Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TÔNG HỢP MỘT SỐ CÂU HỎI MÔN TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188 KB, 15 trang )

Môn triết
Câu 1: Đảng ta khẳng định: “Đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thục tế, tôn
trọng quy luật khách quan…”. Đồng chí hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm trên.
Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam và địa phương đồng chí đang công tác
Trả lời:
1. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Đặc biệt, trước những diễn biến hết sức phức tạp của
tình hình trong nước và thế giới, khi hệ thống XHCN và các đảng cộng sản đang rơi vào tình
trạng khủng hoảng sâu sắc, toàn diện, việc đề ra đường lối đổi mới là yêu cầu rất bức thiết đối với
cách mạng, quyết định sự sống còn của Đảng, đến thắng lợi cách mạng Việt Nam. Một trong
những vận dụng cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà
Đảng đã khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI là nguyên tắc khách quan - một nguyên
tắc được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX
đã viết: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng”. Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức để vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết đối với Đảng viên.
2. Quan điểm của Đảng ta về “Đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thục tế,
tôn trọng quy luật khách quan…” có cơ sở lý luận từ việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức. Theo đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo nguyên tắc:
2.1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.1.1. Vật chất luôn luôn quyết định ý thức
Sự quyết định này được thể hiện ở chỗ: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật
chất là nguồn gốc của ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Chúng ta đều biết, ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
chất thì con người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của
thế giới vật chất. Đó là nguyên nhân vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đề, hoặc là chính
bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất. Cho nên vật chất là nguồn gốc


của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội
dung mà ý thức phản ánh được quyết định bới vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức,
hình thức biểu hiện của ý thức… đều bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội, môi trường
sống quyết định.
2.1.2. Ý thức có sự tác động tích cực trở lại vật chất
Sở dĩ có sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất là do sự tồn tại của ý thức có tính
độc lập tương đối so với vật chất.
Nói đến ý thức là nói đến ý thức của con người cho nên sự tác động của ý thức đối với vật
chất cũng chính là sự tác động của con người đối với thế giới khách quan.
Bản thân ý thức tự nó không thể tác động đến vật chất. Sự tác động của ý thức đến vật chất
phải thông qua những hoạt động thực tiễn của con người. Cho nên bản thân ý thức thể hiện sự tác
1


động đến vật chất là thực hiện sự chỉ đạo mọi hoạt động của con người; trang bị cho con người
những tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở đó con người xác định được mục tiêu, đề ra
phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện… để
thực hiện mục tiêu của mình.
Sự tác động tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có
nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan và con người
thực hiện được sự cải tạo thế giới khách quan; ngược lại, nếu nhận thức của con người không phù
hợp với quy luật khách quan của thế giới thì khi con người hành động sẽ đi ngược lại các quy luật
khách quan và những hành động đó có tác dụng tiêu cực đến thế giới.
Từ mối quan hệ này, quan điểm duy vật biện chứng đã chỉ ra nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người là: phải xuất phát
từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
3. Liên hệ thực tiễn
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì:

vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức
có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật
khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực lượng thực hiện biến khả năng
thành hiện thực đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên
và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất
phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I.
Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không
được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát
từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là “Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Đất nước ta
đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH, Đảng chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi
nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất
nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Mặt khác, cần nhận rõ vai trò tích cực của nhân tố ý thức, tinh thần trong việc sử dụng một
cách có hiệu quả nhất những điều kiện phương tiện vật chất hiện có. Phải phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người để cải tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động
lực hoạt động cho con người bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần
chúng, phát huy dân chủ rộng rãi...
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã tổng kết 10 năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương
pháp, nhiệm vụ cho thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong thời kỳ mới này phải “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
2



phát triển nhanh và bền vững” chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, đồng thời phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát
huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu…”.

