Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

GHG kiểm kê khí nhà kính khu vực chăn nuôi gia súc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.95 KB, 4 trang )

Một cách tiếp cận nhằm nâng cao độ tin cậy của kiểm kê khí nhà kính khu vực chăn nuôi gia súc Việt
Nam

Chăn nuôi gia súc là một trong các tiểu khu vực sản sinh khí nhà kính chủ yếu của ngành nông nghiệp.
Khí nhà kính (KNK) bao gồm khí CH4 và N2O được phát thải thông qua quá trình tiêu hóa thức ăn, thải
phân và lưu giữ chất thải của gia súc.
Do nhu cầu phát triển trong tiêu dùng và xuất khẩu, đàn gia súc của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ,
lượng phát thải KNK của chăn nuôi gia súc cũng tăng nhanh. Theo tính toán trong Thông báo quốc gia 2
(2010) năm 2000 lượng phát thải KNK của chăn nuôi là 11,2 triệu tấn CO2 tương đương, chiếm tỉ trọng
17% lượng phát thải khu vực nông nghiệp, thì đến năm 2020 là 22 triệu tấn CO2tđ, năm 2030 đạt tới 27
triệu tấn CO2tđ, tăng lên gần gấp 3 lần so với năm 2000, chiếm tỉ trọng 36% lượng phát thải KNK khu
vực nông nghiệp.
Kiểm kê KNK chính sát khu vực chăn nuôi trở thành vấn đề cấp bách và thiết yếu trong nội dung kiểm kê
KNK quốc gia cũng như phát triển các dự án giảm nhẹ KNK.
Từ trước đến nay, việc tính toán kiểm kê KNK tiểu khu vực này của Việt Nam vẫn dựa trên cơ sở là các
hệ số phát thải (HSPT) mặc định do IPCC đưa ra, mà không có các HSPT riêng theo đặc tính của đàn gia
súc quốc gia, do vậy độ tin cậy của kết quả tính toán không cao. Mặt khác, việc sử dụng các HSPT mặc
định của IPCC sẽ rất khó đáp ứng yêu cầu về “ Báo cáo được, Đo đạc được và Xác minh được- viết tắt là
MRV” khi thực hiện dự án giảm nhẹ KNK.
IPCC luôn khuyến cáo các nước xây dựng các HSPT của quốc gia mình, nhất là đối với các quốc gia có
nền kinh tế chuyển đổi và khu vực chăn nuôi được đánh giá là nguồn phát thải chính (key source) như
Việt Nam. Hơn nữa, thực thi chương trình giảm nhẹ KNK tự nguyện đối với chăn nuôi gia súc có yêu cầu
tài trợ của quốc tế cũng phải xây dựng hệ thống kiểm kê KNK chính sát trên cơ sở các HSPT theo điều
kiện và hoàn cảnh của quốc gia.
Nghiên cứu này đưa ra các tính toán xây dựng HSPT quốc gia và kiểm kê KNK cho chăn nuôi đàn bò, trâu
theo các HSPT nói trên. Đàn bò, trâu cũng là đàn gia súc sinh ra lượng KNK chiếm tỉ lệ gần 70% lượng
KNK trong chăn nuôi của Việt Nam.
1. Phương pháp luận:
1.1 Sử dụng phương pháp luận của IPCC về kiểm kê KNK khu vực chăn nuôi (Tier 2). Trong đó, Hệ số
phát thải (HSPT) của tiêu hóa thức ăn gia súc là biến số của GE(Tổng lượng năng lượng gia súc cần cho
quá trình duy trì, sinh trưởng, ra sữa, kiếm thức ăn, sinh sản, lao tác…, đơn vị tính là MJ/gia súc/ ngày ).


Hệ số phát thải (HSPT) của chất thải gia súc là biến số của GE và MS% (tỉ lệ % chất thải gia súc theo các
loại kiểu thu gom).
1.2 Các số liệu đầu vào xây dựng HSPT và số liệu hoạt động cho kiểm kê KNK được thu thập, đánh giá,
kiểm tra so sánh từ các nguồn thông tin của các Cơ quan Nhà nước (Cục Chăn nuôi, Bộ NN&PTNT), các
Viện nghiên cứu như Viện Chăn nuôi, Viện Chiến lược và Phát triển NN&NT và các Trung tâm Nghiên cứu
khác. Nguồn số liệu từ FAO cũng được sủ dụng tham khảo.
1.3 Sau khi xây dựng các HSPT của quốc gia, tiến hành tính toán kiểm kê KNK của chăn nuôi trâu bò Việt
Nam. So sánh kết quả này với các kết quả tính toán KNK sử dụng các HSPT mặc định của IPCC.


