Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Ngữ Văn 6 (Tg: Vũ Thị Hường)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.91 KB, 12 trang )

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP QUY NẠP TRONG DẠY TRI
THỨC TỪ NGỮ PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT NGỮ VĂN 6
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chon đề tài
Có thể nói từ xa xưa cùng với sự xuất hiện của loài người thì ngôn ngữ
con người cũng xuất hiện và ngày càng phát triển. Ngôn ngữ là phương tiện tư
duy của cộng đồng xã hội. Trong ngôn ngữ thì từ ngữ được xem là vật liệu kiến
thức cơ bản của tiếng nói. Từ ngữ chính là bộ kí hiệu con người đặt ra để mã
hoá sự vât, định danh sự vật. Con người nhận thức sự vật đến đâu thì ghi lại
nhận thức ấy trong từ ngữ. Như vậy rõ ràng vốn từ ngữ của cộng đồng phản
chiếu năng lực hiểu biết hiện thực của cộng đồng đó, phản ánh năng lực tư duy,
năng lực trí tuệ của cộng đồng. Có thể nói vốn từ ngữ đã mở rộng tầm hiểu biết
của mỗi con người.
Bên cạnh tầm quan trọng trên, vốn từ ngữ còn thể hiện rõ năng lực biểu
đạt cảm nghĩ. Chúng ta sống trong xã hội Việt Nam, làm việc nói năng giao tiếp
với đồng bào mình. Ai chẳng muốn lời nói của mình giàu sức thuyết phục. “Kẻ
nói phải có người nghe!”.Nhưng muốn có người nghe thì phải biết nói sao cho
hay, cho dễ hiểu, cho hấp dẫn. “Nói ngọt lọt đến xương”, tục ngữ đã dạy thế!
Điều kiện để nói hay là phải giàu có vốn từ ngữ. Từ ngữ là phương tiện giao
tiếp xã hội quan trọng nhất. Người có vốn từ phong phú sẽ dễ dàng tìm được
cách nói tốt nhất.
Nhưng trên thực tế chúng ta dễ nhận thấy học sinh rất “bí” trong cách dùng
từ, chọn lọc từ ngữ do vốn từ của các em quá “nghèo”. Hậu quả trên dẫn đến
hiện tượng nhiều em học sinh viết văn còn lủng củng, diễn đạt thiếu trong sáng,
nhiều câu văn còn rất tối nghĩa (đối với văn bản viết). Còn trong văn bản nói,
các em cũng tỏ ra rất lúng túng, nhiều em hiểu vấn đề nhưng không biết chọn từ
ngữ nào để diễn đạt ý mình định nói, đây cũng là một hiện tượng khá phổ biến.
Vậy làm thế nào để giúp các em có thêm vốn từ và hiểu chính xác nghĩa
của các từ ấy để vận dụng vào trong nói và viết cho phù hợp? Thiết nghĩ đây là
một câu hỏi khá nhức nhối đối với một giáo viên dạy văn mà đặc biệt là dạy các
tiết về tri thức từ ngữ trong phân môn Tiếng Việt.


Với những lí do trên, trong đề tài này tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm
“Vận dụng phương pháp quy nạp trong dạy tri thức từ ngữ phân môn Tiếng
Việt -Ngữ Văn 6”
2. Mục đích chọn đề tài.
Với đề tài này, tôi muốn hướng tới mục tiêu là đưa ra một vài kinh
nghiệm trong vận dụng phương pháp quy nạp để dạy tri thức từ ngữ, để qua đó
học sinh có thể phát huy cao hơn nữa khả năng vốn có, nắm vững và hiểu rõ
hơn nữa về tri thức từ ngữ và kỹ năng sử dụng từ ngữ . Đồng thời tôi cũng soạn
một giáo án thể nghiệm theo tinh thần đổi mới .
Song với khuôn khổ đề tài hạn hẹp, vốn kinh nghiệm ít ỏi tôi chỉ mong đây
là những sáng kiến nhỏ, là tài liệu tham khảo, để có thể giúp các đồng nghiệp có
-1-


thêm kinh nghiệm dạy tri thức từ ngữ để học sinh có hứng thú hơn trong giờ
học.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Xã hội loài người không ngừng phát triển điều đó đồng nghĩa với việc
ngôn ngữ của con người ngày một phong phú dồi dào. Đặc biệt trong xu thế hội
nhập ngày nay ngôn ngữ các nước dễ dàng du nhập vào Việt Nam. Trong đó có
cả ngôn ngữ mà người Việt cần mượn nhưng cũng có cả những ngôn ngữ lai tạp
vào do cách sính dùng từ ngoại của một số bộ phận lớp người trong xã hội đã
làm cho từ ngữ tiếng Việt thiếu trong sáng. Ví dụ chỉ kẻ keo kiệt, ki bo thanh
niên học sinh ngày nay hay dùng từ “su su ki”….Ngoài ra còn có nhiều học sinh
chưa nắm chắc nghĩa của các từ, cách dùng từ…
Có thể nói để học sinh viết hoặc nói tốt một văn bản đòi hỏi người nói phải
có vốn từ ngữ phong phú, có năng lực hiểu rõ nghĩa của các từ và sử dụng từ
đúng văn cảnh. Vậy để học sinh đạt được điều đó thì nhiệm vụ đặt ra đối với
mỗi giáo viên ngữ văn là hết sức nặng nề. Bởi giáo viên phải cung cấp các tri

