Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Sự vận dụng quan điểm toàn diện trong giáo dục đạo đức cho sinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.71 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

VŨ THỊ HÀ

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

VŨ THỊ HÀ

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ THÙY LINH



HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới
Ban giám hiệu trường Đại Học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi
có cơ hội học tập, rèn luyện và có cơ hội được thực hành nghiên cứu khoa
học tại trường.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Triết học cùng
toàn thể các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã nhiệt tình giảng dạy.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Nguyễn Thị Thùy Linh,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tôi những kinh
nghiệm khoa học quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận đúng thời hạn.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người
thân, bạn bè đã động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa
luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Vũ Thị Hà


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của Th.S Nguyễn Thị Thùy Linh, chưa từng được công
bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn

toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Vũ Thị Hà


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNDV

: Chủ nghĩa duy vật

PBC

: Phép biện chứng

PBCDV

: Phép biện chứng duy vật

SV

: Sinh viên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ...................................... 5
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - Cơ sở triết học của quan điểm
toàn diện ..................................................................................................... 5
1.2 Một số vấn đề chung về giáo dục đạo đức ........................................... 16
1.3 Nội dung của sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay. ....................................................... 29
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 36
2.1 Những điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ảnh hưởng đến giáo dục đạo
đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay........................................................ 36
2.2 Những thành tựu đạt được trong giáo dục đạo đức cho sinh viên
Việt Nam hiện nay .................................................................................... 39
2.3 Hạn chế - nguyên nhân ........................................................................ 46
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN ................................................... 59
3.1 Xây dựng ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện trong tu dưỡng đạo đức của
sinh viên ngăn chặn những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị
trường, những phức tạp của quá trình toàn cầu hoá ................................... 59
3.2 Tạo lập môi trường giáo dục thân thiện, môi trường kinh tế - xã hội
trong sạch, lành mạnh có tác động tích cực đến xây dựng đạo đức mới cho
sinh viên ................................................................................................... 60
3.3 Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác
quản lý, giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay ..................... 61
3.4 Đổi mới nội dung, thiết kế lại chương trình, đa dạng hoá hình thức giáo
dục đạo đức cho sinh viên ......................................................................... 64
KẾT LUẬN.................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 70



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên - sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nguồn
lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sinh thời chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi
đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [6, tr.167]. Nếu không có thế
hệ trẻ, sẽ không có sự tiếp nối lịch sử của mỗi dân tộc, cũng như không có sự
phát triển của nhân loại. Chính vì vậy trong các thời kì cách mạng, Đảng ta
luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cả
về trình độ học vấn, lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị… để họ trở thành
chủ tương lai của đất nước.
Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kì đổi mới, xóa bỏ chế
độ bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, từng bước tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế
giới. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với quá trình phát triển của
cách mạng Việt Nam. Bên cạnh mặt tích cực, quá trình toàn cầu hóa cũng bộc
lộ không ít những hạn chế, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội, tác
động không nhỏ đến lối sống và đạo đức của con người.
Sinh viên là một bộ phận đông đảo và là thành phần ưu tú của thanh
niên. Họ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Họ mang
trong mình sức mạnh của tuổi trẻ, có tri thức khoa học, có tinh thần nhiệt
huyết, dám nghĩ, dám làm, họ còn là đại biểu cho sức sống của dân tộc. Do
vậy, hơn ai hết họ phải là những người kiên định về chính trị, vững vàng về
chuyên môn, có lối sống lành mạnh, đạo đức mẫu mực...
Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm sống nên họ cũng rất dễ bị lợi dụng và
lôi kéo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước những tác động của cơ chế
thị trường, trước những tác động từ nhiều phía của văn hóa, tư tưởng phương