2. Kết quả
2.1 Số liệu hoạt động về đàn gia súc trâu bò.
Sau khi có số liệu về số lượng(đầu,con)gia súc trâu, bò của năm kiểm kê, những số liệu chi tiết sau được
thu thập và phân tích:
- Phân đàn gia súc (Sub-categories). Đàn trâu bò được phân chia các phân đàn: Bò sữa, bò thịt trưởng
thành, bê, trâu trưởng thảnh và nghé.
-Đối với mỗi phân đàn, số liệu về trọng lượng (kg), cách thức nuôi dưỡng, tỉ lệ sinh sản, lượng sữa, tỉ lệ
mỡ sữa, số giờ lao tác, tỉ lệ tiêu hóa… của gia súc được thu thập, phân tích.
-Đồng thời số liệu về cách thức thu gom, quản lý chất thải gia súc được thu thập, đánh giá.
Bảng 1: Số liệu đặc tính đàn gia súc

Chú ý: Năm 2008, lượng sữa TB ngày của đàn bò sữa là 5,1 l/ngày/đầu.
2.2 Một số hệ số trong tính toán như hệ số duy trì, tiêu hóa, sinh sản, sinh trưởng, chỉ số chuyển đổi và
tiềm năng sản sinh mê tan…đã được sử dụng rộng rãi trong các tính toán phát thải sẽ được áp dụng
trong nghiên cứu này.
2.3 Hệ số phát thải: Trên cơ sở số liệu bảng 1, đã tính toán HSPT về tiêu hóa thức ăn và chất thải gia súc
của phân đàn bò và trâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Đàn bò Việt Nam mặc dầu đã được lai tạo giống
và cung cấp thức ăn khá tốt, tuy nhiên do trọng lượng đàn bò sữa, bò thịt và sản lượng sữa còn thấp
hơn so với các nước trong khu vực, vì vậy HSPT tiêu hóa thức ăn cũng có xu thế thấp hơn so với các
HSPT của IPCC đề suất cho các nước trong khu vực khoảng 3-5%. Riêng thành phần đàn bò thịt với

khoảng 70% là bò vàng địa phương, trọng lượng đàn thấp, tỉ lệ tăng trọng không cao, do đó HSPT cũng
có giá trị thấp hơn hẳn so với HSPT mà IPCC đễ ra. Đàn trâu cũng có tính trạng tương tự tuy nhiên sự sai
khác không lớn như sự sai khác về HSPT của đàn bò thịt.


HSPT của chất thải phụ thuộc chủ yếu vào hình thức lưu giữ chất thải gia súc, nhìn chung sự lưu giữ
phân thải trâu, bò của Việt Nam phục vụ làm phân bón cây trồng dưới dạng khô hay ướt không lớn, số
phân thải trên bãi chăn thả còn chiếm một tỉ lệ đáng kể, do vậy HSPT nhìn chung thấp hơn so với HSPT
do IPCC cung cấp.
2.4 Kiểm kê tính toán lượng phát thải KNK đàn bò trâu năm 2000 và 2008.
Kiểm kê KNK đàn trâu bò năm 2000 đã được tính toán trong Thông báo quốc gia 2, căn cứ các HSPT của
IPCC cho khu vực Châu á; kết quả trên sẽ được so sánh với kiểm kê KNK được tính toán sử dụng các
HSPT của nghiên cứu này (bảng 2). Số liệu bảng 2 cho thấy nếu tính theo các HSPT của IPCC thì lượng
KNK của đàn trâu bò năm 2000 có trị số cao hơn so với tính toán theo HSPT trong nghiên cứu này là 59
nghìn tấn CH4, tương đương với 1,2 triệu tấn CO2. Lượng chệnh lệch này so với lượng phát thải của đàn
gia súc trâu bò là 19,5%.
Bảng 2: Lượng phát thải KNK của đàn trâu bò năm 2000, tính theo HSPT của IPCC và HSPT của nghiên
cứu này

Đơn vị: Nghìn tấn CH4

Chúng tôi cũng đã tính toán lượng phát thải KNK của đàn trâu bò năm 2008 theo HSPT của IPCC và
HSPT của nghiên cứu này, kết quả cho thấy: lượng phát thải của đàn gia súc trâu bò với HSPT được tính
trong nghiên cứu này có trị số nhỏ hơn so với kết quả tính toán sử dụng HSPT của IPCC là 94 nghìn tấn
CH4, tương đương với 1,97 triệu tấn CO2. Chênh lệch của phát thải do tính toán theo hai HSPT khá lớn,
tới 22% so với lượng phát thải KNK của trâu bò năm 2008.
3. Kết luận và đề nghị:
-Là một trong các nguồn chính của phát thải KNK quốc gia, khu vực chăn nuôi gia súc cần được xây dựng
các HSPT căn cứ đặc tính đàn. Kết quả nghiên cứu ban đầu này khẳng định việc sử dụng các HSPT mặc
định của IPCC trong tính toán phát thải KNK khu vực chăn nuôi là chưa sát thực với điều kiện và hoàn

cảnh chăn nuôi của Việt Nam. Nếu sử dụng HSPT này, sẽ dẫn đến độ không chắc chắn khá cao trong
kiểm kê KNK khu vực chăn nuôi.
-Với đặc tính riêng của đàn trâu bò Việt Nam, HSPT cho tiêu hóa thức ăn gia súc và chất thải của trâu bò
Việt Nam nhìn chung thấp hơn so với HSPT được đề xuất của IPCC cho khu vực Châu á.
-Số liệu hoạt động cần thiết cho tính toán kiểm kê KNK trong chăn nuôi gia súc cón rất thiếu thốn và
chưa thu thập một cách hệ thống, đăc biệt là các số liệu đặc tính đàn gia súc còn không đầy đủ. Cần


được tiếp tục khảo sát, nghiên cứu đánh giá thu thập một cách hệ thống tiến tới xây dựng HSPT hoàn
chỉnh.

KS. Nguyễn Mộng Cường và PGS. Nguyễn Khắc Tích
TT NC Biến đồi Khí hậu và Phát triển Bền vững



×