thức về từ ngữ đầy đủ cho các em , bao gồm các khái niệm về cấu tạo từ, về
ngữ nghĩa của từ, về tu từ từ vựng và các quy tắc sử dụng chúng trong hoạt
động giao tiếp. Từ đó có thể thấy tri thức về từ giúp học sinh nắm một cách tự
giác về từ ngữ tiếng Việt hiện đại, vượt lên khỏi trình độ hiểu một cách tuỳ tiện
theo kinh nghiệm ngôn ngữ.
Vậy làm thế nào để các em có thể tiếp thu tri thức về từ ngữ một cách
chính xác và hiệu quả? Qua thực tiễn giảng dạy cũng như qua các tiết dự giờ
đồng nghiệp, bản thân tôi nhận thấy dạy tri thức về từ ngữ thường dùng lối quy
nạp sẽ giúp học sinh hiểu và nắm bắt vấn đề một cách cụ thể nhất.
Bởi theo lối quy nạp này, người học bắt đầu từ sự quan sát, tiếp xúc với
một loạt các sự kiện ngôn ngữ. Qua tiếp xúc đó, qua sự so sánh, đối chiếu họ sẽ
tìm ra được các sự tương đồng hoặc khác biệt, từ đó mà khái quát, tổng hợp
thành khái niệm và các quy tắc ngôn ngữ. Do đó, lối quy nạp rất thích hợp với
lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, khi các em chưa mấy phát triển năng lực trừu
tượng hoá.
Quy nạp trong nhà trường là quy nạp theo sự hướng dẫn của thầy, theo con
đường lô gíc thầy đã biết trước. Cho nên, thầy sẽ chọn những sự kiện ngôn ngữ
có tính trước, những sự kiện có chứa khái niệm cần dạy. Sau đó là những câu
hỏi dẫn dắt học sinh tìm ra khái niệm ngôn ngữ.
Như vậy rõ ràng việc dạy tri thức từ ngữ là vô cùng quan trọng, nó là nền
tảng chất liệu để học văn, cảm thụ văn và sử dụng để viết văn, nên giáo viên
cần chọn phương pháp tối ưu nhất, để học sinh có thể nắm được nội dung và
nắm chắc được kiến thức trọng tâm của phân môn.
2. Tình hình thực tiễn
2.1 Thực tiễn khảo sát trước khi áp dụng đề tài.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình giáo dục phổ thông
-2-


cấp THCS môn Ngữ văn, trong đó có nhấn mạnh đến chương trình từ ngữ

THCS hướng tới ba mục tiêu lớn là:
Cung cấp tri thức khoa học về từ pháp và từ nghĩa để nâng năng lực dùng
từ của học sinh từ tự phát lên tự giác.
Cung cấp vốn từ theo một bảng từ có tính toán gắn với sáu kiểu loại văn
bản được lựa chọn đưa vào chương trình .
Rèn luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặc biệt là sử dụng trong nghe, nói,
đọc, viết sáu kiểu loại văn bản được đưa vào chương trình.
Với tầm quan trọng của các tiết dạy tri thức về từ ngữ đã nói ở trên, có thể
coi những tiết dạy này là những tiết giáo viên có nhiệm vụ cung cấp “nguồn
vốn từ” và kĩ năng sử dụng “nguồn vốn từ ”đó cho các em. Như vậy, lẽ ra các
em phải hào hứng với tiết học, vì tiết học đã giúp các em khám phá những điều
các em chưa biết… Nhưng trên thực tế nhiều học sinh và cả giáo viên vẫn chưa
thật hứng thú với những tiết dạy này, mà cho rằng những tiết dạy tri thức về từ
ngữ là “khô khan “ là”cứng” ít mang chất văn, vì vậy mà vẫn chưa chú trọng
đầu tư nhiều bằng tiết dạy văn bản. Chính điều đó đã dẫn đến một hậu quả lớn
là học sinh còn quá kém trong khả năng sử dụng từ trong cả văn bản nói và
viết. Điều đó cũng tạo nên một nghịch cảnh là các em dù có rất hiểu được nội
dung tác phẩm văn học cũng không có khả năng diễn đạt được rõ ý mình hiểu.
Qua điều tra một số bài kiểm tra viết của học sinh lớp 6A4, 6A8, ở trường
THCSI Sông Đốc đầu học kỳ I năm học 2008- 2009 cho thấy kết quả như sau:
Các lỗi vi phạm trong bài viết
Lớp