Môn triết
Câu 2: Đồng chí hãy phân tích nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Liên hệ sự
vận dụng của nguyên tắc này trong quá trình phát triển lý luận ở Việt Nam
Trả lời:
1. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản, là linh
hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác đã phát hiện ra sức
mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở
mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện
chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến
đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng vì
thế cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai
đoạn lịch sử. Trong quá trình phát triển lý luận ở Việt Nam hiện nay, nguyên tắc này vẫn còn
mang ý nghĩa thời sự sâu sắc. Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua gần 30 năm
đổi mới của Đảng chính là đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta, qua đó làm rõ hơn tính đúng đắn, khoa học
về lý luận xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
2. Về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
2.1.Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý
luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác - Lênin nói chung.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì “Thực tiễn là những hoạt động vật chất có
mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”. Vì vậy, có
thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu
tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài

người. Về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản sau đây: họat động sản xuất vật chất; hoạt động chính
tri - xã hội; họat động thực nghiệm khoa học.
* Về phạm trù nhận thức và lý luận, quá trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là quá trình
nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Trong
đó nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức và giai đoạn cao nhất của
nhận thức là nhận thức lý luận.
Ở trình độ nhận thức lý luận, tư duy đã vượt ra ngoài giới hạn của những tri thức kinh
nghiệm. Lý luận là sự tổng kết, là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn bằng một hệ thống
những khái niệm, phạm trù, những nguyên lý và quy luật phản ánh sự vận động và phát triển của
sự vật mà ta nghiên cứu. Như vậy, lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ
thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ
biến, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
3


2.2. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã chứng minh vai trò to lớn của thực
tiễn đối với nhận thức nói chung và nhận thức lý luận nói riêng. Vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức được biểu hiện trước hết ở chỗ:
a. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình
thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động lực và mục
đích của nhận thức. Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới
được hình thành và phát triển. Thực tế lịch sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu
không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ,
phương tiện tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và tính
qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới khách quan. Ban đầu con
người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích,
tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa... để xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn

cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức,
không có lý luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay hoặc trực tiếp, hoặc gián
tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn cũng chính là quá trình hoàn thiện bản
thân con người. Thông qua thực tiễn, con người phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của
mình. Ph.Ăngghen viết: “Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã coi thường
ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết tự nhiên
mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ yếu
nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát đã phát triển song song với
việc người ta người đã học cải biến tự nhiên”.
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển, được nâng
cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Nhưng bản thân lý luận không có mục đích tự thân. Lý
luận khoa học ra đời vì chúng cần thiết cho hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói một
cách khác, thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Lý luận sau khi ra đời phải quay về phục
vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng.
Lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, đáp ứng được những đòi
hỏi của thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt
ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu
cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên ở nước ta, về kinh
tế thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới… Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề
trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách
quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là
chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên,
cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng: tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa
có tính tương đối. Tính tuyệt đối là ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm

4


nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi gia đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn
thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn không đứng im một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực
tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ
quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở thành những
chân vĩnh viễn, tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những
tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì
vậy, những tri thức được thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục
được bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng
của tiêu chuẩn thực tiễn giúp ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo
thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa
trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
phải liên hệ với thực tiễn, học đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh
chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
b. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận dụng vào
thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận.
Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm
thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao
hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực
tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ nam”
cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý nghĩa lớn lao của lý
luận, Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành “lực lượng vật chất”. Lý luận có
thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ
những phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận

khoa học mà hoạt động của con ngươi nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã
hội, nó vạch rõ qui luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự
tiến hóa xã hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai cấp công nhân có thể vạch ra đường lối,
phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể của mỗi nước một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng
như nhắm mắt mà đi”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh
hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ không khoa học nên lý luận có nguy cơ xa rời
cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận,
V.I. Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là “kim chỉ nam”
cho hành động cách mạng; và lý luận không lại là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý
luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không
có kết quả”. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với
thực tế.
5


Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.
Sự hình thành và triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện tiêu biểu cho sự gắn bó mật
thiết giữa lý luậnvà thực tiễn. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã
hội để xây dựng nên hệ thống lý luận của mình. V.I. Lênin đã nêu một tấm gương sáng về sự phát
triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn mới. Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện nước Nga lúc
đó, V.I. Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) và Người nhận xét: “toàn bộ quan điểm
của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”.
Như vậy, sức mạnh của lý luận là ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực tiễn, được kiểm
nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
3. Sự vận dụng nguyên tắc này trong quá trình phát triển lý luận ở Việt Nam

