.


1. Hoàn cảnh ra đời :
Sau cách mạng tháng Mười năm 1917, việc thực hiện kế hoạch xây dựng chủ
nghĩa xã hội của V.I.Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Trong thời
kỳ này, Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của
chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực của nông dân sau khi dành
lại cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng thời xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tện, xoá bỏ
việc tự do mua bán lương thực trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật
cho quân đội và bộ máy nhà nước. Tuy nhiên khi hoà bình lập lại, chính sách cộng
sản thởi chiến không còn thích hợp nữa. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.Đến cuối năm 1920, đất nước Xôviết chuyển sang giai
đoạn xây dựng trong hoà bình từ những điều kiện cực kì khó khăn. Nền kinh tế bị
thiệt hại và sa sút nghiêm trọng, nhất là lĩnh vực nông nghiệp. Dân số ăn theo chế
độ cung cấp của nhà nước ngày càng tăng nhanh trong khi mức cung cấp lương
thực ngày càng ít và thấp. Các chỉ tiêu thu mua trưng thu cứ tăng lên, nhưng kết
quả cứ giảm xuống. Số lượng giai cấp công nhân đã giảm hơn 1/2, trong đó một bộ
phận chuyển về nông thôn. Nông dân ngày càng không bằng lòng vói chính sách
của Đảng. Sai lầm trong hoạt động kinh tế gây ra hậu quả nặng nề về chính trị :
liên minh công nông đứng trước nguy cơ tan rã, chuyên chính vô sản không được
củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng yếu đi. Tình trạng an ninh chính trị và an toàn
xã hội ngày càng xấu đi. Đại hội Đảng phải có sự thay đổi cơ bản chính sách kinh
tế. Và chính sách kinh tế mới của Lênin ra đời.
2. Nội dung của NEP :
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin bao gồm những nội dung chủ yếu sau
đây:
a. Chính sách về thuế lương thực :
Theo chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức cố
định trong nhiều năm. Mức thuế này căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất canh
tác. Việc bỏ chế độ trưng thu lương thực bằng việc đặt ra thuế lương thực làm cho
mỗi người nông dân ai cũng biết trước số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để
2

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vượt mức đó. Việc thay chế độ này cũng tạo cho nông dân quyền tự do lựa chọn
hình thức sử dụng ruộng đất, Nhà nước thu thuế dễ dàng, nông dân được khuyến
khích sản xuất. Tất cả những cái đó đã tạo điều kiện để tăng cường tích luỹ kinh tế
ở nông thôn, là đòn neo mạnh mẽ để khôi phục nông nghiệp sau chiến tranh.
b. Chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp
thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Cơ chế kinh tế hàng hoá này sẽ đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và
tiêu dùng của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá thúc đầy quá trình
phân công lao động trong nông nghiệp, vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh
doanh tổng hợp, từ đó khôi phục và phát triển được lực lượng sản xuất, cải thiện
đời sống nhân dân. Kinh tế hàng hoá là con đường để nhà nước giải quyết vấn đề
lương thực một cách vững chắc. Khôi phục và phát triển hàng hoá trong nông
nghiệp làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị
và nông thôn.
c. Cơ cấu lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp
và nông dân.
Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng
công nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Để thực hiện yêu cầu đó,
quán trình khôi phục sản xuất công nghiệp cần theo các hướng sau :
- Khôi phục công nghiệp trên cơ sở kỹ thuật cũ . Đây là một tất yếu khách
quan vì điều kiện khó khăn lúc bấy giờ.
- Phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên
liệu và nhiên liệu.
-Bước đi của quá trình khoô phục công nghiệp, trước hết là khôi phục công
nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm là những ngành gắn bó với nông nghiệp về
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
- Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán
kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp.

d. Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm mới :
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Căn cứ vào thị trường hiện có và tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh
thị trường và bằng những biện pháp kinh tế thường xuyên có cân nhắc và đợc xây
dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trờng mà nắm vững việc điều tiết
thị trường và lưu thông tiền tệ.
Quan điểm mới của NEP đối với lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu chuyển
nền kinh tế từ trạng thái hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường, từ phân
phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Do đó, nội thương trở thành cái
mắt xích đặc biệt cần nắm vững trong dây chuyền quản lý, điều tiết hoạt động của
nền kinh tế.
e. Ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xôviết :
Công tác tài chính được thực hiện qua các biện pháp như kiểm kê và kiểm
soát có tác dụng tính toán nhu cầu về tài chính của xí nghiệp. Kiểm soát việc chi
tiêu, hạn chế các chi phí cho sản xuất và chi phí cho bộ máy. Nhà nước chủ trương
tổ chức tài chính quốc gia, điều tiết giá cả nhằm thiết lập quan hệ kinh tế mới giữa
thành thị và nông thôn.
Chính sách tài chính quốc gia thống nhất dựa trên quan điểm tập trung tài
chính, tập trung lực lượng của quốc gia cho công cuộc cải cách vì lợi ích của người
lao động.
II. Cơ sở thực tiễn : Sự vận dụng thành công chính sách kinh tê mới ở nước
Nga Xôviết.
1.Tình hình kinh tế nước Nga Xôviết giai đoạn 1920. Ở giai đoạn này, nền
kinh tế nước Nga bị thiệt hại và sa sút nặng nề, biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực
sau :
a. Nông nghiệp :
Diện tích gieo trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm. Tổng
sản lượng nông nghiệp năm 1920 chỉ bằng 60% năm 1913. Dân số là 137 triệu
người, bình quân ngũ cốc đầu người năm 1920 là 246 kg, còn trước chiến tranh là

405 kg.
b. Công nghiệp :
Tổng sản lượng công nghiệp năm 1920 so với năm 1917 giảm đi hơn 4 lần. Tỷ
trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. So với năm 1918,
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khai thác than đá giảm từ 731 triệu pút xuống 476 triệu pút, đúc gang giảm từ 31,5
triệu pút xuống 7 triệu pút. So với năm 1913, sản xuất đại công nghiệp goảm
xuống tới 12,8%, còn công nghiệp giảm xuống tới 44,1%.
c. Giao thông vận tải :
Hệ thống giao thông vận tải bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy và 28%
số toa xe bị phá cùng với 4000 chiếc tàu và các ga kho tàng. So với trước chiến
tranh, khối lượng vận chuyển năm 1920 chỉ còn 20%.
d. Tài chính - tín dụng :
Hệ thống tài chính tín dụng lâm vào tình trạng hỗn loạn. Mức dự trữ vàng của
ngân hàng giảm sút nghiêm trọng. Khối lượng tiền tệ tăng nhanh đã dẫn đến sự
tăng vọt của giá cả. Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng hớn 21 triệu lần
so với năm 1913. Do đồng rúp mất giá nhanh nên các địa phương đã tự tạo ra vật
ngang giá khác nhau. Đồng thời, xu hướng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần
lên.
2. Sự áp dụng thành công chính sách kinh tế mới ở nước Nga Xôviết :
Đến cuối năm 1920, nhà nước chỉ sử dụng 1/3 trong tổng số xí nghiệp đã quốc
hữu hoá trước kia, số xí nghiệp còn lại thì đóng cửa, tạm ngừng hay cho thuê, tô
nhượng. Nhờ thự hiện sự cân đối như vậy nên đã đẩy nhanh việc khôi phục các xí
nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động.
Kết qủa trong thời gian 1921 - 1924, tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh đã
tăng hơn 2 lần, sớm phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế
Sau khi chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin ra đời, nhà nước Nga Xôviết
tiến hành đổi đơn vị tiền tệ. Lần thứ nhất vào đầu năm 1922, với tỷ lệ 1 rúp mới
năm 1922 bằng 10 ngìn rúp cũ. Đến lần thứ 2 vào năm 1923 là 1 rúp bằng 100 rúp

năm 1922. Qua 2 lần đổi tiền đã nâng đồng rúp lên 1 triệu lần đồng thời mở rộng
phát hành tín phiếu. Bên cạnh việc đổi tiền tháng 10/1922, nhà nước phát hành
giấy bạc ngân hàng, gọi là đồng ‘‘checvônet’’được đảm bảo không dưới 25% bằng
vàng và bằng ngoại tệ. Đồng ‘‘checvônet’’ nhanh chóng được chấp nhận và có vị
trí vững chắc trong lưu thông, bởi vì một mặt nó được bảo đảm bằng vàng, mặt
khác nó còn có vật tư và hàng hoá của các tổ chức kinh tế quốc doanh đảm bảo giá
trị. Nhờ đó nó trở thành một đồng tiền mạnh, đủ đẩy vàng và ngoại tệ ra khỏi lưu
5

×