1



Tây, sự lôi kéo của các thế lực phản cách mạng và các thế lực tôn giáo đã
khiến không ít bộ phận sinh viên biểu hiện xuống cấp về đạo đức, có lối sống
buông thả, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh... Trước
những yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam là một sự cần thiết
và là sự chuẩn bị cho họ hành trang giúp họ vào đời lập thân, lập nghiệp.
Là một sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, trong tương lai trở
thành một giáo viên sư phạm, tác giả rất mong muốn được đóng góp ý kiến
của mình nhằm nâng cao ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đề tài: “Sự vận
dụng quan điểm toàn diện trong giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay” được tác giả thực hiện với nguyện vọng đó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam đã có nhiều tác
giả quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, có một số các công
trình nghiên cứu và các bài viết tiêu biểu:
* Nhóm các đề tài và luận văn viết về đạo đức thanh niên - sinh viên, có:
+ “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện
mới”, Báo cáo khoa học của Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh (1997 - 1998).
+ “Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam - thực trạng, vấn đề và giải pháp”,
đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003.
+ TS. Hồ Bá Thâm (2008): “Xây dựng bản lĩnh thanh niên hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Nhóm các bài trên tạp chí viết về đạo đức trong xu thế toàn cầu hóa
hiện nay:

2



+ Tạp chí triết học; Đỗ Huy (2002) “ Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã
hội và những hành vi đạo đức cá nhân”.
+ Võ Minh Tuấn (2004) “ Tác động toàn cầu hóa đến đạo đức sinh
viên hiện nay”...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả đã nêu trên, từ
nhiều góc độ khác nhau, đã làm sáng tỏ tác động hai mặt của bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức xã hội ở nước ta
trong quá trình đổi mới, đề ra một số phương hướng để đẩy mạnh quá trình xây
dựng đạo đức trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tuy nhiên đối tượng giáo dục đạo
đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam là vấn đề đòi hỏi cần
được tiếp tục nghiên cứu thêm. Khóa luận hy vọng đóng góp một phần nhỏ
của mình vào việc nghiên cứu một trong những khía cạnh của vấn đề lớn đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích
Mục đích của khóa luận làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong
công tác đạo đức cho sinh viên ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một
số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường.
3.2 Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận của quan điểm toàn diện trong Triết học và
các quan điểm về đạo đức và giáo dục đạo đức
- Phân tích thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Từ đó vận dụng quan điểm toàn diện trong giáo dục đạo đức cho sinh
viên Việt Nam hiện nay.

3



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu về vấn đề sự
vận dụng quan điểm toàn diện trong giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận từ năm 1986 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về đạo đức, khóa
luận sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; phương pháp lịch sử lôgic, phân tích và tổng hợp, khảo sát thực tế,
điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa của đề tài
Khóa luận đã tìm hiểu thực trạng đạo đức sinh viên và công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay và tìm ra những nguyên nhân dẫn
tới thực trạng đó đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
phẩm chất đạo đức cho sinh viên hiện nay. Từ đó khóa luận có thể đóng góp
về mặt lý luận cho các tổ chức, đoàn thể trực tiếp làm công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên…
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
có 3 chương, 10 tiết.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG


1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - Cơ sở triết học của quan điểm
toàn diện
1.1.1 Nội dung về mối liên hệ phổ biến
* Khái quát về phép biện chứng duy vật:
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ phổ biến đối với sự
vật, hiện tượng khác. Phép biện chứng (PBC) ra đời gắn với sự phát triển của
triết học từ thời cổ đại và từng bước hoàn thiện trong ba hình thức cơ bản đó
là: phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm trong triết
học cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật.
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại
Do trình độ tư duy chưa cao, khoa học chưa phát triển nên các nhà triết
học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp mang tính trực quan cảm tính để khái
quát bức tranh chung của thế giới. PBC chất phác được thể hiện rõ ràng trong
thuyết “Âm dương - Ngũ hành” của triết học Trung Hoa cổ, trung đại.
Dưới con mắt của Heraclit mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay
đổi vận động phát triển không ngừng. Luận điểm bất hủ của ông: “Chúng ta
không thể tắm hai lần trên một dòng sông”. Song PBC này thiếu những căn cứ
khoa học.Vì vậy, nó đã bị PBC siêu hình xuất hiện từ cuối thế kỷ XV thay thế.
- Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện
trong triết học Hêghen - một đại biểu của triết học cổ điển Đức ở cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX với một hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật cơ
bản, Hêghen là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh PBC duy tâm, tính chất
duy tâm trong PBC của Hêghen thể hiện ở chỗ: Ông coi “ý niệm tuyệt đối”
tha hóa thành giới tự nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về với chính mình.