3.1. Nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
được khẳng định qua thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, nhiều phong trào yêu nước, nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân đã liên tiếp
diễn ra mà tiêu biểu là các phong trào yêu nước do Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu lãnh đạo với
các cuộc vận động “Đông Du”, “Đông kinh nghĩa thục”... nhưng cuối cùng đều không giành được
thắng lợi. Tất nhiên là do hoàn cảnh lịch sử chi phối, nhưng vấn đề cơ bản là do chưa tìm được
con đường đi đúng đắn, hay nói cách khác là chưa có lý luận cách mạng. Cho đến khi Nguyễn Ái
Quốc tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và được ánh sáng soi đường của cách mạng tháng mười
Nga, cách mạng Việt Nam mới thật sự có được con đường đi đúng đắn nhất đó là: “Chỉ có giải
phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Đó chính là sự giải quyết đúng
đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại, nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Chính những lý luận đó đã
dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3.2. Tuy nhiên cũng có lúc Đảng ta mắc phải sai lầm, thiếu tôn trọng nguyên tắc về sự
thống giữa lý luận và thực tiễn, chẳng hạn là đã cho rằng quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho
lực lượng sản xuất, vì vậy đã duy trì kéo dài (từ năm 1960 đến trước khi thực hiện đổi mới 1986)
nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp với hai thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể, phủ nhận vai trò của các thành phần kinh tế khác trong thời kỳ quá độ tiến
lên CNXH. Sự sai lầm trong nhận thức và lý luận đó đã làm kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Tại Đại hội VI của Đảng (12/1986) - đại hội đổi mới - cũng là kết quả của tổng kết thực
tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1976-1986) một cách có lý luận
và đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm. Có thể nói, chính đường lối đổi mới của Đảng cũng là kết
quả tổng kết thực tiễn hơn 10 năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước cũng như tổng kết rút
kinh nghiệm xây dựng CNXH của các nước XHCN khác. Chẳng hạn, đường lối phát triển kinh
tế nhiều thành phần định hướng XHCN được Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung,
hoàn thiện. Đại hội VI coi phát triển kinh tế nhiều thành phần “là một giải pháp có ý nghĩa
chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý”. Tinh thần đó đã được Hội nghị Trung ương 2 (khoá VI) nhất
là Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Hội nghị Trung

ương 6 (khoá VI) xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán, có ý
6


nghĩa chiến lược lâu dài... Năm 1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã ra
Nghị quyết 10 nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn.
Tổng kết quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI về phát triển kinh tế nhiều thành
phần, Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã cụ thể hơn nữa chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần, đặc biệt nhấn mạnh tới định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế nhiều
thành phần: “chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tổng kết thực tiễn 10 năm đổi
mới đã rút ra sáu bài học, trong đó có bài học: “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đây vừa là bài học kinh
nghiệm vừa là sự hoàn thiện, bổ sung, phát triển đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần
định hướng XHCN. Đại hội IX của Đảng (4/2001) tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Đại hội X (4/2006) tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết Đại
hội IX về phát triển kinh tế thị trường đã phát triển thêm đường lối này và đề ra nhiệm vụ hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Đại hội XI (1/2011) tiếp tục tán thành với những định
hướng về thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, nhất trí với những nội dung về giữ vững định
hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Như vậy có thể nói, mỗi kỳ Đại hội là một lần Đảng tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN một cách sâu
sắc hơn, cụ thể hơn, toàn diện hơn cho phù hợp với điều kiện tình hình trong nước và quốc tế.
Không những vậy, Đảng còn luôn tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để chỉ đạo phát triển kinh tế

nhiều thành phần sao cho không chệch hướng XHCN.