Tổng số HS

Lỗi chính tả

Lỗi dùng từ

Lỗi diễn đạt


SLHS

Tỉ lệ

SLHS

Tỉ lệ

SLHS

Tỉ lệ

6A4

40

20

50%

12

30%

12

30%

6A8


39

20

51,3%

10

25,6%

12

30,8%

Rõ ràng qua kết quả điều tra cho thấy, do chưa nắm chắc về tri thức từ ngữ
nên học sinh tỏ ra rất lúng túng trong việc sử dụng từ ngữ để viết bài, lúng túng
trong cách diễn đạt…Vậy nguyên nhân là do đâu?
2.2 Nguyên nhân:
Việc sử dụng từ ngữ ở học sinh còn hạn chế do có rất nhiều nguyên nhân
khác nhau, nó cũng xuất phát từ nhiều phía khác nhau: từ học sinh, giáo viên,
và cả các yếu tố khách quan khác tác động. Song có thể khái quát lại thành một
số nguyên nhân cơ bản sau:
a. Giáo viên sử dụng phương pháp chưa phù hợp với đặc trưng bộ môn,
với nội dung bài giảng.
Chúng ta đã biết để học sinh nắm được nội dung kiến thức bài học phần lớn
phụ thuộc vào sự định hướng dẫn dắt của giáo viên. Vì vậy mỗi giáo viên trước
-3-



khi lên lớp cần soạn giáo án chu đáo, mà đặc biệt là lựa chọn được một phương
pháp phù hợp nhất với nội dung bài giảng. Trong giảng dạy tri thức từ ngữ cũng
vậy, có những đơn vị kiến thức cần khai thác bằng hệ thống câu hỏi diễn dịch,
câu hỏi đối chiếu so sánh, song cũng có những đơn vị kiến thức lại cần được
khai thác bằng phương pháp quy nạp. Song trên thực tế giáo viên vẫn chưa áp
dụng được tốt điều này.
b. Việc dạy học từ ngữ chưa thực sự xuất phát từ những nguyên tắc, cơ
sở của nó.
Có thể dễ dàng nhận thấy, việc dạy tri thức từ ngữ là xuất phát trên cở sở
ngôn ngữ học và cơ sở tâm lý học. Chẳng những thế việc dạy tri thức từ ngữ
còn được tuân thủ theo những nguyên tắc dạy học đặc thù khác như: nguyên tắc
trực quan, nguyên tắc chức năng, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc lịch sử. Song
trên thực tế việc dạy học tri thức từ ngữ của giáo viên chưa thực sự xuất phát từ
những nguyên tắc, cơ sở trên.
c. Học sinh chưa hiểu hết nghĩa của những từ ngữ mình sử dụng, chưa
có kĩ năng sử dụng từ do việc tiếp thu bài còn hạn chế.
Dạy và học là hai hoạt động của một quá trình dạy học. Thầy dạy như thế
nào trò học được như thế ấy. Một bài học kinh nghiệm đã cho thấy có thầy giỏi
mới có trò giỏi. Và vì vậy nếu như thầy chưa có một phương pháp dạy phù hợp
đối với từng bài, từng đơn vị kiến thức thì rõ ràng trò sẽ rất khó tiếp thu bài do
không hiểu được bài giảng của thầy.
d. Học sinh chưa có ý thức trau dồi vốn từ:
Muốn sử dụng tốt từ ngữ Tiếng Việt, trước hết đòi hỏi mỗi học sinh cần
tích cực trau dồi vốn từ. Chúng ta có thể trau dồi vốn từ bằng nhiều cách như:
rèn luyện để nắm được đầy đủ và chính xác nghĩa của từ, cách dùng từ và rèn
luyện để biết thêm từ chưa biết làm tăng thêm vốn từ. Song một thực tế là học
sinh chưa có ý thức trau dồi, tích luỹ vốn từ, nên vốn từ của các em hết sức
nghèo nàn và kĩ năng sử dụng từ cũng còn hạn chế nhiều.
Chính bởi những nguyên nhân trên, bản thân nhận thấy tính cấp thiết cần
phải khắc phục những nguyên nhân trên để đưa học sinh có hứng thú, yêu thích

học phân môn từ ngữ.
3. Các kinh nghiệm đã áp dụng nhằm dạy tốt tri thức từ ngữ theo
phương pháp quy nạp.
3.1. Chọn mẫu ngữ liệu quy nạp
Mẫu ngữ liệu là mẫu lời nói được rút ra từ các văn bản hoặc từ lời nói sinh
động trong giao tiếp.Với chương trình ngữ văn đổi mới, các mẫu ngữ liệu hầu
hết lấy ngay trong các văn bản của bài học. Gọi là mẫu vì đó là những sự kiện
ngôn ngữ được lựa chọn có chú ý làm sáng tỏ khái niệm ngôn ngữ. Một mẫu
chuẩn phải đáp ứng đủ bốn yêu cầu sau:
Thứ nhất, nó chứa đủ các đấu hiệu cơ bản của khái niệm ngôn ngữ cần dạy
trong tiết học.
-4-