5


Thực chất PBC duy tâm khách quan của Hêghen là PBC coi ý niệm sản sinh
ra PBC của sự vật. PBC cổ điển Đức có những đóng góp vào sự phát triển tư

duy biện chứng của nhân loại, thúc đẩy tư duy biện chứng lên một trình độ
cao nhưng với hạn chế duy tâm của nó chưa thể trở thành cơ sở lý luận cho
một thế giới quan khoa học.
- Phép biện chứng duy vật kế thừa có chọn lọc những thành tựu về phép
biện chứng của các nhà triết học trước đó, dựa trên cơ sở khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử loài người cũng
như thực tiễn xã hội vào giữa thế kỷ XIX C.Mác, Ph.Ăngghen đã tiếp thu có
phê phán triết học Hêghen và CNDV Phoiơbac. Đối với Hêghen trong “Bộ tư
bản”, Mác đã viết: “… Ở ông PBC lộn ngược xuống đất, chỉ cần dựng ngược
nó lại sẽ cảm thấy được bộ mặt hoàn toàn có lý của nó” [15, tr.11].
C.Mác tiếp thu có chọn lọc triết học cũ và phát triển cao hơn. Do vậy,
bản chất PBC của Mác cao hơn về chất so với PBC của Hêghen, ông nói:
“Phương pháp biện chứng của tôi không những khác PBC của Hê ghen mà
còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa. Theo Hêghen thì sự vận động của tư
duy mà ông đặt ra cho cái tên là “ý niệm” và biến nó thành một chủ thể độc
lập, chính là Chúa sáng tạo ra giới hiện thực này chẳng qua chỉ là hiện tượng
bên ngoài của giới hiện thực mà thôi. Trái lại, theo tôi thì sự vận động của tư
duy chỉ là sự phản ánh trong sự vận động hiện thực, di chuyển biến hình
trong đầu óc của con người” [15, tr.19]. Nhờ đó mà chủ nghĩa Mác mang giá
trị to lớn, đó là tính phê phán đối với mọi quan điểm sai lầm, những quan
điểm siêu hình, chủ nghĩa triết chung, phản động. Một trong những kẻ xuyên
tạc chủ nghĩa Mác là Đuy rinh - Giáo sư môn cơ học người Đức, nhà triết học
kinh tế học Ăngghen đã phản đối kịch liệt quan niệm của Đuy rinh trong cuốn
sách “Chống Đuyrinh”. Trong tác phẩm này Ăngghen đã đưa ra định nghĩa
nghĩa hoàn chỉnh về PBC: “PBC chẳng qua chỉ là môn khoa học về những

