Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Các tư tưởng đức trị của Khổng Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.82 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hơn 15 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực đời sống xã
hội, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị XHCN, xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhận thức rõ yêu cầu đó, đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ chủ
yếu để thực hiện quỳen làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật".
Trong quá trình kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, việc kế thừa có chọn lọc những tư
tưởng và học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Bởi vì những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở phương
Đông và phương Tây, đều là sản phẩm trí tuệ con người, đã được kiểm
nghiệm qua thực tiễn lịch sử. Chúng có giá trị nhất định trong việc giúp
chúng ta tìm ra những giải pháp hữu hiệu để xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, tư
tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và đức trị Khổng Tử là một trong những tư
tưởng chính trị - xã hội nổi bật trong thời kỳ Trung quốc cổ đại, đã để lại
nhiều kinh nghiệm lịch sử to lớn đối với quá trình thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật của nhà nước.

1


CHƯƠNG I: Các tư tưởng đức trị của Khổng Tử và pháp trị của Hàn


Phi Tử.
I, Giá trị tư tưởng đức trị của Khổng Tử.
1, Thân thế sự nghiệp.
Khổng Tử (551- 478 TCN) . ông sinh ra trong một gia đình quý tộc nghèo,
sa sút ở nước Lỗ; đã từng coi trâu, dê, giữ kho, làm quan đến chức Đại tư
khấu. Do không được trọng dụng ông cùng học trò đi sang các nước chư hầu
khác, muốn áp dụng thuyết của mình vào trị nước. Sau 14 năm không thành,
ông đành quay về quê viết sách dạy học. Ông san định các bộ kinh: Thi, Thư,
Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu.
2, Nội dung cơ bản tư tưởng đức trị của Khổng Tử.
- Quan niệm về Đức là cơ sở quan trọng tạo nên tư tưởng đức trị của Khổng
Tử. Khổng Tử coi đức là gốc của con người, coi hiếu đễ là gốc của đức.
Quan niệm về "đức" của Khổng Tử trong "Luận ngữ" rất sâu sắc và phong
phú. Đức không chỉ là thiện đức mà chủ yếu là hành động, là lời nói đi đôi
với việc làm. Khổng Tử quan niệm đức với tài phải đi đôi với nhau, nhưng
đức phải là gốc. Lòng tin mãnh liệt vào thiện đức của con người chính là cơ
sở của đường lối đức trị Khổng Tử.
Khổng Tử là một nhân vật lớn ảnh hưởng tới diện mạo và sự phát triển của
một số dân tộc. Ở Tổ quốc ông Khổng học có lúc bị đánh giá là hệ tư tưởng
bạo thủ của những người chịu trách nhiệm về sự trì trệ về mặt xã hội của
Trung Quốc. Ở những nước khác trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapor… Khổng giáo lại được xem xét như một nền tảng văn hoá tinh thần
tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá các quốc gia theo
mô hình xã hội ''ổn định, kỷ cương phát triển''.

2


Sống trong một xã hội nông nghiệp, sản xuất kém phát triển vào cuối đời
Xuân Thu, đầy cảnh ''đại loạn'', ''vô đạo'', bản thân đã từng làm nhiều nghề

''bỉ lậu'' rồi làm quan cai trị Khổng Tử nhận thức được nhu cầu về hoà bình,
ổn định trật tự và thịnh vượng xã hội và mọi thành viên.
Ông không phải là một nhà cách mạng từ dưới lên trên, ông chỉ muốn thực
hiện những cải cách xã hội từ trên xuống, bằng con đường ''Đức trị''.
Xã hội lý tưởng mà Khổng Tử muốn xây dựng là một xã hội phong kiến có
tôn ti, trật tự. Từ Thiên Tử tới các chư hầu lớn nhỏ, từ quý tộc tới bình dân ai
có phận nấy, đều có quyền lợi và nhiệm vụ sống hoà hảo với nhau, giúp đỡ
nhau, nhất là hạng vua chúa, họ phải có bộn phận dưỡng dân, lo cho dân đủ
ăn đủ mặc, và bổn phẩn giáo dân bằng cách nêu gương và dậy lễ, nhạc, văn,
đúc, bất đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở và hình
mẫu, trọng hiếu để, yêu trẻ kính già. Mọi người đều trọng tình cảm và công
bằng, không có người quá nghèo hoặc quá giàu; Người giàu thì khiêm tốn,
giữ lễ, người nghèo thì lạc đạo.
- Học thuyết Nhân trị của Khổng Tử cũng là một học thuyết quản lý xã hội
nhằm phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người, lãnh đạo-cai trị họ
theo nguyên tắc Đức trị: Người trên noi theo, kẻ dưới tự giác tuân theo.
+ Về đạo Nhân:
'' Nhân là yêu người''. Nhân là giúp đỡ người khác thành công. Nhưng
Khổng Tự không nói đến tính nhân chung chung ông coi nói như đức tính cơ
bản của nhà quản lý. Nhân là Nhân đạo coi người như mình, giúp đỡ người
khác, sống không làm hại người khác, sống ngay thẳng, sống có đạo đức.
+ Lễ:
Là quy tắc chuẩn mực ứng xử của mỗi người trong xã hội.