Thứ hai nó được rút từ thực tế ngôn ngữ chứ không do người dạy tự bày
đặt ra.
Thứ ba, mẫu phải ngắn gọn và có tần số sử dụng cao trong bài dạy, có thế
mới tiết kiệm thời gian khi dạy, đỡ phải thay mẫu mới. Bởi ngắn thì có thể viết
sẵn vào bảng phụ để mang theo khi lên lớp.
Thứ tư, mẫu phải có tính chân thực sinh động của lời nói giao tiếp. Nói
cách khác mẫu phải có tính chuẩn mực và tính thẩm mĩ cao.
Tôi xin nêu ví dụ về việc chọn mẫu như sau:
Với bài dạy: “Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt”-tiết 3 –Ngữ văn 6 ta có các mẫu
sau:
Mẫu A: Mưa hay nắng, ,gió hay bão, báo Đảng cũng không dừng lại một ngày
nào, một đêm nào, một đêm nào trên những sườn núi mèo cheo leo, hiểm trở và
ẩn hiện trong mây này.(trích Nguyên Ngọc)
Mẫu B: Từ đấy, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngàyTết làm
bánh chưng bánh giày.
Rõ ràng so sánh hai mẫu ta thấy tính sư phạm của mẫu A không cao, vì nó

dài tới 36 âm tiết, chiếm nhiều thì giờ phân tích và viết bảng, lại không mang
tính tích hợp. Trái lại mẫu B đã khắc phục được những nhược điểm của mẫu A,
nó vừa có từ láy, từ ghép, lại ngắn gọn, đặc biệt nó tích hợp được với văn bản
mà các em vừa học là Bánh chưng, bánh giầy. Như vậy qua so sánh ta nên chọn
mẫu B.
3.2. Soạn hệ thống câu hỏi quy nạp
Trước hết đó là câu hỏi quan sát nhằm định hướng sự tri giác đối tượng.
Bắt đầu từ cái đã biết.Ví dụ khi dạy bài “Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt”- tiết 3
– Ngữ văn 6 ta hãy hỏi học sinh từ cái đã học ở bậc tiểu học: đó là “Tiếng”.
* Hãy tìm các từ một tiếng và hai tiếng trong câu sau:
Từ / đấyy /nước /ta/ chăm /nghề / trồng trọt/ chăn nuôi /và / có / tục / ngày /
Tết / làm / bánh chưng / bánh giày
Giáo viên lại hỏi: ? ở bậc tiểu học các em đã học từ đơn, từ phức. Hãy nhắc
lại thế nào là từ đơn, từ phức? Theo em trong những ví dụ ở câu trên từ nào là
từ đơn, từ nào là từ phức?
Với những câu hỏi như thế, học sinh đã được định hướng tri giác ngôn ngữ
từ những cái đã biết.
Thứ hai là dạng câu hỏi phân tích, nghĩa là lật các khía cạnh của đối tượng
để xem xét chi tiết, phải tách ra để giảng giải cho học sinh hiểu. Đây là câu hỏi
quan trọng nhất trong quá trình quy nạp. Bởi nếu không có phân tích chia tách
nhỏ ra để các em hiểu vấn đề thì sẽ không có sự quy nạp. Ví dụ tiếp bài giảng
về“Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt” ta lại có thể sử dụng câu hỏi phân tích sau:

-5-


? Các em hãy cho biết hai từ “Trồng trọt” và”Bánh chưng” chúng có điểm
gì giống nhau và điểm gì khác nhau? Em hãy chú ý đến ý nghĩa của từng tiếng
kết hợp lại với nhau để tìm ra điểm khác nhau?
Với câu hỏi đó học sinh sẽ dễ dàng chỉ ra điểm giống nhau là: đều gồm hai