6


quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư

duy” [23, tr.39].
PBCDV tiếp tục được Lênin đã phát triển thêm trên cơ sở kế thừa học
thuyết của C.Mác, Ph.Ănghen về phép biện chứng và chỉ rõ: “Có thể định
nghĩa vắn tắt về phép biện chứng là sự thống nhất của các mặt đối lập. Như
thế người ta sẽ nắm rõ được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó
đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự phát triển thêm” [26, tr.240].
Như vậy, đến C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin thế giới quan duy vật
biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau
trong PBC ấy. Chính vì vậy nó đã khắc phục được những hạn chế của PBC
chất phác thời cổ đại và những thiếu xót của PBC duy tâm thời cận đại. Nó đã
khái quát những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của
thế giới. PBC duy vật trở thành một môn khoa học và là hình thức phát triển
cao nhất, hoàn bị nhất của lịch sử PBC. PBC duy vật được xây dựng trên cơ
sở hệ thống những nguyên lý (nguyên lý về sự phát triển, nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến) những cặp phạm trù cơ bản (6 cặp phạm trù: cái riêng - cái
chung; nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình
thức; bản chất và hiện tượng; khả năng và hiện thực) những quy luật (quy luật
chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại; quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; quy luật phủ định
của phủ định). Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất trong phép biện
chứng duy vật. Tuy nhiên trong phạm vi khóa luận tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Ngay từ khi sinh ra con người luôn luôn có nhu cầu tất yếu đó là khám
phá, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Do đó trong hoạt động thực tiễn của mình
con người cần đặt ra các câu hỏi như:
7



Thứ nhất: Các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới
có mối quan hệ tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt
lập, tách rời nhau?
Thứ hai: Nếu chúng có mối quan hệ qua lại thì cái gì đã quy định mối
liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời câu hỏi đó có rất nhiều quan điểm khác
nhau. Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho
rằng: các sự vật và hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau cái này tồn tại bên
cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy
định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định chỉ là sự quy định lẫn nhau thì
cũng chỉ là sự quy định bề ngoài mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy trong số
những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng các sự
vật và hiện tượng có mối quan hệ và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú song
các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau.
Chẳng hạn: “Giới vô cơ và giới hữu cơ không có mối liên hệ gì với nhau, tồn
tại độc lập, không thâm nhập lẫn nhau. Tổng số đơn giản của những con
người riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không vận động” [9, tr.208].
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng cho rằng: các sự vật,
hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa gián đoạn, tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn, sự gia tăng về dân số sẽ tác
động trực tiếp tới kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế… không chỉ trong một nước
mà trên toàn thế giới. Môi trường ảnh hưởng to lớn đến con người, đúng hơn
là hoạt động của con người và hoạt động của con người đến lượt nó cũng tác
động trở lại to lớn đến sự biến đổi của môi trường.
Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan
và chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: Cái quyết định mối liên hệ sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật và hiện tượng là một lực lượng siêu

8



nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người (đại biểu là Platon). Đứng trên
quan điểm duy tâm chủ quan, Beccơli cho rằng: cảm giác là nền tảng của mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm
khách quan vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng.
Những người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định: Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng. Các sự vật hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng,
phong phú, có khác nhau bao nhiêu song chúng đều chỉ là những dạng khác
nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính
thống nhất nên chúng không tồn tại biệt lập nhau mà trong sự tác động qua
lại, chuyển hóa cho nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó,
triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật.hiện tượng hay giữa các mặt của sự vật, của một hiện tượng trong thế
giới [ 14, tr.183]
Các sự vật hiện tượng trong thế giới biểu hiện sự tồn tại của mình thông
qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của
chúng với sự vật, hiện tượng khác. Đối với con người, chúng ta chỉ có thể
khẳng định mình bằng cách thông qua mối liên hệ với cá nhân khác tồn tại với
tư cách là nhóm xã hội khác nhau như gia đình, nhà trường và xã hội.
* Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm duy vật biện chứng mối liên hệ có các tính chất sau:
- Tính khách quan
Có thể khẳng định: Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng là khách quan
vốn có vì nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Biểu hiện
trong tất cả quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy, sự vật hiên tượng nào cũng là