Môn triết
Câu 3: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Liên hệ với thực tiễn địa phương
Trả lời:
1. Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, quy luật quan hệ sản
xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) chiếm vị trí đặc biệt
7


quan trọng, là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội. Đó
là quy luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn
hay phù hợp giữa QHSX và LLSX đều có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Đối với nước ta,
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
là một trong những vấn đề quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước. Chính vì vậy, việc nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật này giúp Đảng ta đề ra đường
lối, chính sách, mục tiêu phù hợp, góp phần quan trọng để đạt được những thành tựu to lớn và
trước hết là tạo bước phát triển mới của LLSX và QHSX trong thời kỳ CNH-HĐH.
2. Sự tồn tại của một phương thức sản xuất được quy định bởi sự thống nhất biện chứng
giữa LLSX ở trình độ phát triển nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Sự vận động phát triển
của phương thức sản xuất bị quy định bởi sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX. Như vậy
qua sự tác động biện chứng giữa QHSX và LLSX phù hợp sẽ hình thành một phương thức sản
xuất mới. Phương thức sản xuất chính là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loại người.
2.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó “lực

lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao
động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử
dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất
ra của cải vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản
xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là
“sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình
lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Xét đến cùng, đó
là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong
lịch sử. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát
triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến
đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “LLSX trực tiếp”. Sức lao động đặc trưng
cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học.
Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.

2.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và
tái sản xuất xã hội).
QHSX gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức và quản lý sản
xuất; quan hệ về phân phối sản phẩm lao động xã hội.
QHSX do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX là hình thức xã hội của sản
8


xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn
định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của LLSX. Trong ba mặt của QHSX,
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ

sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức
quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên,
quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có sự ảnh hưởng đến quan
hệ sở hữu
2.3. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn thống nhất với nhau, trong đó lực lượng
sản xuất giữ vai trò quyết định còn quan hệ sản xuất có sự tác động trở lại lực lượng sản xuất
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực
lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ”
cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một
cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát
triển hết khả năng của nó. Quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự tác động trở lại này là do:
Thứ nhất, QHSX có tính độc lập tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng
sản xuất.
Thứ hai, QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong
lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học
và công nghệ…, và do đó tác động đến sự phát triển của LLSX.
Sự tác động này của quan hệ sản xuất diễn ra theo 2 hướng cơ bản: Nếu như QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược
lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách hình thức so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
* Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong sự thống nhất, chuyển hóa và có
sự mâu thuẫn
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn thống nhất trong một phương thức sản xuất.
Tuy nhiên, đặc trưng của lực lượng sản xuất là luôn thay đổi và sự thay đổi của lực lượng sản
xuất đạt đến một trình độ mới, điều này làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích”

của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát
triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức
sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: “Tới một giai đoạn
phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những
quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ
chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
9


Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử
nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ
tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã
hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản nhất.
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì LLSX quyết định QHSX đối với quá trình sản xuất xã hội, cho nên trong hoạt động
thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của LLSX đối với QHSX. Muốn thúc đẩy quá trình sản xuất
xã hội cần phải phát huy vai trò của LLSX; cần phải ưu tiên, mở đường cho LLSX phát triển tối đa.
Vì QHSX có sự tác động tích cực trở lại đối với LLSX (thể hiện thông qua sự phù hợp và
không phù hợp với trình độ LLSX) trong quá trình sản xuất xã hội, cho nên không được xem
thường, bỏ qua vai trò này và cần phải biết phát huy vai trò của QHSX nhằm tạo điều kiện, môi
trường thuận lợi cho LLSX phát triển.
Vì giữa LLSX và QHSX tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa đấu tranh lẫn nhau,
cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn trọng quy luật giúp chúng ta chủ động trong
việc giải quyết mối quan hệ cũng như có những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình sản
xuất xã hội phát triển.

3. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng CNXH
* Trước thời kỳ đổi mới
Chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan khi không tính
đến điều kiện của một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển với LLSX còn thấp, nhưng
lại chủ trương xây dựng QHSX tiên tiến đi trước nhằm mở đường cho LLSX phát triển, xác lập
kiểu “QHSX xã hội chủ nghĩa thống trị” dựa trên chế độ công hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Chính sự nhận thức và vận dụng sai lầm đó đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng năm
1986 chỉ rõ: một trong những nguyên nhân cơ bản của sự khủng hoảng kinh tế xã hội nói chung,
của sự kìm hãm LLSX phát triển nói riêng trong những năm 1976 - 1980 là do trong nhận thức và
hành động, “chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn
tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp
giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX”.
* Trong quá trình đổi mới
Trong khi tiến hành CNH-HĐH đất nước, đặc biệt là qua 10 năm thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã từng bước nhận thức và vận dụng quy luật này ngày
càng rõ và đúng đắn hơn. Đó là chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu; nhiều thành phần kinh
tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Vì vậy đã góp phần quan trọng để “đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng…,
đạt bước phát triển mới cả về LLSX, QHSX”. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp
với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN trong điều kiện của trình độ
phát triển LLSX đa dạng, không đồng đều. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải
10


tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mặt

khác, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa
ngoại lực, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức đúng yêu cầu đó, trong quá
trình đổi mới, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện CNHHĐH để phát triển LLSX như: xác định rõ vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước
cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư
nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển…, tạo cơ sở củng cố, từng bước hoàn thiện QHSX mới.
Mục đích của việc xây dựng QHSX, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá
trình CNH, HĐH là nhằm khai thác các lợi thế tiềm năng trong và ngoài nước, các thành phần
kinh tế vào phát triển kinh tế xã hội, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể khẳng định, đó là thành tựu nổi
bật nhất của sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
4. Liên hệ địa phương Bình Định
Ở Bình Định, sau gần 30 năm xây dựng và phát triển, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng
bộ lần thứ XVIII (2010 - 2015), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh đã đoàn kết, nỗ lực phấn
đấu thực hiện nghị quyết, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Kinh tế phát triển
tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá, hiệu quả và sức cạnh tranh được nâng lên. Cơ cấu
thành phần kinh tế chuyển biến tích cực. Công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước địa
phương được chú trọng và đang tiếp tục phát triển. Kinh tế tập thể có bước phát triển trong lĩnh
vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, vận tải. Khu vực kinh tế quốc doanh và kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của
tỉnh…
.

Môn triết

Câu 4: Đồng chí hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận của nó trong việc xây dựng ý thức xã hội XHCN ở nước ta và
địa phương đồng chí đang công tác.

Trả lời:
1. Nếu như cách giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại là tiêu chuẩn để xác
định lập trường triết học là duy tâm hay duy vật, là khả tri hay bất khả tri, thì đối với lịch sử xã
hội, mối quan hệ giữa TTXH và YTXH cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học duy vật về lịch
11


sử. Triết học trước Mác, các học thuyết triết học hoặc không đánh giá đúng vị trí của vấn đề này
hoặc trả lời nó theo lập trường của chủ nghĩa quy tâm. Chỉ đến C.Mác và Ph. Ăngghen, một cuộc
cách mạng trong tư tưởng triết học mới được thực hiện. Các ông đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên triệt để bằng việc làm sáng tỏ nguyên lý TTXH là tính thứ nhất, YTXH là tính thứ hai, TTXH
quyết định YTXH, mặt khác, YTXH cũng có tính độc lập tương đối của nó. Với việc vạch ra
phạm trù TTXH, các ông đã xem xã hội như một hình thái phát triển cao nhất của vật chất, do
vậy, đã đem lại tiêu chuẩn khách quan cho việc xem xét các hình thái YTXH.
2. Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội.
Trong các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương thức sản xuất là nhân tố cơ bản vì
nó có ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý thức xã hội và nó làm thay đổi ý nghĩa của
hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng,
cùng những tình cảm, tâm trạng… nảy sinh từ TTXH và phản ảnh TTXH trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.
YTXH là một hiện tượng phức tạp, tùy theo góc độ xem xét, người ta có thể phân YTXH
thành: ý thức thông thường và ý thức lý luận; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
3. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng: đời sống tinh thần của xã hội hình thành và
phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội
trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong chính hiện
thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không giải thích được nếu chỉ căn cứ
vào ý thức thời đại đó. C.Mác viết: “Không thể nhân định được về một thời đại đảo lộn như thế,

căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của
đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ
sản xuất ấy”
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã
hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Nghĩa là tồn tại xã hội quyết định nội
dung phản ánh của ý thức xã hội: nó quyết định ý thức xã hội ở sự nghèo nàn, phong phú hay đơn
điệu trong nội dung phản ánh. Tồn tại xã hội cũng quyết định tính chất cách mạng hay phản ánh
cách mạng, đối kháng hay không đối kháng trong ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất
là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính
trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuật… sớm hay muộn cũng thay đổi theo. Cho
nên, chúng ta thấy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã
hội khác nhau thì đó chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Điều đó chứng tỏ: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã
hội của họ quyết định ý thức của họ”.
Triết học Mác Lênin với quan điểm về nguồn gốc ý thức không chỉ dừng lại ở chỗ xác
định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội mà còn chỉ ra rằng: tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, không phải một cách đơn giản, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung
gian. Không phải bất cứ tư tưởng quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ
ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, chỉ khi nào xét đến cùng thì mới thấy rõ
những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
12


Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là
phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết học Mác Lênin không xem ý thức xã hội
như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại còn nhấn mạnh sự tác động tích cực trở lại của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn
tại xã hội.
4. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
4.1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

Tính “thường lạc hậu” của ý thức xã hội nên hiểu theo nghĩa: ý thức xã hội thường ra đời
sau khi tồn tại xã hội đã ra đời và thường mất đi sau khi tồn tại xã hội đã mất đi.
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu, nhưng ý thức
xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của ý thức xã hội thể hiện rõ nhất
trong lĩnh vực tâm lý xã hội: trong truyền thống tập quán, thói quen… V.I. Lênin cho rằng sức
mạnh tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất. Khuynh hướng lạc hậu
của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng
ý thức có nguyên nhân sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội mới như lối sống
ăn bám, lười lao động, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân… Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không
mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng
cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các thế
lực thù địch về mặt tư tưởng. Đồng thời kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ kết hợp với phát
huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc.
4.2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thì
đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó
có thể dự báo được tương lai, có tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người,
hướng hoạt động của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của đời
sống vật chất tạo ra.
Sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa Mác Lênin là một minh chứng. Chủ nghĩa Mác Lênin là
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ
XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ nghĩa tư
bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa
cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Triết học Mác Lênin khẳng định tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội không có
nghĩa nói rằng trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư
tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh sâu sắc tồn tại xã hội.
4.3. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình vì kế thừa là qui luật chung của

các sự vật, hiện tượng nên trong quá trình vận động của ý thức xã hội nó cũng phải có tính kế
thừa. Mặt khác, sự tồn tại, phát triển của ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội
cũng có tính kế thừa, nó vận động liên tục nên ý thức xã hội cũng phản ánh quá trình đó, nó có
tính kế thừa.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm lý luận
của mỗi thời đại không nảy sinh trên mặt đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa
13


những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Ví dụ, chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa tinh hoa tư
tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, nền kinh tế
chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính giai cấp của nó.
Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các
giai cấp tiên tiến kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
Chính vì thế, nên khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức xã hội thì
không những phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản
động trong điều kiện hiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của nó trong lịch sử.
4.4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện nữa của tính độc
lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội. Sự tác động qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có những mặt, những tính chất không thể giải thích
được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất. Lịch sử phát triển của
ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những
hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến cách hình thái ý thức khác.
Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu
thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như triết
học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại
đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị có vai trò đặc

biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều
hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
4.5. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Ph. Ăng ghen đã khẳng định “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật…đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng
lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.” Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển
của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh tế
mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng vào mức độ
phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội, vào mức độ thâm nhập của
tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức
của tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
Như vậy, nguyên lý của triết học Mác - Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội
nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Đây cũng là cơ sở lý luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc
kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, và con người mới trong thời kỳ quá độ
đi lên CNXH.
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã
hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên
cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ
bản nhất để thay đổi ý thức xã hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong
14


tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà
ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích

cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn
hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần
của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông
truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa
cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ chí kim trên
cơ sở thế giới quan Mác xít. Người nhấn mạnh: “Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp qui luật
của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản,
xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Nắm vững nguyên lý về tính kế thừa của ý
thức xã hội có một ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực
văn hóa, tư tưởng. Trong kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định:
“Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.”
6. Liên hệ địa phương Bình Định

15



×