tiếng; Điểm khác nhau là: “Chưng” có nghĩa chỉ một loại của bánh, trong khi
“Trọt ”không có nghĩa, chỉ giống “Trồng ” ở phụ âm đầu (tr-tr). Từ đó ta sẽ đi
đến sự phân biệt từ ghép với từ láy. Từ ghép là do các tiếng có quan hệ với
nhau về nghĩa ghép lại. Còn từ láylà do một tiếng có nghĩa và một tiếng chỉ
quan hệ với tiếng có nghĩa về âm thanh mà thôi.
Thứ ba đó là dạng câu hỏi tổng hợp, khái quát hoá. Đây là bước chót của
quá trình quy nạp. Sau khi đã quan sát, phân tích, thì ta sẽ nâng lên thành nhận
xét khái quát về đặc điểm của khái niệm ngôn ngữ. Chẳng hạn tiếp bài trên ta
có câu hỏi: Vậy qua quá trình phân tích hãy cho biết thế nào là từ láy? Thế nào
là từ ghép?
Bên cạnh đó giáo viên còn có thể sử dụng câu hỏi đàm thoại theo quy trình
quy nạp – hệ thống câu hỏi khơi gợi. Hệ thống câu hỏi khơi gợi cho người đọc
là hết sức quan trọng, có thể ví như xương sống của bài học. Có thể nói dạy học
ngày nay là dạy bằng cách hỏi chứ không phải bằng cách kể hay giải thích.
Trong câu hỏi lại có nhiều cấp độ, có câu hỏi trực tiếp nêu vấn đề, có câu
hỏi dẫn dắt.
Ví dụ: Từ các câu hỏi gợi mở đến câu hỏi tổng hợp, khái quát (Dạy học
bài Từ láy – Ngữ văn 6, tập một).
Giáo viên đưa ra các từ cho học sinh : li ti, lí nhí, ti hí.
+ Câu hỏi gợi mở 1: Từ li ti thường miêu tả một sự vật có đặc điểm như
thế nào?
( HS : Thưa cô, từ li ti thường miêu tả những sự vật nhỏ bé ạ.)
+ Câu hỏi gợi mở 2: Theo các em, từ lí nhí thường được dùng để miêu tả
sự vật gì và có đặc điểm như thế nào?
( HS trả lời: thưa cô, từ này được dùng để miêu tả tiếng nói và là nói rất
nhỏ ạ.)
+ Câu hỏi gợi mở 3: Theo các em, từ ti hí được dùng để tả sự vật gì và
đặc điểm của sự vật đó là như thế nào ?
( HS : Thưa cô, từ này để tả mắt và mắt này nhỏ ạ.)
+ Câu hỏi gợi mở 4: Các em hãy đặt 3 câu với 3 từ trên .

+ Câu hỏi gợi mở 5: ý nghĩa cảu 3 từ đó có gì giống nhau? Về mặt hình
thức âm thanh, các từ đó có gì giống nhau ?
+ Câu hỏi nêu vấn đề: Vậy các em thấy các từ này có đặc điểm chung gì
về âm thanh và ý nghĩa?
-6-


3.3. Luyện tập thực hành
Ý nghĩa của luyện tập là vừa củng cố khái niệm ngôn ngữ, vừa tổ chức cho
các em vận dụng vào đời sống ngôn ngữ. Vận dụng vào đời sống là mục đích
của học tập và cũng là kiểm tra hiệu quả sư phạm của bài dạy. Luyện tập thực
hành có thể và nên thực hiện đồng thời cùng với dạy học lí thuyết, không nhất
thiết là hết lí thuyết rồi mới luyện tập.
Có nhiều hình thức để thực hành luyện tập tri thức và kĩ năng về từ ngữ.
Song ở trên lớp hình thức làm bài tập là hình thức phổ biến và có hiệu quả nhất.
Các kiểu bài tập thực hành cũng theo phương pháp quy nạp, đó là từ cái dễ đến
cái khó và cái khó hơn nữa. Tóm lại có thể phân thành các kiểu bài tập sau:
Loại bài tập nhận diện :
Dạng bài tập này cần đưa ra một mẫu lời nói hoặc một đoạn văn bản có
chứa đựng hiện tượng từ ngữ (khái niệm hoặc kĩ năng ) cần nhận diện. Ví dụ
khi học bài Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt – Ngữ văn 6-tập một. Thầy có thể
đưa ra một đoạn văn bản :
Mưa tuôn gió thổi mịt mù.
ào ào rừng nọ, ù ù núi kia.
? Em hãy tìm trong hai câu thơ này những từ nào là từ láy?
Nhận diện là loại bài tập đơn giản nhất nhưng có tác dụng làm sáng tỏ,
củng cố và khắc sâu mở rộng hiểu biết về một tri thức từ ngữ nào đó. Loại bài
tập này yêu cầu học sinh phải thông hiểu những tri thức lý thuyết về hiện tượng
từ ngữ vừa học để đối chiếu, so sánh với ngữ liệu mới để phát hiện ra chúng.
Loại bài tập tái hiện:

