Tình huống 2: FDI trong công nghiệp dầu mỏ của Venezuela
Phân I. TÌM HIỂU VỀ LỊCH SỬ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU MỎ Ở
VENEZUELA
Quan trọng nhất để biết về Venezuela là nó là một quốc gia xuất khẩu dầu mỏ,
thứ năm lớn nhất trên thế giới, với những quy ước lớn nhất của trữ dầu (ánh sáng và
nặng thô) ở phía Tây hemisphere nghiệp và lớn nhất của các tổ chức phi quy ước dầu
(thêm nặng-thô) trên thế giới. Điều này thực tế để hiểu biết tầm quan trọng Venezuela
bởi vì nó có hình dáng thiết thực mọi khía cạnh của đất nước, lịch sử của nó, các nền
kinh tế, chính trị của nó, và các nền văn hóa.
Venezuela của lịch sử ngành công nghiệp dầu có thể được tạm chia thành bốn
giai đoạn:
- Giai đoạn (1912-1943): những khám phá và sản xuất dầu đầu tiên
- Giai đoạn (1943-1974): Venezuela tăng cường của Petro-nhà nước kiểm
soát đối với các ngành công nghiệp dầu mỏ
- Giai đoạn(1974-1998): dầu và phát triển vượt bậc của nationalization
ngành công nghiệp dầu mỏ
- Giai đoạn (1999-2003): sự cố gắng của chính phủ Ðể lấy kiểm soát hơn
đối với một ngành công nghiệp dầu mỏ ngày càng độc lập
I.1 Giai đoạn 1(1912-1943): những khám phá và sản xuất dầu đầu tiên
Venezuela đã có phong phú về nguồn cung cấp dầu đã được biết đến sớm nhất
từ khi có sẵn, Cô lôm bia lần, khi các dân tộc của Venezuela đã sử dụng dầu và asphalt,
mà seeped vào bề mặt, cho thuốc và các mục đích thực tế. Tuy nhiên, nó không được
cho đến khi 1912 là lần đầu tiên dầu cũng đã được drilled. Một thời gian ngắn sau đó,
lần đầu tiên Royal Dutch Shell và sau đó Rockefeller dầu đã trở thành tiêu chuẩn của
các doanh nghiệp sản xuất dầu ở Venezuela. Trong vòng một vài năm qua, của 1929,
Venezuela đã được thế giới lớn thứ hai của sản xuất các sản phẩm dầu mỏ, sau khi Hoa
Kỳ, và trên thế giới lớn nhất của nước xuất khẩu dầu. Giữa 1920 và 1935 của cổ phần
của dầu xuất khẩu đi từ 1,9% đến 91,2%. Điều này, tất nhiên, đã có một mẽ và ngay lập
tức tác động đến nền kinh tế của đất nước, được biết giữa các kinh tế như là "Tiếng Hà
Lan Các dịch bệnh," mà sẽ được khám phá nhiều hơn chi tiết trong thời gian ngắn.
Điều quan trọng nhất hậu quả của "Tiếng Hà Lan dịch bệnh," là sản xuất nông nghiệp
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Trung Trang 1
Tình huống 2: FDI trong công nghiệp dầu mỏ của Venezuela
hầu như không có gì để từ chối và cho đất nước rơi trong industrializing phía sau, liên
quan đến các quốc gia Mỹ Latinh khác.
I.2 Giai đoạn 2(1943-1974): Venezuela tăng cường của Petro-nhà nước kiểm soát
đối với các ngành công nghiệp dầu mỏ
Trong 1943 Venezuela thông qua một cuộc cải cách rộng lớn của nó với các
chính sách dầu Hydrocarbons luật, có gắn các Venezuelan thu nhập của nhà nước chặt
chẽ hơn nữa vào khai thác dầu. Trong khi thu nhập dầu trước đó đã được hầu hết là
dựa trên concessions và hải quan, các hành động mới hydrocarbons dầu gắn vào doanh
thu thuế dựa trên thu nhập từ khai.
Quy định của pháp luật thành lập các công ty nước ngoài không thể làm cho lợi
nhuận lớn hơn từ dầu hơn họ trả cho người Venezuelan tiểu bang. Việc liên tục tăng
thu nhập dầu đã dẫn đến ngày càng tăng độ tin cậy của nhà nước này nguồn thu nhập
của thuế thu nhập cá nhân.
Năm 1950, ngành công nghiệp dầu trên thế giới đã bắt đầu cảm thấy những ảnh
hưởng của các quá cung cấp dầu, đặc biệt là sau khi gia tăng sản xuất dầu ở Trung
Đông và áp hạn ngạch nhập khẩu của Việt Nam trên đất Mỹ .Những hậu quả đã là một
chronically thấp giá dầu. Vì vậy, như là để chống lại vấn đề này, năm 1960, trên thế
giới chính của các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ, chủ yếu do sự prodding của Venezuelan
chính phủ, quyết định để hình thành các tổ chức Các nước xuất khẩu dầu khí (OPEC).
