Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bài văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về một bài thơ hoặc một nhà thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.1 KB, 16 trang )

Bài viết văn số 1 lớp 10
Đề 5: Cảm nghĩ về một bài thơ hoặc một nhà thơ.
- Hướng dẫn chung:
Cảm nghĩ về một bài thơ là cảm nghĩ về những nét độc đáo trong sáng tạo của
người nghệ sĩ (nếu cảm nghĩ về một nhà thơ mà ta chưa gặp thì phải căn cứ vào
bài giời thiệu tác giả của SGK hay những hiểu biết về tác giả qua sách, báo, tivi,
để lập ý)
- Dưới đây là dàn ý cảm nghĩ về một bài thơ (Ví dụ bài thơ “Bạn đến chơi
nhà”):
(A) Mở bài:
- Giới thiệu bài thơ (tác giả, hoàn cảnh ra đời)
- Cảm nhận chung về giá trị của bài thơ (một lối tư duy nghệ thuật độc đáo sắc
sảo và một tình bạn tha thiết chân thành)
(B) Thân bài: Nêu cảm nghĩ
- Bạn đến chơi nhà là một bài thơ hóm hỉnh và độc đáo :
+ Tuy hình thức giống như một bài thơ Đường luật nhưng bài thơ này có một
cách kết cấu riêng (bảy câu trên là một ý và câu cuối cùng mang một ý).
+ Nhà thơ nói đến những thiếu thốn vật chất một cách hóm hỉnh, vui tươi (mọi
thứ đều có những không dùng được). Khách nghe cách tiếp đón ấy lại thấy thích
thú mà vẫn hài lòng.
- Bạn đến chơi nhà là một bài thơ đề cao cái tình trong tình bạn.
+ Nói đến những thiếu thốn về vật chất là để khẳng định cái tình trong tình
bạn.
+ Suốt cả bài thơ và nhất là câu thơ cuối như là một minh chứng đủ đầy về
cuộc sống thanh bạch mà tình cảm thanh cao của nhà thơ.
(C) Kết bài:
- Bài thơ là một nét đẹp tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Bài tham khảo 1
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ trong trẻo, thiết tha. Nó là



phần tinh tuý nhất của một con người luôn khát khao cống hiến, khát khao sống có
ý nghĩa. Nó là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là của tất cả những ai ham mê cái
cuộc sống trần gian rất đẹp đẽ này.
Mùa xuân nho nhỏ ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn,
vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả
tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của “con chim chiền chiện” để
góp nên một “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước
yêu thương.
Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ
đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo,
những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào
trái tim tuổi trẻ của tôi.
Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng
đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của
những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc
tím biếc cuả bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng
sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của
“sông xanh” và “hoa tím biếc”, tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút
cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo
hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người
như những “giọt tâm hồn” sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng
dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn
“đưa tay hứng”.
Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc
chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung
chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở “sức xuân” của mỗi con người. Mùa xuân
trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo
thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên
như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở



mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền
thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao
nhưng cả nước “vẫn đi lên phía trước” với một quyết tâm không mệt mỏi.
Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo
nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi
sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm.
Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã
được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường
bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh
âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của
đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ,
những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha
thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để
ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao.
Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một
ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang
bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm
con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát
khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết.
Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống
và khát khao cống hiến cho đời.
Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân
nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả
tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn.
Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng
là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.
Bài tham khảo 2
Giống tất cả mọi người dân Việt Nam, tôi yêu tiếng nói của dân tộc mình, thứ
tiếng nói lên bổng xuống trầm đầy cảm xúc. Vì thế tôi yêu những câu lục bất uyển