3


Cai trị bằng lễ, vì lễ quy định danh phận thứ bậc mọi người trong xã hội,
điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ giao tiếp. Tất cả mọi người phải
đối xử với nhau theo lễ.

+ Chính danh:
Là xác định danh phận, vị trí mọi người trong xã hội. Mội người phải làm
tròn bổn phận vai trò, trách nhiệm của mình theo thứ bậc quy định. Không
tranh giành chiếm đoạt ngôi thứ của nhau. Danh phải phù hợp với thực,
''danh có chính ngôn mới thuận''.
Chỉ người cẩm quyền mới có nhân, họ thường xuyên phải tu dưỡng bản
thân, tuân theo lễ, nêu gương sáng để cai trị thiên hạ, cảm hoá mọi người.
Xây dựng thể chế nhà nước lý tưởng theo mô hình nhà Tây Chu trước đây:
Vua sáng, tôi hiền; Vua quan tâm, chăm sóc dân như cha đối với con.
II- Gíá trị tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử.
1, Thân thế sự nghiệp.
Ông (230-233 TCN) là công tử nước Hàn, dâng sách cho vua Hàn cách làm
cho đất nước hưng thịnh nhưng không được trọng dụng. Trong thời gian đi
sứ nước Trần được Tần Thuỷ Hoàng đánh giá cao.
2, Nội dung tư tưởng pháp trị.
Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị đã phân tích những ưu điểm, hạn
chế của Quản Trọng, Ngô Khởi, Bạch Lý Hề, Thận Đáo và tổng kết, hoàn
thiện thành học thuyết pháp trị của mình. Học thuyết đó dựa trên 3 nội dung
cơ bản ''pháp, thuật, thế''.
Ông đồng tình với Tuân Tử cho rằng, con người ta có tính ác, nhưng lý giải
về vấn đề lợi ích. Việc cai trị phải căn cứ vào lợi ích để thưởng hay phạt.

+ Pháp:
4


Luật do vua ban ra, trăm quan giám sát, nhân dân thực hiện. Luật phải đúng
đắn phù hợp, công khai trên dưới đều biết. Tất cả cứ đúng mực thước, đúng
pháp luật mà làm thì xã hội sẽ ổn định.
+Thuật:

Là nghệ thuật, thủ thuật trị nước vua phải luôn cảnh giác với người xung
quanh, biết sử dụng người đúng lúc, đúng chỗ, đúng khả năng; Vua phải sáng
suốt, không để lộ sự yêu ghét để quần thần lợi dụng.
Dùng thuật để biết rõ người ngay kẻ gian, để điều khiển bề tôi.
thực chất đó là thủ đoạn của người làm vua để điều khiển các quan lại, phải
giữ gìn pháp luật và tuân theo mệnh lệnh.
+Thế:
Là uy thế quyền lực của người làm vua. Vua phải triệt để sử dụng quyền
của mình để trị nước.
Quyền lực phải tập trung tuyệt đối vào tay nhà Vua, không được trao quyền
cho bất cứ ai, phải dùng pháp luật để củng cố quyền lực.
Nếu chỉ có pháp luật và thuật mà thiếu quyền lực (thế) để cưỡng bức thì
cũng không thể cai trị được.
+ Pháp, thuật và thế có quan hệ chặt chẽ cho nhau, bổ sung cho nhau, trong
đó pháp là trung tâm, thuật và thế là điều kiện để thực hành pháp luật.
+ Thưởng, phạt là công cụ để thi hành pháp luật. Phạt nặng để răn đe kẻ xấ,
thưởng hậu đê khuyến khích, động viên mọi người làm việc. Thưởng, phạt
nghiêm minh, thoả đáng mới bảo vệ được pháp luật.
+ Phủ nhận thần quyền.
- Hạn chế:
Lý luận về quyền lực nhà nước (thế) chỉ là cái đặt ra để bảo vệ người giàu,
giai cấp địa chủ mới.

5


Không chỉ nhìn thấy khía cạnh vụ lợi, không thấy được lý tưởng cao đẹp và
sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng của những người có tâm có đức.
Quá tuyệt đối hoá pháp luật, không thấy được những công cụ khác kết hợp
để trị nước, như đạo đức.