Ngoài ra năm 1960, Venezuela Venezuelan tạo ra các Tổng công ty Dầu khí, mà sau đó
hình thành cơ sở cho các nationalization của ngành công nghiệp dầu mỏ của Venezuela.
I.3 Giai đoạn 3 (1974-1998): dầu và phát triển vượt bậc của nationalization
ngành công nghiệp dầu mỏ.
Với Trung Đông dầu embargo của năm 1973, và giá dầu thế giới, cùng với nó,
doanh thu của chính phủ Venezuelan, quadrupled từ 1972 đến 1974. Điều này bất ngờ
và sizable tăng thu nhập đã được chính phủ duy nhất trong lịch sử Venezuela (và sẽ
được cho hầu hết các quốc gia khác trên thế giới).
Nó cho phép mới được bầu Chủ tịch, Carlos Andrés Pérez, để Venezuelans hứa
rằng Venezuela sẽ trở thành một quốc gia phát triển là trong vòng một vài năm. Dự án
của ông đã được biết đến như là "La Gran Venezuela" và đã được yêu cầu "cây gai dầu"
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Trung Trang 2
Tình huống 2: FDI trong công nghiệp dầu mỏ của Venezuela
mặc dù một sự kết hợp của các chiến đấu xóa đói giảm nghèo, thông qua kiểm soát giá
cả và thu nhập tăng, và sự đa dạng của các nền kinh tế của đất nước, thông qua thay thế
nhập khẩu.
Một phần của kế hoạch này còn là nationalization của ngành công nghiệp dầu
mỏ của Venezuela, mà đã trở nên đầy đủ nationalized năm 1976, với sự sáng tạo của
Petroleos de Venezuela (PDVSA). Trong khi dầu xuất hiện để phát triển vượt bậc là
một phước lành cho Venezuela kinh hai, nó đã có một số hậu quả tiêu cực, chẳng hạn
như lạm phát và mãn tính, paradoxically, một tăng indebtedness. Những vấn đề này đã
được exacerbated khi nào, ở giữa-80 của giá dầu đã bắt đầu vào plummet, do các thành
viên OPEC 'vi phạm hạn ngạch sản xuất của họ. Bởi năm 1998, giá dầu đã đạt đến một
di tích lịch sử thấp là $ 3,19 cho mỗi thùng (giá năm 1973).
Điều này suy giảm trong giá dầu đã có một tác động đáng kể vào Venezuela của
nền kinh tế, đặc biệt là về thu nhập bình quân đầu người, trong đó đã được ổn định
trong một từ chối giữa trung-80 và nay.
I.4 Giai đoạn 4 (1999-2003): sự cố gắng của chính phủ Ðể lấy kiểm soát hơn đối
với một ngành công nghiệp dầu mỏ ngày càng độc lập.
Hugo Chávez, khi lần đầu tiên được bầu vào tháng mười hai năm 1998, nó đã
không giống như Anh đã có kế hoạch cụ thể cho PDVSA. Tuy nhiên, Ông đã làm rất rõ
ràng các kế hoạch cho OPEC.Trong đó, dưới sự lãnh đạo của Ali Rodríguez, đã được
chuyển sang một cartel mạnh một lần nữa. Cho đến khi Chavez đến sức mạnh, OPEC
đã chuyển sang một bóng tối của nó cựu tự, với các thành viên thường xuyên bỏ qua
các tiểu bang của họ hạn ngạch.
Đặc biệt Venezuela, đã chuyển sang một trong những thành viên tiểu bang
'unreliable hầu hết các đối tác. Sản xuất trên được phân bổ hạn ngạch, song song với
việc mở rộng sản xuất dầu trong OPEC không quốc gia, chẳng hạn như Nga và Mê-hi-
cô, đã dẫn đến một steep giảm giá dầu.
Trong năm 2000, Chavez hứa hẹn để bắt đầu và kết thúc vào điều này, của tổ
chức thứ hai của OPEC-bao giờ cuộc họp của người đứng đầu nhà nước tại Caracas.
Ngoài ra, Chavez dành cho năm đầu tiên của ông presidency tìm hiểu các nhà lãnh đạo
của OPEC và các nước OPEC không phải để thuyết phục họ mà để tuân thủ hạn ngạch
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Trung Trang 3
Tình huống 2: FDI trong công nghiệp dầu mỏ của Venezuela
sản xuất. Với hình thức đó như là để duy trì một giá dầu giữa $ 22 và $ 28 cho mỗi
thùng.