chuyển và đằm thắm chứa chan tình cảm. Vì lẽ đó, cũng chẳng có gì là lạ, là đặc
biệt khi tôi yêu văn học nước mình, và tôi say mê Truyện Kiều của Nguyễ Du. Tôi
say mê Kiều bởi ở Kiều tôi thấy Nguyễn Du, một Nguyễn Du của tài và tình, một
nguyễn Du có tình yêu tha thiết với dân tộc và tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông
đối với nhữung kiếp người bất hạnh. Mà bất hạnh nhất trong xã hội xưa là người
phụ nữ – những con người hồng nhan bạc phận.
Tôi muốn nói về sự kính trọng của tôi đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Cả dân tộc ta đã kính trọng ông nhưng tôi vẫn muốn thể hiện những tình cảm của
mình đối với người thi nhân đa tài mà đa đoan ấy.
Điều đầu tiên khiến tôi yêu quý và kính trọng Nguyễn Du chính là tình cảm
của ông dành cho con người. Ông là con người có tấm lòng nhân hậu. Có lẽ, đây
chính là yếu tố quan trong để ông có được những tác phẩm văn học chứa đựng
những giá trị nhân đạo sâu sắc. Người thi nhân đa đoan, viên quan đại thần dòng
dõi của triều Lê ấy không biết đã bao lần “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”.
Chính ông đã tự nhận ra rằng, người thi nhân bất hạnh bởi thi nhân luôn là người
tự vận nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác vào mình (Phong vận kì oan ngã tự
cư). Lòng nhân hậu khiến ông luôn rất nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác,
vì thế những thi phẩm của ông luôn đầm đìa nước mắt: nước mắt của nàng Kiều,
nước mắt của người ca nữ đất Long Thành và của nàng Tiểu Thanh. Họ đều là
những con người tài hoa, tài sắc song toàn mà mệnh bạc. Nhà thơ đồng cảm và đau
nỗi đau của những người ấy không đơn giản chỉ là sự cảm thông của con người đối
với con người. Nỗi đau của Nguyễn Du còn là sự nuối tiếc, xót xa trước sự ra đi
của những tài năng. “Cái tốt đẹp thì khó bền”, “hoa thường hay héo cỏ thường
tươi”, đó là quy luật của cuộc đời. Sự vô tình của con người trước nỗi đau, trước
giá trị của cái đẹp cũng là lẽ thường. Biết vậy Nguyễn Du vẫn luôn trăn trở day
dứt:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

“Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha” (Tố Hữu) chính là điều khiến ông luôn


được người đời trân trọng.
Điều thứ hai khiến tôi say mê Nguyễn Du chính là bởi tài năng. Nguyễn Du
yêu Tiếng Việt nên ông đã sử dụng thành công và làm Tiếng Việt phong phú thêm
bao nhiêu. Bao nhiêu năm nay chúng ta đọc và say mê Truyện Kiều một phần bởi
cái giọng điệu lục bát dễ đọc, dễ thuộc, dễ nghe. Nguyễn Du đã gửi gắm ở Truyện
Kiều một tình yêu lớn đối với tiếng nói và thể thơ dân tộc. Ông dùng những từ ngữ,
những cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Dân dã mà vẫn thật hay,
vẫn uyên bác và giàu chất nghệ thuật. Ví như những bức tranh bốn mùa của ông:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Tiếng Việt đẹp hơn, giàu âm thanh, hình ảnh và sắc điệu hơn bởi khả năng
sáng tạo của ông. Truyện Kiều đã đưa thể hiện một cách phong phú nhất khả năng
biểu hiện của Tiếng Việt và khả năng biểu cảm của thể thơ lục bát.
Có biết bao nhiêu lí do để ta trân trọng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, và lí do
lớn nhất, chính đáng nhất chính là nhân cách cao đẹp của ông, kết quả của sự kết
hợp hài hoà giữa tài và tình Nguyễn Du.
Bài tham khảo 3
Chẳng hiểu sao, mỗi lần nhắc tới Nguyễn Đình Chiểu, là mỗi lần xuất hiện
trong tôi những cảm xúc rất đặc biệt, phải chăng vì ông là một trong những nhà
văn đặc biệt nhất trong lịch sử văn học Việt Nam? Đặc biệt từ cuộc đời riêng đến
cả sự nghiệp văn chương. Tôi quý trọng ông không chỉ bởi những áng văn hay,
những vần thơ kiệt xuất, mà tôi quý ông trước hết ở chính cuộc đời, chính con
người ông.
Xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX, như một "ngôi sao sáng trên bầu trời văn
học Việt Nam", Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho dân tộc một di sản văn hóa lớn
lao và một tấm gương cao khiết về nhân cách, đạo đức. Sống giữa thời kì can qua
bấn loạn của đất nước, cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuộc đời thấm đầy bất

hạnh, khổ đau. Nỗi bất hạnh cá nhân: mắt mù, quyện vào nỗi bất hạnh chung: nước
mất nhà tan, rên xiết trong tâm hồn nhân đạo của người. Song, chưa một phút giây