9



một thể thống nhất của các mặt đối lập và sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại
trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Ngay cả những sự vật vô
tri, vô giác cũng đang từng ngày, từng giờ chịu sự tác động của các sự vật
hiện tượng khác (ánh sáng, nhiệt độ, áp suất, không khí …) đôi khi còn chịu
tác động của con người và ngay cả con người một sản phẩm phát triển cao
nhất của tự nhiên cũng không nằm ngoài mối liên hệ này. Bởi thế mà tục ngữ
Việt Nam có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”.
Con người phải tiếp nhận vô vàn mối quan hệ chằng chịt. Do đó, con
người phải hiểu biết các mối quan hệ và vận dụng các mối quan hệ đó để giải
quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của xã hội
và bản thân con người.
- Tính phổ biến:
Không chỉ mang tính khách quan, mối liên hệ còn mang tính phổ
biến.Tính phổ biến của mối liên hệ được thể hiện:
Thứ nhất: “Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với các sự vật hiện
tượng khác, không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ ” [12,
tr.208]. Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào không có quan hệ,
không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính
vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, khu
vực hóa mọi mặt của đời sống, xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn
đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, chất
lượng giáo dục… Và do đó để phát triển con người toàn diện cần phải quan
tâm giáo dục về mọi mặt.
Thứ hai: Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt cụ thể, tùy
theo điều kiện nhất định. Song dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện
của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất những hình thức liên hệ riêng lẻ, cụ
thể được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. PBC duy vật chỉ ngiên cứu


10


những mối liên hệ chung nhất bao quát nhất của thế giới. Bởi thế Ph.Ăng
ghen viết: “PBC là khoa học về sự liên hệ phổ biến” [3, tr.455]
Cùng với những lý do trên, triết học gọi mối lên hệ đó là mối liên hệ phổ
biến. Nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó.
- Tính đa dạng, phong phú:
Có thể phân chia các mối liên hệ đa dạng đó thành từng loại tùy theo
tính chất phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò gián
tiếp hay trực tiếp mà nó có thể khái quát thành những mối liên hệ khác nhau
tùy theo từng cặp. Mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và
mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất.
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại và phát triển của bản thân sự
vật và hiên tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Các mối liên hệ phổ
biến của sự vật, hiện tượng trong thế giới khái quát thành các cặp phạm trù cơ
bản của PBC.
+ Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
+ Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tương
+ Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức
+ Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận
động, phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự
quy định chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của
cùng một sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn
tại và phát triển của sự vật và hiện tượng. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này nói chung không giữ vai trò


11


quyết định tới sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó
thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới có thể tác động tới sự tồn
tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn, sự lĩnh hội tri thức của người học trước hết và chủ yếu phụ
thuộc vào chính người đó (trình độ, năng lực, tâm lý), sự tác động bên ngoài
(nghệ thuật truyền thụ tri thức, cơ sở vật chất…) dù có tốt, có đầy đủ bao
nhiêu chăng nữa mà người học “nghe tai này ra tai kia”, “nước đổ lá khoai”,
“đàn gảy tai trâu” thì người đó không bao giờ lĩnh hội được tri thức.
Song nếu không có sự tác động từ bên ngoài bằng cách này hay cách
khác thì người đó cũng không có tri thức hoặc không lĩnh hội được tri thức,
đặc biệt là những tri thức khoa học được tiếp cận lần đầu tiên.
Các cặp mối liên hệ khác cũng có mối liên hệ biện chứng giống như mối
liên hệ biện chứng của cặp mối liên hệ nêu trên. Tuy nhiên, mỗi cặp mối liên
hệ lại có những đặc trưng riêng.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ
phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy
theo phạm vi bao quát của mối liên hệ, hoặc do kết quả vận động và phát triển
của chính các sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn khi xem xét lĩnh vực đức dục, trí dục, mĩ dục, thể dục như là
những lĩnh vực riêng biệt thì mối liên hệ qua lại giữa chúng với nhau là những
mối liên hệ bên ngoài. Nhưng nếu coi chúng là bốn lĩnh vực cơ bản của công tác
giáo dục trong nhà trường nhằm hình thành và phát triển nhân cách, xây dựng
con người mới thì mối liên hệ giữa chúng lại trở thành mối liên hệ bên trong.
Tuy sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối nhưng sự
phân chia ấy lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác

định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng

12


các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của mình.
Như vậy, các sự vật và hiện tượng có mối liên hệ rất đa dạng và phong
phú. Do đó, khi nhận thức về các sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan
điểm toàn diện, tránh rơi vào các quan điểm phiến diện chỉ xem xét sự vật
hiện tượng ở một vài mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay tính
quy luật của chúng. Chẳng hạn: Khi tìm hiểu nguyên nhân vì sao một học sinh
học kém, chúng ta phải tìm hiểu về phương pháp, điều kiện học tập, ý thức
học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của giáo viên, có như vậy mới
tìm ra được nguyên nhân khắc phục tình trạng học kém của học sinh đó.
1.1.2 Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Từ việc nghiên cứu mối liên hệ phổ biến có thẻ rút ra ý nghĩa về phương
pháp luận như sau:
* Quan điểm toàn diện
Như chúng ta đã tìm hiểu ở trên, vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trên
thế giới đều tồn tại trong các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa,
quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính
khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh xem xét
phiến diện.
Trên cơ sở quán triệt quan điểm toàn diện trong mỗi hoạt động nhận
thức và thực tiễn quan điểm toàn diện đưa ra yêu cầu sau:
Thứ nhất, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật hiện
tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các
mặt của chính sự vật và hiện tượng và trong tương tác qua lại giữa các sự vật

đó đối với các sự vật khác cần tránh quan điểm phiến diện, chỉ xem xét sự vật,
hiện tượng ở một hoặc một vài mối liên hệ đã vội vàng đi đến kết luận về bản

13


chất của sự vật như Lênin từng nói: “Để hiểu được sự vật cần nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ, quan hệ trực tiếp cũng
như quan hệ gián tiếp của sự vật đó” [17, tr.17] trên cơ sở đó mới nhận thức
đúng về sự vật và hiện tượng.
Thứ hai, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ phải biết chú ý đến mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất,
mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất yếu… Để làm rõ bản chất của sự vật và có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao trong hoạt động
của bản thân chúng ta phải xem xét thấu đáo và phân biệt từng mối liên hệ
tránh xem xét giàn trải, liệt kê, cần phải đi từ tri thức nhiều mặt, từ mối liên
hệ của sự vật để khái quát và làm nổi bật lên cái cơ bản nhất và quan trọng
nhất của sự vật và hiện tượng đó. Song trong nhận thức và hoạt động của
chúng ta cần phải chú ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở
những điều kiện xác định.Trong quan hệ giữa con người với con người chúng
ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người.
Thứ ba, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào sai lầm của chủ
nghĩa triết chung và thuật ngụy biện. Thực chất của chủ nghĩa triết chung là
sự kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tạo nên một hình ảnh không đúng về
sự vật. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, theo quan điểm toàn diện khi tác
động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ của
sự vật ấy với các sự vật khác. Ví dụ như để thực hiện mục tiêu: “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Một mặt chúng ta phải
biết phát huy nội lực, mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ nhất là xu hướng
toàn cầu hóa đem lại.

Thực hiện tốt những yêu cầu trên của quan điểm toàn diện sẽ giúp ta có
cái nhìn sâu sắc và thấu đáo để tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng. Song
không chỉ dừng lại ở quan điểm toàn diện, khi nghiên cứu mối liên hệ phổ

14


biến của phép biện chứng duy vật, đi liền với quan điểm toàn diện còn là
nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
* Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Xuất phát từ tính đa dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện cũng khác nhau nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng
quan điểm lịch sử - cụ thể.
Bản thân nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta trước hết phải xem
xét phương pháp tư duy là có tính lịch sử. Những phương pháp cơ bản của tư
duy biện chứng là kết quả của quá trình lịch sử nhận thức, lịch sử tư duy đã
thể hiện ở con người đi sâu nhận thức thế giới và vận dụng phép biện chứng
vào quá trình tư duy của con người. Phương pháp tư duy là sản phẩm của thời
đại lịch sử, nó được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử
nhất định. Khoa học về tư duy cũng như các khoa học khác là khoa học về sự
phát triển lịch sử của tư duy. Phương pháp tư duy của con người đã trải qua
quá trình phát sinh và phát triển, trải qua một quá trình từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Có thể phân chia sự phát triển phương pháp tư duy của con
người thành bốn giai đoạn sau:
Phương pháp tư duy nguyên thủy
Phương pháp biện chứng chất phác thời cổ đại
Phương pháp tư duy cận đại
Phương pháp biện chứng hiện đại
Những phương pháp đó, tạo thành một hệ thống phương pháp dựa vào