Bài tập này có mức độ cao hơn bài tập nhận diện, vì không cho các sự
kiện từ ngữ có sẵn, tri giác được mà học sinh phải huy động vốn từ của mình để
tái hiện.
VD : Sau khi học song bài “Từ và cấu tạo của từ tiếng Việt “ Thầy có thể ra câu
hỏi tái hiện: ?Tìm năm từ láy chỉ âm thanh và màu sắc? Học sinh sẽ dễ dàng
tìm được: xanh xanh, đo đỏ, tim tím, róc rách, ầm ầm….
Hoặc: ? Em hãy tìm xung quanh xem có những sự vật nào được gọi tên
bằng một từ đơn, sự vật nào có tên gọi là một từ ghép? Học sinh sẽ chỉ quanh
lớp và trả lời: Sách, bút, bảng, phấn, ghế….-->là từ đơn, còn : bảng đen, ghế
dựa, bút máy, cửa sổ,…..-->là từ ghép.
Cũng có thể hỏi: ? Em hãy tìm những từ láy tả tiếng cười, tiếng khóc của
người? Học sinh sẽ dễ dàng trả lời: Tả tiếng cười: khanh khách, ha hả….; tả
tiếng khóc như: hu hu, thút thít…
Loại bài tập sáng tạo:
Cao hơn các bài tập trên là loại bài tập sáng tạo, tức bài tập vận dụng tri
thức ngôn ngữ vào thực tế giao tiếp ngôn ngữ. Loại bài tập này có thể phân
-7-


thành hai dạng: bài tập sáng tạo một phần và bài tập sáng tạo hoàn toàn.
Ví dụ với bài tập sáng tạo một phần ta có câu hỏi: ? Cho một số từ đơn
hãy ghép lại thành các từ ghép: áo, chăn, gối, tủ, hoa….Học sinh sẽ ghép thành
các từ ghép: áo hoa, chăn màn, chăn gối, tường hoa…
Ví dụ với bài tập sáng tạo hoàn toàn ta có câu hỏi: Em hãy viết một đoạn
văn tả cảnh trời mưa, trong đó có dùng nhiều từ láy, từ ghép?
Vấn đề đặt ra là thầy nên tự ra bài luyện tập, không nhất thiết căn cứ vào
sách giáo khoa. Bài tập do thầy tự soạn bao giờ cũng sát với thực tế học sinh
hơn, sát với ưu điểm, nhược điểm từng địa phương, sát với tình hình cá biệt
từng lớp.
Có thể nói vận dụng phương pháp quy nạp trong dạy tri thức từ ngữ là một

phương pháp giúp học sinh tiếp thu tri thức từ ngữ khá tốt. Song để vận dụng
tối ưu phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải vận dụng đúng chỗ, đúng lúc,
đúng bài thì mới đạt được kết quả tốt.
3.4. Giáo án thể nghiệm
Dựa vào các kinh nghiệm và các giải pháp trên, tôi đã thiết kế một giáo án
thể nghiệm dạy tiết tri thức về Từ ngữ như sau:
Bài 1 - Tiết 3: TỪ VÀ CẤU TẠO CỦA TỪ

TIẾNG VIỆT-NGỮ VĂN 6
I. Mục tiêu cần đạt
Giúp học sinh hiểu thế nào là từ và đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt cụ thể là:
- Khái niệm về từ
- Đơn vị cấu tạo từ (tiếng)
- Các kiểu cấu tạo từ (từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy)
II. Chuẩn bị của thầy và trò
- Giáo viên : chuẩn bị bảng phụ .
- Học sinh : đọc, chuẩn bị bài ở nhà
III. Hoạt động, dạy và học trên lớp
1. Ổn định
2. Kiểm tra
3. Bài mới:
Trong văn nói và văn viết việc sử dụng từ chính xác là rất cần thiết để diễn
đạt nhằm đạt hiệu quả cao. Muốn vậy đòi hỏi người sử dụng từ phải biết lựa
chọn và vận dụng từ trong nói, viết phù hợp...
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung bài học
Hoạt động 1 :
I. Khái niệm về từ :
Hướng dẫn tìm hiểu khái niệm về từ ? * Ví dụ : Thần/ dạy /dân /cách /
GV treo bảng phụ có ghi ví dụ .

trồng trọt / chăn nuô i/ và / cách / ăn
? Câu trên có bao nhiêu tiếng và bao ở.
nhiêu từ ?
- Có 12 tiếng
-8-