nào bi lụy, khuất phục, Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương anh dũng, kiên cường
trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Người bảo vệ đất nước không phải bằng
ngọn giáo, mũi tên, mà bằng thơ văn - nó chính là vũ khí sắc nhọn để Nguyễn
Đình Chiểu trở thành một người chiến sĩ đứng bảo vệ cho văn hóa, cho độc lập
muôn đời trên xứ sở. Trở lại dòng lịch sử hơn trăm năm qua, nhiều người không
khỏi ngỡ ngàng đặt một câu hỏi lớn: vì sao thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có sức
mạnh, có sức ám ảnh cao đến vậy? Và từ bấy đến nay, mỗi lần ta thắc mắc, ta lại
tìm đến cuộc đời người, cuộc đời ấy sẽ trả lời cho ta tất cả. Nguyễn Đình Chiểu đã
sống với lòng yêu nước thương dân đến tột cùng, nó thấm thía vào hồn người để
rồi uất

đọng, dư ba, ngân vang mãi trong mỗi vần văn, câu thơ thuở ấy. Cuộc đời

của Nguyễn Đình Chiểu chính là một bài thơ đẹp của dân tộc nhiệm vụ, là một tấm
gương trong sạch, thanh khiết để bao thế hệ đời sau soi bóng. Người đã sống vậy,
và đã sáng tác văn chương. Văn chương Đồ Chiểu là tâm hồn người, là chính cuộc
đời người vậy.
Khi đất nước còn chưa có bước chân của ngoại xâm, Nguyễn Đình Chiểu một nhà nho tài năng đã sớm phải chịu một số phận bất hạnh, nhiều đắng cay và
cũng đầy ngang trái. Chưa có dịp lục tìm tiểu sử của người, ta hãy đọc Lục Vân
Tiên, chiêm ngưỡng nhân vật Lục Vân Tiên để thấy ẩn khuất sau hình tượng ấy
một Nguyễn Đình Chiểu. Ta thấy rõ được chính cảm xúc sâu xa, chính những suy
nghĩ chân thực, những tình cảm nông cháy trước cuộc đời của người là cảm hứng
cho nhà thơ viết Lục Vân Tiên.
Con người cụ càng đáng kính trọng hơn trong buổi "tang thương" của đất nước,
quê hương. Giờ đây trong con người Nguyễn Đình Chiểu nỗi đau riêng chìm
xuống đáy tâm tư, để hiện lên tha thiết một nỗi đau dân tộc, một nỗi thương người

cháy bỏng không nguôi. Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác thật nhiều tác phẩm có
giá trị. Không thể cầm gươm trực tiếp đánh giặc như bao người có đôi mắt sáng thì
người viết thơ để kêu gọi, để cuốn theo tiếng gọi giang sơn nồng cháy, thắp lên
niềm tin, lòng yêu nước ở mỗi con người:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm


Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Người đã sống một cuộc đời không mệt mỏi để đấu tranh cho chính nghĩa.
Cuộc đời người là một bó hoa thơm ngọt ngào nhất dâng lên cho đất mẹ Việt Nam.
Người đam nỗi đáu cho những đứa trẻ sống trong cảnh loạn li.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dác bay
Phải là một người có trái tim lớn mới nghe, mới cảm nhận chính xác được
hình tượng ấy. Người đã sống giữa lòng dân, gần gũi với nhân dân để hiểu được
những gì thân quen. Để rồi từ đó người tỏ bày lòng căm phẫn với quân thù, người
đã có thái độ bất hợp tác bởi "đất chung đã mất, đất riêng còn sá gì" khi bọn thực
dân muốn mua chuộc cụ.
Tuy bị mù nhưng với cụ:
Thà cho trước mắt như mù
Chẳng thà ngồi ngó kẻ thù quân thân
Hay:
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Đọc những câu thơ ấy, trong tôi chợt hiện lên một câu hỏi: rằng nếu không
phải là cụ Đồ Chiểu thì một người gặp hoàn cảnh như cụ thì có làm được như thế
hay không? Mù nhưng người vẫn sống tốt, sống đẹp để góp phần chống lại ội ác
tày trời mà thực dân Pháp đã giày xéo trên đất nước ta. Và người đã sống cao hơn
chúng ta, cụ Đồ Chiểu đã sống và sáng tạo vì nhân dân, đất nước. Người là một
nhà giáo, một thầy thuốc, một nghệ sĩ vĩ đại của chúng ta.

Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một chân lí, một lẽ sống để hướng văn
chương tới giá trị chân - thiện - mĩ. Người đã viết đúng tâm hồn mình, cuộc đời
mình để muôn đời sau, chúng ta thán phục và biết ơn. Và chắc hẳn lòng ta bỗng
như đẹp hơn khi được đọc những sáng tác của người - cái thế giới của cuộc đời
tâm hồn cao khiết ấy.
Bài tham khảo 4


Có lẽ khi nhắc đến một trong những bài thơ mà em yêu thích thì không thể nào
em lại quên được bài thơ “Đêm Thu” của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Yêu “nó”, yêu
luôn cả cái “thu” chất chứa trong đó. Không biết đã từ bao giờ cái chất “ấy” đã
thắm sâu tận đáy tâm hồn của em…
“Thu về lành lạnh trời mây
Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ.
Ánh trăng vừa thực vừa hư
Vườn sau gió nổi nghe như mưa rào.”
Bài thơ “Đêm Thu” có tất cả bốn câu thật ngắn, thật đơn sơ, nhưng nó cũng
đầy những phong vị đặc sắc riêng của đêm thu. Quả đúng như vậy, ngay từ cái lần
đầu tiên ta đọc đã để lại cho ta cái cảm giác mới lạ. Đó chính là cảm giác rất “thu”
của tác giả nói chung và của đọc giả nói riêng. Từ dòng đầu tiên “nó” đã cho ta
cảm nhận được cái thời tiết “lành lành trời mây” đặc trưng của mùa thu. Chính cái
“lành lạnh” này đã làm ta một phần nào nhớ đến những ngày ta được mặc chiếc áo
len rất model khi đến dịp này. Hay chính cái “lành lạnh” này làm cho giọng nói
của ta thêm phần nào ấm áp, ngân nga và tâm hồn thêm nhạy cảm hơn… Không
ngờ nhận xét của Trần Đăng Khoa lại tinh tế đến thế,ngay vào bài đã bật lên được
một nét đặt biệt đó.
Đến đoạn thứ hai, cái mà mọi người hay gọi là “tự nhiên” lại khơi dậy lần nữa.
Tại sao nhà thơ viết về thu lại không viết lá vàng rụng, bầu trời xanh hay những
rặng liễu buông lệ… mà lại viết “…Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ…”?
“Nó” thật tình cờ, ý thơ trong câu này như đang hỏi, đang tâm sự và như đang cảm

nhận cái “thu” khi đó. Trẻ thơ thường có những giấc ngủ say đắm và ngon lành,
đâu có chợt nửa đêm mà thức giấc như thế này! Tuy nhiên, sự bất chợt ấy tuy có
bất chợt mà nó lại độc đáo, khiến cho người đọc có thể một phần nào cảm nhận
được cái bất ngờ trong đoạn 2 này. Chắc có lẽ từ khi nào mùa thu đã tác động vào
cảm quan chú bé một cách khác thường hay là do tâm hồn của nhà thơ nhỏ tuổi đã
từng bước đón nhận lấy điệu thu “lành lạnh” đầu mùa đang lan tỏa khắp không
gian? Câu thơ này đã phần nào miêu tả được mối dây gắn bó mỏng manh mà mơ


hồ, nhưng cũng rất sâu xa kì diệu giữa con người và thiên nhiên.
Sự cảm nhận cái se lạnh của đêm thu đã được Trần Đăng Khoa diễn tả thật hồn
nhiên và cũng thật tinh tế. “Nó” mộc mạc, giản dị,nghe cứ rõ ràng như một lời nói
thường, mà lại vẫn đầy khêu gơi, “nó” vẫn đúng là thơ, man mác một niềm thơ.
Dường như câu hỏi “…nào hay mấy giờ…” của tác giả đã làm tăng thêm tính
huyền ảo, làm nên cái man mác nói trên. Có lẽ đây cũng phần nào làm nên nét đặc
sắc của bài: Khoa chỉ hồn nhiên, không tính toán gì khi lựa chọn câu thơ cho phù
hợp. Nhưng đấy là vẻ hồn nhiên đã qua lắng đọng, là nét tác động rất thật lúc đã
được tinh lọc qua tâm hồn người thi sĩ – không hề có dấu vết gọt giũa chữ nghĩa,
chỉ thấy đâu đây vang vọng tiếng của lòng người thôi!
Bước qua đoạn 3 của bài thơ, tác giả có viết: “Ánh trăng vừa thực vừa hư…”
Đến đây, tại sao tác giả lại nói “vừa thực, vừa hư”? Có lẽ đây là trăng khuyết
chăng? Hay là trăng tròn? … Nhiều câu hỏi đặt ra cho 4 chữ “..vừa thực vừa hư..”
trên. Lời văn thật bí ẩn kèm theo những hình ảnh chất chứa những nỗi niềm có thể
làm cho tim ta rung động. Nhiều nhà thơ, nhà văn viết về ánh trăng… ví ánh trăng
như mẹ, như người bạn … Còn nhà nhơ Trần Đăng Khoa thì không nói gì về vầng
trăng mà chỉ nói “nó” vừa thực, vừa hư mà thôi. Khiến vầng trăng ở đây thêm sức
quyến rũ và đặc sắc.
Câu thơ cuối, cái ý vị mung lung, mơ màng, cái không khí tĩnh lặng và cái cảm
giác nữa thực nửa ảo bây không còn nữa. Gió giờ đây đã thổi, vả nổi mạnh, “nghe
như mưa rào”. Từ diệu êm đã thành xáo động. Từ đây, thiên nhiên lúc chuyển mùa