nhau và phân biệt với nhau. Tính lịch sử, tính thời đại của phương pháp tư
duy của con người chứng tỏ không có tư duy lý luận vĩnh hằng, không có
phương pháp tư duy cứng nhắc không thay đổi. Trong lịch sử nhận thức, lịch
sử tư duy của con người phương pháp tư duy mới được hình thành trên cơ sở
khắc phục các mâu thuẫn của phương pháp tư duy cũ.
15


Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào
là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm
khoa học trong thời điểm khác. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ
thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển
của các hệ thống đó. Hay để xác định đường lối chủ trương của từng giai đoạn
cách mạng, của từng thời kì xây dựng đất nước bao giờ Đảng ta cũng phân
tích tình hình cụ thể của đất nước cũng như bối cảnh quốc tế diễn ra trong giai
đoạn, thời kì đó. Dĩ nhiên trong khi thực hiện đường lối chủ trương Đảng ta
phải bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể có những đòi hỏi mang tính tổng hợp, quán
triệt nguyên tắc này trong quá trình vận dụng phương pháp tư duy sẽ đưa
nhận thức của con người tới chân lý. Một khi xa rời những hoàn cảnh, điều
kiện cụ thể thì chân lý sẽ trở thành sai lầm, đúng như Lênin từng nói: “Chân
lý luôn luôn là cụ thể” [13, tr.384].
Tóm lại qua tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến của PBC duy vật chúng ta
rút ra quan điểm toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể. Đây là những nguyên
tắc, phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức
và thực tiễn. Tuy nhiên trong phạm vi khóa luận này tác giả chỉ đi sâu và tìm
hiểu rõ hơn về việc vận dụng quan điểm toàn diện trong giáo dục đạo đức cho
sinh viên Việt Nam hiện nay.

1.2 Một số vấn đề chung về giáo dục đạo đức
1.2.1 Khái niệm về đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức học đã xuất hiện hơn 17 thế kỉ trước đây trong triết học Trung Quốc, triết
học Ấn Độ, triết học Hy Lạp cổ đại…

16


* Triết học phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng latinh là
mos- lề thói (moralit- nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn luân
lý thường xem như là đồng nghĩa với “đạo đức” nghĩa gốc ở chữ Hy Lạp là
Ethicos nghĩa là lề thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến
đạo đức, tức là nói đến những lề thói, tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất
định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này
người ta thường phân biệt hai khái niệm “moral” là đạo đức, còn “Ethicos” là
đạo đức học.
* Triết học phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung
Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo đức của họ. Đạo là một trong
những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có
nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm đạo đức được vận dụng trong
triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo có nghĩa là con đường sống của
con người trong xã hội.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ
đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói
đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa,
là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con
người phải tuân theo.
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về đạo đức