Chavez 'nỗ lực bore gần như ngay lập tức các kết quả, khi giá dầu hoa hồng cho lần
đầu tiên, từ 1985, đến trên $ 27 cho mỗi thùng (giá trong nominal).
Bên cạnh đó, Chavez chạy vào xung đột với việc quản lý của PDVSA, mười lăm năm
qua, đã được tập trung vào sản xuất dầu càng nhiều càng tốt, bất kể hạn ngạch OPEC. Kết quả
là, đầu tiên, một ổn định của PDVSA Chủ tịch luân phiên. Chavez xung đột này được sử dụng
để tranh luận rằng những gì các ngành công nghiệp dầu mỏ cần thiết đã được hoàn lại
nationalization vì nó đã trở nên quá độc lập của nhà nước và đã chuyển sang một "nhà nước
trong một tiểu bang."
PHẦN II. FDI TRONG CÔNG NGHIỆP DẦU MỎ CỦA VENEZUELA
II.1 Nằm bên dưới quyết định của Venezuela đóng cửa ngành dầu mỏ đối với
đầu tư nước ngoài vào năm 1976 ta nhận thấy:
Vào năm 1976, các nước Mỹ Latinh trong đó có Venezulea là sân sau của Mỹ
chịu nhều ảnh hưởng của Mỹ trong lĩnh vực kinh tế cũng như chính trị. Sau thất bại của
Mỹ tại Việt Nam vào năm 1975 đã ảnh hưởng lớn đến các nước Mỹ Latinh.
Chính vì điều đó đã thôi thúc Venezulea muốn độc lập, tự do, dân chủ nhằm
giảm bớt áp lực của Mỹ.
Venezuela không muốn thất thoát tài nguyên dầu mỏ quý giá trời cho, lợi nhuận
không bị chia sẽ, tâp trung hóa sản xuất, tăng doanh thu.
Venezulea đã quyết định quốc hữu hoá ngành dầu mỏ, một trong những ngành
quan trọng bận nhất của quốc gia giàu dầu mỏ này khỏi bị thao túng của các nước tư
bản (Mỹ).
Venezulea muốn làm chủ được ngành dầu mỏ họ sẽ làm chủ được chính trị.
II.2 Chính phủ Venezuela thay đổi quay ngược đường lối của mình vào năm 1991
và mở rộng vòng tay đối với đầu tư nước ngoài là nhằm vào 3 lý do chính sau:
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Trung Trang 4
Tình huống 2: FDI trong công nghiệp dầu mỏ của Venezuela
Thứ nhất, Chính phủ nhận ra rằng PDVSA không đủ năng lực vốn cần thiết nếu
đầu tư một mình.
Thứ hai, Chính phủ hiểu rằng PDVSA thiếu nguồn lực về kỹ thuật và những kỹ
năng mà nhiều công ty dầu mỏ lớn trên thế giới đã có, đặc biệt trong những lĩnh vực
như thăm dò dầu khí, khai thác mỏ dầu và tinh chế
Thứ ba, chính phủ tin rằng PDVSA có thể sử dụng các liên doanh với các công
ty dầu mỏ nước ngoài như là một phương thức để học hỏi về kỹ thuật quản lý hiện đại
trong ngành dầu mỏ. PDVSA có thể sau đó sử dụng những kiến thức này để cải thiện
hiệu quả trong hoạt động sản xuất
Lợi ích tiềm năng của nền kinh tế Venezuela :
- Sử dụng một nghiên cứu của BP(British Petroleum), PDVSA xác định những
khu vực ở phía Đông Venezuela có một trữ lượng dầu mỏ khá lớn chưa được
khai thác sẽ được khai thác tiếp .
- Từ khi quốc hữu hóa ngành dầu mỏ thi các công ty trong nước chỉ tập trung khai
thác các mỏ dầu hiện hữu nên tiềm năng còn rất lớn .
- Khi liên doanh sẽ tăng sản lựợng khai thác, đồng thời phát hiện thêm nhiều mỏ
dầu trên đất nướcVenezulea mà 90% ngoại tệ thu được từ nguồn dầu mỏ.
- Tăng qui mô khai thác và tăng GDP cho đất nước
- Tạo nhiều việc làm cho người lao động .
- Nâng cao cơ sở hạ tầng
- Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư của mình.
Một số lợi ích cụ thể trong việc mở rộng vòng tay đón đầu tư nước
ngoài :
Mới đây, Venezuela đã phát hiện thêm các mỏ dầu mới với trữ lượng khoảng 5,5
tỷ thùng tại Junin, Iguana Zuata đều nằm trong khu vực giàu tiềm năng dầu khí Orinoco
phía Đông đất nước.
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thành Trung Trang 5