đã thức dậy trong tâm hồn tự lúc nào mà ta dường như chẳng hay chẳng biết.
Trăng và gió đêm thu, bao người đã viết về nó – từ “Trái trăng thu chín mõm
mòm” của Hồ Xuân Hương… - đến “gió no mà bay lên nguyệt kia” của Xuân
Diệu – nhưng trong bài mảnh răng mơ hồ “ vừa thực vừa hư” khá mung lung
huyền ảo và trận gió nổi “nổi” chứ không “thổi” chung chung – bạo liệt, phấn
khích “nghe như mưa rào”. Ánh trăng ru êm và trận gió thức gọi – những cảm xúc
phức tạp, đa dạng lúc chuyển mùa, làm phong phú thêm cuộc sống chúng ta.
Không hiểu sao lòng em lại yêu bài “Đêm Thu” này!?! Cứ mỗi lần đọc bài thơ


thì lòng em lại cứ bồi hồi. Mỗi câu cứ làm cho lòng em thêm xao xuyến. Nó cứ
nhẹ nhàng mà làm sống dậy trong mình cái cảm giác hòa nhập cùng thiên nhiên,
vũ trụ. Một đêm thu huyền ảo, ngây ngất đồng thời gợi thức tất cả tâm hồn – một
đêm thu rất “thu”!
Đọc xong bài thơ, chúng ta mới hiểu rằng cái hồn nhiên, dung dị, vừa gợi mở
sâu sắc. Với cách dùng từ, ngôn ngữ rất vô tư, rất phong phú, rất thiên nhiên và rất
“thu” của thơ Trần Đăng Khoa…
Bài tham khảo 5
Trăng là chủ đề sáng tác, là cảm hứng của các thi nhân và Bác Hồ không chỉ là
chiến sĩ mà còn là một nhà thơ lớn có tình yêu thiên nhiên với tâm hồn nhạy cảm.
Trong những năm đầu ở chiến khu Việt Bắc, trong một đêm trăng đẹp, Bác đã sáng
tác ra bài thơ Cảnh khuya để lại trong em nhiều cảm xúc
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
Bài thơ “Cảnh khuya” thể hiện tình yêu thiên nhiên song hành cũng là tình yêu
nước sâu đậm của Bác trong một đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ, một màn đêm thanh tĩnh buông

xuống khắp khu rừng, nó làm cho tiếng suối dủ ở rất xa vẫn theo gió mang tiếng ca
êm đềm, trong vắt của mình cho những người yêu vẻ đẹp sáng ngời của đêm trăng
cùng thưởng thức. Tiếng suối và ánh trăng, chao ôi hai thứ ấy hòa quyện thì thật là
tuyệt vời! Nó khiến cho người đang tham gia chính sự như Bác đã có một cảm
nhận tinh tế về tiếng ca này. Tiếng suối dịu êm khoan nhặt như một khúc hát trữ
tình sâu lắng. Bác đã khéo léo dùng nghệ thuật lấy động tả một khung cánh yên
tĩnh có thể nghe rõ âm vang từ xa vọng lại. Và Người đã so sánh tiếng suối với
tiếng hát để nhấn mạnh nét gợi tả mang sức sống và hơi ấm của con người. Sự ví
von trên đã làm cho em nhớ lại câu thơ trong tác phẩm “Côn Sơn ca” của Nguyễn