C.Mác, Ph.Ăngghen quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời
sống xã hội, là kết quả của sự phát triển của lịch sử. Theo C.Mác, PhĂnghen,
con người khi sống phải có “quan hệ song trùng”. Một mặt, con người quan
hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn cuộc sống của mình. Tự
nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con người phải xông vào tự
nhiên để thõa mãn nhu cầu của mình. Mặt khác khi tác động vào tự nhiên, con
người không thể đơn độc, con người phải quan hệ với con người để tác động
17


vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa con người với con người là hệ quả
của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt động tinh
thần và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát
triển cũa xã hội loài người C.Mác, Ph.Ănghen cho rằng: “lao động là điều
kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người” [18, tr.641]. Rằng:
“người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ
thuật…” . Xuất phát từ con người thực tiễn, chứ không phải con người thuần
túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đã đi đến quan niệm về phương
thức sản xuất quyết định đối với toàn bộ hoạt động của con người, xã hội loài
người. Trong “Lời tựa” của tác phẩm “Góp phần phê phán chính trị- kinh
tế học”. Mác viết: “Phương thức sản xuất vật chất quyết định quá trình sinh
hoạt xã hội, chính trị và tư tưởng nói chung. Không phải ý thức của con
người quyết định sự tồn tại của họ. Trái lại chính sự tồn tại của họ quyết định
ý thức của họ” [17, tr.15]. Luận điểm này chính là chìa khóa khám phá tất cả
các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên
ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự biểu
hiện của những năng lực “tiên thiên” nhất thành bất biến của con người.Với
tư cách là sự phản ánh xã hội, đạo đức là những sản phẩm của điều kiện sinh

hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế: “Xét cho cùng, mọi học thuyết về
đạo đức, đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã
hội lúc bấy giờ” [18, tr.137].
Những phong tục đạo đức của người nguyên thủy, đời sống của xã hội
văn minh là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và các hoạt động nhận thức của
xã hội đó. Sự phát triển từ phong tục đạo đức của người nguyên thủy đến ý
thức đạo đức của xã hội văn minh là kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao
của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người xã hội công xã
18


nguyên thủy là bước đầu tiên của con người thoát khỏi trạng thái động vật.
Hoạt động thực tiễn của xã hội hết sức thấp kém, chưa tạo nên sản phẩm
thặng dư, và do đó tư hữu và chế độ tư hữu có tiền đề khách quan để xuất
hiện. Trong xã hội chưa có hiện tượng áp bức xã hội nhưng con người vẫn bị
nô dịch bởi những lực lượng tự phát của tự nhiên. Tuy nhiên, xã hội nguyên
thủy đã đem lại nội dung “ngây thơ”, “thuần phác” nhưng “tốt đẹp thơ
mộng” cho đạo đức người nguyên thủy. Đạo đức này chưa biết nói đến thói
xấu, cái ác trong xã hội văn minh. Đây là “Ý thức bầy đàn đơn thuần” của
“bản năng được ý thức”.Ý thức đạo đức chưa tách ra thành hình thái độc lập.
Đạo đức của con người nguyên thủy là hình thái sinh thành trừu tượng
của đạo đức.hình thái của nó cũng trừu tượng và không có tính duy lý
Những hình thái kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp tạo nên những cơ
sở kinh tế xã hội và tinh thần cho sự phát triển ý thức. Những hệ thống đạo
đức của các giai cấp khác nhau và mâu thuẫn nhau đều lấy “những quan niệm
đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai
cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và
trao đổi” [18, tr.136]. Những hệ thống đạo đức đó phản ánh và điều chỉnh
những quan hệ xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp, trong khi ý thức nói
chung và đạo đức nói riêng của người nguyên thủy chỉ phản ánh hoàn cảnh

gần nhất có thể cảm giác được. Đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình
thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản xuất tinh thần của xã hội. Đây là một bước
tiến, làm cho đạo đức phát triển cao hơn so với xã hội nguyên thủy. Tuy
nhiên, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những cái ác, tham lam, ích kỷ,
lừa dối mà loài người phải đấu tranh hàng ngàn năm nay để chống lại nó.
Đạo đức của con người ở xã hội văn minh đã phát triển vượt bậc. Do
nhận thức của họ vất bỏ tư duy cụ thể, chuyển sang xây dựng lý luận… Nội
dung đạo đức được thể hiện dưới hình thức kinh nghiệm, khái niệm, lý tưởng,

19


×