- 9 từ (được phân cách = dấu gạch
? Tiếng là gì ?
chéo)
- Tiếng là âm thanh phát ra. Mỗi
? Tiếng được dùng để làm gì ?
tiếng là một âm tiết.
? Từ là gì ?
 Tiếng là đơn vị cấu tạo nên từ
- Từ là tiếng, là những tiếng kết hợp
? Từ được dùng để làm gì ?
lại nhưng mang ý nghĩa
 Từ là đơn vị nhỏ nhất dùng để đặt
? Khi nào 1 tiếng được coi là 1 từ?
câu
Giáo viên cho HS rút ra ghi nhớ thứ - Khi 1 tiếng dùng để tạo câu, tiếng
nhất về từ
ấy trở thành từ.
?Vậy qua phân tích, em hiểu thế nào
* Ghi nhớ :
là từ?
Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng
để đặt câu.
Hoạt động 2 :Hướng dẫn HS tìm II. Từ đơn và từ phức :

hiểu các kiểu cấu tạo từ
*Vídụ:
Giáo viên treo bảng phụ ghi bảng Từ/đấy/nước/ta/chăm/nghề/trồngtrọt
phân loại từ
/chăn
nuôi/và/có/tục/ngày/Tết/làm
? Hãy điền các từ trong câu trên vào /bánh chưng/bánh giầy
bảng phân loại?
Yêu cầu học sinh cần điền được như - Từ đơn : từ, đấy, nước, ta, chăm,
sau :
nghề, và, tục, có, ngày, tết, làm
- Từ láy : trồng trọt
- Từ ghép : chăn nuôi, bánh chưng,
? Dựa vào bảng phân loại, em hãy cho bánh giầy.
biết :
? Từ đơn khác từ phức như thế nào ?
Từ đơn :gồm một tiếng.
Từ phức :gồm hai tiếng trở lên
? Vậy Em hiểu thế nào là từ đơn, thế *Ghi nhớ :
nào là từ phức ?
? Hai từ phức trồng trọt và chăn nuôi  Từ ghép và từ phức giống nhau về
có gì giống và khác nhau?
cách cấu tạo : đều là từ phức gồm 2
Giống: đều gồm hai tiếng.
hoặc nhiều tiếng tạo thành.
Khác: chăn nuôi hai tiếng có quan hệ * Khác nhau:
về nghĩatừ ghép.
- Từ phức được tạo ra bằng cách
Trồng trọt: hai tiếng có quan hệ láy ghép các tiếng có nghĩa với nhau
âmtừ láy.

được gọi là từ ghép
? Cấu tạo của từ láy và từ ghép có gì
- Từ phức có quan hệ láy âm giữa
giống và khác nhau ?
các tiếng được gọi là từ láy.
* Ghi nhớ:
? Cho ví dụ
VD : nhà cửa, quần áo
VD : nhễ nhại, lênh khênh, vất vả
-9-


vất vưởng.
? Vậy em hiểu thế nào là từ láy? thế
nào là từ ghép?
? Giáo viên kết luận những khái niệm
cơ bản cần nhớ - học sinh đọc ghi nhớ
sách giáo khoa
III. Luyện tập
Hoạt động 3 :
Bài tập 1 :
Hướng dẫn học sinh Luyện tập
a) Các từ nguồn gốc, con cháu thuộc
Học sinh làm bài tập theo nhóm .
kiểu từ ghép.
Các nhóm cử đại diện lên trình bày b) Từ đồng nghĩa với nguồn gốc, cội
nguồn, gốc gác
kết quả , các nhóm khác nhận xét .
c) Từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm cậu, mợ, cô dì, chú cháu, anh em.

Bài tập2 :
bài và đưa ra các kết luận.
- Theo giới tính (nam, nữ) : ông bà,
cha mẹ, anh chị, cậu mợ
- Theo bậc (bậc trên, bậc dưới): bác
cháu, chị em, dì cháu
Bài tập 3 :
- Cách chế biến : bánh rán, bánh
nướng, bánh hấp, bánh nhúng
- Chất liệu làm bánh : bánh nếp,
bánh tẻ, bánh khoai, bánh ngô, bánh
đậu xanh.
- Tính chất của bánh : bánh gối,
bánh quấn thừng, bánh tai voi...
Bài tập 4 :
- Miêu tả tiếng khóc của người
- Những từ láy cũng có tác dụng mô
tả đó : nức nở, sụt sùi, rưng rức
Bài tập 5 :Các từ láy
- Tả tiếng cười : khúc khích, sằng
sặc
- Tả tiếng nói : khàn khàn, lè nhè,
thỏ thẻ, léo nhéo...
- Tả dáng điệu
IV.Hướng dẫn học ở nhà
Hoạt động 4:
- Học sinh làm bài tập v ào vở bài
- Hướng dẫn học sinh học bài ở nhà
tập
- Chuẩn bị bài mới.