Trãi từng viết
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”
Mỗi vần thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh đều là tiếng suối nhưng được cảm
nhận khác nhau ở nhiều khía cạnh. Song tất cả vẫn là một tình yêu thiên nhiên.
Câu thơ đã cho ta thấy rằng: dù là một vĩ lãnh tụ cách mạng nhưng Bác vẫn mang
tâm hồn tràn đầy tình cảm lãng mạn, đẹp đẽ. Cám ơn Bác, ngòi bút tài hoa và tâm
hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người đã giúp em cảm nhận sự ngọt ngào, du
dương của âm thanh suối chảy
“Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Ánh sáng dịu dàng, thanh khiết từ ánh trăng len lõi chiếu vào lá và hoa tạo nên
vẻ đẹp lấp lánh. Hoa lá nghiêng bong trên mặt đất tạo nên những bức tranh lấp loá,
lúc ẩn lúc hiện. Hoa lá cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào nhau, trăng đan vào cậy
cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Đó như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Bác đã
làm mọi sự vật sống động qua nghệ thuật nhân hóa “lồng” để miêu tả đan xen cay
lá và ánh trăng. Bác quả là một người đa cảm và có tâm hồn vô cùng phong phú!
Trăng trở nên thú vị và lãng mạn trong cảnh khuya sáng ngời, lung linh, huyền ảo.
Đọc thơ mà em cứ hình dung cảnh thơ như đang hiện lên mờ ảo trước mắt. Khung
cảnh thật thơ mộng kết hợp với nhạc tạo nên một bức tranh đầy sinh động. Vì vẻ

đẹp bất tận của mình, trăng là người bạn của các nhà thơ, ta khó có thể hững hờ
với vẻ đẹp của trăng
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ”
Đọc đến đây ai cũng nghĩ Bác vẫn còn thức vì trăng, vì sự cuốn hút của thiên
nhiên nhưng người không chỉ xúc động trước vẻ đẹp của đất trời mà còn vì
“Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng, giày xéo, bao người còn sống trong cơ cực,
lầm than. Và để nhấn mạnh nỗi lo của mình, Bác đã điệp vòng “chưa ngủ” như láy
lại tâm tư của Bác, một người luôn nặng lòng với quê hương. Hai câu thơ cuối
giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu thiên nhiên tha thiết


nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự nghiệp của đất nước.Đây
chính là nỗi lòng, là tâm tình của vị lãnh tụ. Đồng thời ta cũng đã thấy Bác Hồ của
chúng ta dẫu bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để chiêm
nghưỡng thiên nhiên, có lẽ thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khoả,
bớt đi sự vất vả mà Bác phải chăng chở suy tư. Từ đây, ta nhận thấy Bác là một
người luôn biết hài hoà giữa công việc với tình yêu thiên nhiên và càng yêu thiên
nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau
hình ảnh người ung dung ngắm trăng đó là một nõi khao khát về một đất nước
thanh bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc. Dường như trong
Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới đc tự do để con người
thoả sức ngắm trăng? Đọc đến đây ta càng hiểu rõ hơn con người của Bác đó là
một người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo vì dân vì nước, vì đất nước Bác có thể
hi sinh tất cả. Hình ảnh của Bác làm em dâng trào cảm xúc mến yêu, kính trọng
Bác. Và ta đã luôn tự hỏi rằng: Có bao giờ Người được thảnh thơi để tận hưởng
niềm vui của riêng mình? Bác thật vĩ đại trong tâm hồn em và của cả dân tộc Việt
Nam. Qua bài thơ, ta cảm nhận được lòng yêu quê hương trong Bác thật sâu đậm,
lớn lao và đã bắt gặp một tâm hồn thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ
cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh đẹp về quê hương, về con người và sự sự hài

hòa giữa cảnh và tình.
Bài thơ đã khép lại trong niềm xúc động dạt dào. Bác đã để lại cho đời những
vần thơ hay đầy ý nghĩa, những vần thơ đó đã khơi dậy trong em tình yêu thiên
nhiên và niềm kính yêu vô hạn vị Cha già của dân tộc. Qua bài thơ này ta càng
hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẩn giữ được thái độ bình tĩnh chủ động như
vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là nỗi lo cho nước, nỗi thương
dân. Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao đêm không ngủ vì nhiều lẽ nhưng
điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó là ý thức, trách nhiệm của Bác trước vận
mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác không chút nào xao lãng.
Bài tham khảo 6
Thơ Nguyễn Khuyến chẳng có mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi


buồn trước tình cảnh đất nước đau thương, trước thói đời éo le, bạc bẽo. Nhất là từ
khi cáo quan về sống ẩn dật ở quê nhà thì nỗi buồn ấy trong thơ ông càng sâu,
càng đậm. Tuy vậy nhưng bài Bạn đến chơi nhà lại là nốt vui bất chợt làm bừng
sáng cái thông minh, dí dỏm vốn có trong tính cách cụ Tam Nguyên.
Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn già kháng khít, keo sơn, vượt qua mọi
ràng buộc của những nghi thức tầm thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được
tình cảm ấm áp, chân thành.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng không theo cấu trúc 4
phần (đề, thực, luận, kết), mỗi phần hai câu như thường thấy. Ở bài này, Nguyễn
Khuyên chỉ sử dụng có một câu làm câu đề, câu thứ hai đã chuyển sang phần thực.
Giữa phần thực và phần luận lại không có ranh giới rõ rệt. Hai câu 7 và 8 thì câu 7
gắn với phần luận, chỉ có câu 8 là phần kết. Sự phá cách này tạo nên nét độc đáo
trong cấu trúc bài thơ, đồng thời chứng tỏ khả năng sáng tạo của nhà thơ.
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Câu mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân
lâu lắm mới gặp lại nhau. Tuổi già là tuổi người ta thường cảm thấy cô đơn nên
khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Chính vì thế nên khi được bạn

đến thăm, nhà thơ thực sự vui mừng. Ông gọi bạn bằng bác. Cách gọi dân dã, thân
tình song cũng rất nể trọng, thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa chủ và khách. Câu
thơ giống như lời chào quen thuộc hằng ngày ấy sẽ là tiền đề cho sự giãi bày tiếp
sau đó: Đã lâu rồi, nay mới có dịp bác quá bộ tới chơi nhà, thật là quý hóa. Vậy
mà… thôi thì cứ tình thực mà nói, mong bác hiểu mà vui lòng đại xá cho!
Sau khi Nguyễn Khuyến rũ áo từ quan, về ở chốn quê nghèo chiêm mất đằng
chiêm, mùa mất mùa mà vẫn có bạn tìm tới thăm thì hẳn người ấy phải là tri kỉ;
bởi thói đời giàu thời tìm đến, khó thời lui. Xúc động thật sự, nhà thơ nhân đó lấy
cái giàu có, quý giá của tình bạn để khỏa lấp cái nghèo nàn vật chất trong cuộc
sống của mình.
Theo phép xã giao, khi khách đến chơi, trước hết chủ nhà phải có nước có trầu
tiếp khách. Bạn thân ở nơi xa tới, lâu ngày mới gặp thì nhất thiết phải mời cơm,


mời rượu. Ở chốn phố phường còn có quán xá chứ ở vùng quê Nguyễn Khuyến thì
kiếm đâu ra? Cái hay của bài thơ bắt đầu từ ý này: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Nhà thơ phân trần với khách về sự tiếp đãi không thể chu đáo của mình. Vừa
mới tay bắt mặt mừng mà lại giãi bày với ý: “Nhà vắng người sai bảo, chợ ở xa,
tôi thì già yếu không đi được”, liệu có làm mất lòng nhau? Nhưng bạn già chắc sẽ
thông cảm vì lí do chủ nhà đưa ra nghe chừng đúng cả. Mọi thứ ở nhà tuy sẵn
nhưng ngặt nỗi:
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Hiểu theo bề nổi của chữ nghĩa, nhà thơ muốn thanh minh với bạn: Cá thì
nhiều đấy, nhưng ao sâu nước cả. Gà không thiếu nhưng vườn rộng rào thưa. Cải,
cà, bầu, mướp thì đang ở độ chửa ra cây, còn mới nụ, vừa rụng rốn, đương hoa.
Nghĩa là toàn ở độ dở dang, sắp sửa, chưa dùng được. Vậy là bữa cơm đãi khách
với đầy đủ cá thịt hay đạm bạc rau dưa đều không thể có. Thôi thì ta nói chuyện

với nhau bằng điếu thuốc, chén nước, miếng trầu vậy. Nhưng giở đến trầu thì đã
hết tự bao giờ: Đầu trò tiếp khách trầu không có, mà xưa nay miếng trầu là đầu câu
chuyện. Người đọc như hình dung ra rõ ràng cái sự loay hoay, lúng túng thật dễ
thương của vị đại quan xưa, nay đã thành ông già dân dã chốn quê mùa.
Nhưng xét kĩ thì chủ nhà không nghèo, ngược lại, ông là người giàu có. Câu
thơ toàn nói đến cái không nhưng lại hàm chứa cái có. Cái nghèo vật chất trong
hiện tại được thi vị hóa như là sự giàu có trong tương lai. Có thể những thứ cá, gà,
cải, cà, bầu, mướp đều chẳng thiếu và nhà thơ đã tiếp đãi bạn rất chu tất còn nội
dung bài thơ chỉ là cách giới thiệu độc đáo của cụ Tam Nguyên với bạn về cuộc
sống thanh đạm của mình sau khi từ quan chăng?!
Cách nói của nhà thơ là cố làm ra vẻ giàu có, dư dả nhưng thực ra ông rất
nghèo và cái nghèo ấy dễ gì che giấu được! Bạn biết ta nghèo, lại ở một nơi xa xôi
hẻo lánh mà vẫn tìm đến thăm ta, điều đó còn gì quý giá bằng! Tuy vậy, ẩn trong