CHƯƠNG II: Vận dụng Đức trị, Pháp trị của Khổng Tử và Hàn Phi
Tử vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong hơn 10 năm trở lại đây thực tiễn đất nước nói chung, quá trình cải
cách hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước, tăng cường pháp
chế XHCN nói riêng, đã và đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Vì vậy đã
xuất hiện những công trình khoa học nghiên cứu về nhà nước và quản lý nhà
nước trong nền kinh tế thị trường về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật
XHCN, về cải cách bộ máy hành chính nhà nước…
Tuy nhiên việc nghiên cứu kế thừa tinh hoa và học thuyế chính trị xã hội
của nhân loại trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN còn nhiều hạn chế. Các nhà khoa học mới dừng lại ở việc nghiên cứu
từng vấn đề củ thể theo hai hướng chính.
+ Nghiên cứu tập trung vào quá trình cải cách nhà nước.
+ Hướng nghiên cứu hoặc dichn thuật tập trung vào nội dung các tư tưởng
chính trị-xã hội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng những vấn đề hoặc
về quá trình cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới: hoặc về những tư tưởng chính trị, pháp lý trên thế giới trong lịch sử.
Do vậy, việc kế thừa theo hai hướng nghiên cứu trên sẽ mang lại những ý
nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn nhất định cho việc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.

6


Vận dụng những ưu điểm của Đức trị và Pháp trị vào xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Lấy những mặt tích cực làm tiền đề,
hiện nay chúng ta đang chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,
đòi hỏi phải nấng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, đồng thời nang cao
trình độ làm luật của quốc hội. Trong pháp trị của Hàn Phi Tự chúng ta nên

vận dụng những yếu tố pháp và thuật vì nó phù hợp với xã hội hiềnh nay đó
là điều kiẹn để thực hành pháp luật, ngoài ra phải hạn chế về Thế vì nó chỉ
phục vụ cho những người có quyền lực. Quan niệm về Đức là cơ sở quan
trọng tạo nên tư tưởng đức trị của Khổng Tử. Khổng Tử coi đức là gốc của
con người, coi hiếu đễ là gốc của đức. Quan niệm về "đức" của Khổng Tử
trong "Luận ngữ" rất sâu sắc và phong phú. Đức không chỉ là thiện đức mà
chủ yếu là hành động, là lời nói đi đôi với việc làm. Khổng Tử quan niệm
đức với tài phải đi đôi với nhau, nhưng đức phải là gốc. Lòng tin mãnh liệt
vào thiện đức của con người chính là cơ sở của đường lối đức trị Khổng Tử.
Những yếu tố Đức trị của Khổng Tử chúng ta nên áp dụng những mặt tích
cực như học thuyết nhân lễ chính danh để xây đựng nhà nước lý tưởng hiện
nay.

7


CHƯƠNG III: Kết Luận.
Những phân tích trên cho thấy trong thực tiễn để xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN pháp trị và Đức trị cần phải có sự kết hợp, sử dụng rộng rãi thi
hành. Kết luần của thực tiễn quản lý mấy năm trước của Trung Quốc đối với
hôm nay và có ý nghĩa răn bảo . Không chỉ Trung Quốc, ngay ở Nhật Bản,
giới xí nghiệp trong tổng kết thực tiễn, cũng rút ra như vậy. Nhà xi nghiệp
nổi tiếng đương đại Songxia nói: ''Là một nhà lãnh đạo, đối với ân uy phải
phối hợp vận dụng được''; ''ân uy kiêm sử dụng, rộng nghiêm thoả đáng, mới
có thể giúp nhau cùng hoàn thành thu hiệu quả một công đôi việc''.

8


CHƯƠNG IV: Tài liệu tham khảo.

1. Tập bài giảng của giảng viên Phạm Thị Thuý Hồng.
2. Cuốn hỏi đáp chính trị học GSTS Dương Xuân Ngọc, TS Lưu Văn
An, NXB lý luận chính trị Hà Nội 2007
3. Khổng Tử-tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn của Hoàng Nha Phương
NXB văn hoá thông tin.
4. Hàn Phi Tử trong tập Lương Sơn Thư Quán, Tác giả: Nguyễn Hiến
Lê & Giản Chi.

9


PHỤ LỤC
Lời mở đầu …………………………………………………………..1
Chương I: Các tư tưởng đức trị của Khổng Tử và pháp trị của Hàn Phi
Tử. ………………………………………………………….……….2
CHƯƠNG II: Vận dụng Đức trị, Pháp trị của Khổng Tử và Hàn Phi
Tử vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam………………………………………………………...6
CHƯƠNG III: Kết luận………………………………………………8
CHƯƠNG IV: Tài liệu thanm khảo………………………………….9

10



×