Tiếng Việt.
- Học sinh thuộc phần ghi nhớ
- Vẽ được sơ đồ cấu tạo của từ Tiếng
Việt theo mẫu (sách bài tập).
- 10 -


III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Kết quả
Thông qua việc áp dụng đề tài giúp cho học sinh hứng thú, yêu thích học từ
ngữ. Cách dùng từ, diễn đạt trong làm văn đã đạt hiệu quả đáng kể. Lỗi chính tả
khắc phục được nhiều... Đặc biệt “cái mặc cảm” về sự khô khan của môn học
Tiếng Việt( phân môn từ ngữ) trong suy nghĩ của các em đã xóa đi. Với tôi đây
là thành công lớn đối với người dạy văn. Điều này được chứng minh cụ thể qua
việc khảo sát học sinh.
2. Chất lượng khảo sát sau khi áp dụng đề tài
Với những kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp quy nạp dạy tri
thức từ ngữ nêu trên tôi đã mạnh dạn áp dụng vào đối tượng học sinh lớp 6A4
và 6A8 năm học 2008-2009 và tôi đã thu được kết quả như sau:
Các lỗi vi phạm trong bài viết
Lớp

Tổng số HS

Lỗi chính tả
SLHS

Tỉ lệ

Lỗi dùng từ

SLHS

Tỉ lệ

Lỗi diễn đạt
SLHS

Tỉ lệ

6A4

40

10

25,0 %

5

12,5%

6

15,0%

6A8

39

9


23,1%

5

12,8%

5

12,8%

Như vậy qua khảo sát thực tế cho thấy cùng là một đối tượng học sinh đấy
nhưng khi áp dụng các kinh nghiệm nói trên các em đã rút được nhiều kinh
nghiệm trong bài viết. Điều đó đã được minh chứng cụ thể qua sự so sánh kết
quả học tập đầu học kỳ I và giữa học kỳ II năm học 2008-2009 của học sinh. Rõ
ràng, do áp dụng những kinh nghiệm trên mà kết quả học tập của các em kỳ sau
tiến bộ rõ rệt so với kỳ trước. Nếu đầu học kỳ I năm học 2008- 2009 lớp 6A4
đang có 20 em phạm lỗi chính tả, 12 em phạm lỗi dùng từ và lỗi diễn đạt thì đến
giữa học kỳ II của năm học, cũng những học sinh này nhưng những lỗi vi phạm
đã giảm rõ rệt chỉ còn 10 em phạm lỗi chính tả và 5 đến 7 em vi phạm lỗi dùng
từ và diễn đạt.
Như vậy thực tế trên đã một lần nữa cho thấy, nếu giáo viên sử dụng đúng
phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến sự tiến bộ trong học tập của học sinh.
3. Bài học kinh nghiệm
Qua việc áp dụng kinh nghiệm vận dụng phương pháp quy nạp vào dạy tri
thức từ ngữ lớp 6 tôi nhận thấy: Để làm tốt được điều đó không phụ thuộc hoàn
toàn vào giáo viên hay học sinh, mà nó phụ thuộc vào cả hai đối tượng, đặc biệt
là giáo viên. Trước hết với giáo viên cần có lòng nhiệt tình, yêu nghề, làm việc
không vì trách nhiệm mà cao hơn nữa là vì nhân cách của một người thầy, vì

những mầm non tương lai của đất nước. Bên cạnh đó giáo viên cũng cần quan
tâm hơn đến các đối tượng học sinh để có một giáo án hợp lý và kích thích
được từng đối tượng học sinh.
- 11 -


Nghề giáo viên là một nghề cao quí nhất trong tất cả các nghề, Bác Hồ
kính yêu đã nói như vậy. Để xứng đáng với câu nói trên, là một giáo viên dạy
ngữ văn tôi chỉ muốn góp một phần nhỏ công sức của mình cho sự nghiệp giáo
dục. Sáng kiến của tôi chỉ là một hạt cát nhỏ trong biển vàng những sáng kiến
của mọi giáo viên nói chung.
Thời gian dành cho việc nghiên cứu đề tài này còn quá ít, chủ yếu là qua
mỗi bài dạy tôi đã suy nghĩ tìm tòi sáng tạo để có một bài giảng hay, học sinh
hiểu bài nhanh hơn và trải qua thực nghiệm sư phạm tôi đã hình thành đề tài
này.
Mặc dù đã rất cố gắng, song với vốn kinh nghiệm ít ỏi của mình nên đề tài
cũng còn nhiều hạn chế. Bản thân tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các đồng nghiệp, để đề tài có tác dụng hơn nữa trong quá trình dạy và học .
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Sông Đốc; Ngày 12 / 10 / 2009
Người viết:

Vũ Thị Hường

PHẦN IV:

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. SGK Ngữ Văn lớp 6-tập I (NXB - GD)
2. Sách GV Ngữ Văn –Tập I (NXB - GD)

3. Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 6- Tập I (NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội)
4. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS chu kì III (2004-2007)

- 12 -



×