lời nói khiêm nhường của Nguyễn Khuyến là sự tự hào về cảnh sống thanh bần
của mình. Ta tuy nghèo thật nhưng dễ gì giàu sang đổi được cái nghèo ấy! Trong
đoạn thơ trên thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, thâm Thúy của bậc đại nho.
Bác đến chơi đây ta với ta là một câu kết hay, là linh hồn của bài thơ. Ta với ta
nghĩa là một tấm lòng đến với một tấm lòng; kẻ tri âm đến với người tri kỉ. Vậy thì
tất cả những lễ nghi kia đều là tầm thường, vô nghĩa. Chủ và khách có chung một
tình cảm thắm thiết thanh cao, đó là cái quý giá không vật chất nào sánh được. Ba
tiếng ta với ta gợi cảm xúc mừng vui, thân mật. Bạn bè xa cách đã lâu, nay vượt
đường xa dặm thẳm, vượt cái yếu đuối của tuổi già để đến thăm nhau thì thật là
quý hóa! Đáng quý hơn nữa là bác với tôi, ta cùng lánh đục tìm trong, lui về vui
thú điền viên để giữ trọn hai chữ thiên lương. Sự gần gũi, tương đắc về mặt tâm
hồn đã gắn bó chủ và khách làm một. Những điều câu nệ, khách khí đã bị xoá
nhòa. Chỉ còn lại niềm vui và sự chân thành bao trùm tất cả. Tình bạn ấy đã vượt
lên trên những nghi thức tiếp đãi bình thường. Bạn đến chơi nhà không phải vì
mâm cao cỗ đầy mà để được gặp nhau; được hàn huyên tâm sự cho thỏa nỗi khao

khát nhớ mong.
Cậu thơ đã thể hiện cách sử dụng từ ngữ tài tình của Nguyễn Khuyến. Đáng
chú ý nhất là cụm từ ta với ta. Đại từ ta trong tiếng Việt vừa chỉ số ít, vừa chỉ số
nhiều. Nguyễn Khuyến dùng cả hai nghĩa: ta với ta tuy hai nhưng là một. Từ với
gắn hai từ ta lại. Bạn và nhà thơ ngồi bên nhau thủ thỉ tâm tình, hai người hòa
thành một. Quả là không gì có thể đánh đổi được tình bạn thủy chung giữa hai ta.
Bài thơ Bạn đến chơi nhà là tấm lòng của nhà thơ và cũng là bức tranh phong
cảnh nông thôn bình dị tràn đầy sức sống. Khu vườn với luống cà, giàn mướp; mặt
ao sóng gợn, tiếng gà xao xác trưa hè… là hiện thân của mảnh hồn quê mộc mạc,
đậm đà, sâu lắng. Màu xanh trong của nước ao, màu xanh mơn mởn của vồng cải,
màu tím hoa cà, màu vàng tươi hoa mướp… loại nào cũng đang độ tươi non, làm
vui mắt và ấm lòng người. Những sự vật tưởng như tầm thường ấy thực ra có sức
an ủi rất lớn đối với một tâm hồn mang nặng nỗi đau đời của nhà thơ. Được đón
bạn đến chơi nhà trong khung cảnh rạo rực sức sống ấy, chắc hẳn niềm vui của cụ


Tam Nguyên cũng tăng lên gấp bội.
Bài thơ nói về một tình bạn trong sáng, đẹp đẽ. Giọng thơ tự nhiên như lời ăn
tiếng nói hằng ngày của người nông dân quê mùa, chất phác, ấy vậy nhưng nó vẫn
bộc lộ rõ nét tài hoa của ngòi bút Nguyễn Khuyến trong tả cảnh, tả tình. Cảnh, tình
đan xen, hòa hợp, bổ sung cho nhau để tạo nên một bức tránh quê trong sáng, tươi
mát và ấm áp tình người.



×