Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Sự vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng vào công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.61 KB, 80 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

PHÙNG THỊ MẾN

SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀO
CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI - 2013

Phùng Thị Mến

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


=====***=====

PHÙNG THỊ MẾN

SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀO
CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học
GV. Vi Thị Lại

HÀ NỘI - 2013

Phùng Thị Mến

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Giảng viên Vi Thị Lại, người đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm cho em trong suốt thời
gian qua để em hoàn thành tốt khóa luận của mình.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô trong trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã tạo
điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình.
Trong quá trình làm khóa luận này, do thời gian còn hạn hẹp nên khóa
luận của em không tránh được những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự
chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận này
hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05, năm 2013
Sinh viên thực hiện

Phùng Thị Mến

Phùng Thị Mến

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan những vấn đề trình bày trong khóa luận là của riêng
em, có tham khảo ý kiến của những người đi trước, tham khảo các tài liệu có
liên quan dưới sự hướng dẫn của Giảng viên Vi Thị Lại.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, một công trình sẵn có. Nếu
sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.


Hà Nội, tháng 05, năm 2013
Sinh viên thực hiện

Phùng Thị Mến

Phùng Thị Mến

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ...... 6
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ............................... 6
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ........................ 13
1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cách mạng của
con người Việt Nam trong thời đại mới ........................................................ 26
Chương 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH .............................. 32
2.1. Vị trí, vai trò của sinh viên Việt Nam trong thời kỳ hiện nay ................. 32
2.2. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
Việt Nam hiện nay ....................................................................................... 34
2.3. Thực trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay và những vấn đề
đặt ra ............................................................................................................ 45
2.4. Nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên Việt

Nam hiện nay ............................................................................................... 55
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN VIỆT NAM THEO TƯ
TƯỞNG HÔ CHÍ MINH.............................................................................. 60
3.1. Đổi mới nội dung, thiết kế lại chương trình, đa dạng hoá hình thức giáo
dục đạo đức cho sinh viên ............................................................................ 60
3.2. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác
quản lý, giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay......................... 65
3.3. Phát huy vai trò tích cực của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ............................................................... 69
3.4. Sinh viên cần nâng cao hơn nữa tính chủ động,tích cực trong tự giáo dục
đạo đức......................................................................................................... 70
KẾT LUẬN.................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 74

Phùng Thị Mến

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục đào tạo,
đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ (trong đó có thanh niên, sinh viên). Người cho
rằng: “vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng
người” [20, tr.122].

Thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng giữ vai trò hết sức quan
trọng trong xã hội. Bởi họ là người chủ hiện tại và tương lai của xã hội. Nhìn
vào lực lượng thanh niên có thể đánh giá được sức sống của một xã hội, một
dân tộc. Khi dự báo tương lai của một quốc gia, một dân tộc, người ta
thường nhìn vào thế hệ trẻ của quốc gia, dân tộc đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi
trẻ là mùa xuân của xã hội” [23, tr.67].
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và hết sức quan tâm đến vấn đề
giáo dục thanh niên - trước hết là giáo dục đạo đức, đã có nhiều chủ trương
chính sách về công tác đó. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII đã khẳng định: “Thanh
niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự
đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí
xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có
vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc
vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh
niên”[2, 110].
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến
vấn đề phát triển nguồn nhân lực để đủ sức tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, trong đó công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên nói

Phùng Thị Mến

1

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học


GVHD Vi Thị Lại

chung và sinh viên nói riêng được xem là nhiệm vụ tiên phong trong chiến
lược con người để có những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, để hình
thành một thế hệ con người mới có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức,
có sức khỏe và lao động giỏi, sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu
thương và tinh thần quốc tế chân chính; trong đó xuất hiện một tầng lớp
thanh niên ưu tú có trình độ giác ngộ chính trị cao, có tài năng, đi đầu mở
đường cho đất nước ta bước vào thế kỷ mới.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới trên phạm vi cả
nước, đặc biệt là công tác giáo dục và đào tạo sinh viên trong các trường đại
học, cao đẳng đã có nhiều chuyển biến tích cực: Trình độ giác ngộ chính trị,
trình độ tri thức được nâng lên rõ rệt, tình người, tình nghề nghiệp ngày càng
sâu sắc… Nhưng bên cạnh đó cũng đã xuất hiện dấu hiệu bất ổn như: xu
hướng thương mại hóa trong học tập, học với động cơ và mục đích không
đúng đắn, chỉ cốt đủ điểm để có bằng và sau này chen chân trong xin việc
làm; một số sinh viên còn học tủ học lệch, xem nhẹ việc trau dồi lý tưởng
đạo đức cách mạng, chạy theo lối sống thực dụng, xa hoa… Vì vậy, vấn đề
đặt ra là phải giáo dục đạo đức cho mọi người, đặc biệt là sinh viên - những
chủ nhân tương lai của đất nước học tập theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Vì lẽ đó tôi đã chọn vấn đề “ Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng vào công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng. Đề tài
này không chỉ thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học Việt Nam mà còn
thu hút không ít sự quan tâm của các nhà khoa học nước ngoài.


Phùng Thị Mến

2

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Báo cáo khoa học: “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong điều kiện mới” của Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh (1996-1997).
“Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề và giải pháp”,
đề tài cấp Đại học Quốc Gia Hà Nội (năm 2003).
TS Đặng Thành Quang: “Xây dựng lối sống có văn hoá của thanh niên
Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (2005).
TS. Võ Minh Tuấn: “Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay” (2003).
Thành Duy (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
Nguyễn Thị Hằng: “Xây dựng lối sống có văn hóa cho sinh viên trong
giai đoan hiện nay”. Tạp chí khoa học chính trị, số 5, tr.20.
Đỗ Huy: “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong hệ chuẩn mực của
thời đại mang tên Người”. Tạp chí Triết học, số 2, 1992.
Đặng Sỹ Lộc: “Cán bộ, đảng viên học tập và rèn luyện đạo đức theo

tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 3, 2004.
Giáo sư Vũ Khiêu (chủ biên): “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh –
truyền thống dân tộc và nhân loại”. Nxb, Khoa học xã hội Hà Nội 1993.
Đặc biệt, 3 tập: Tư tưởng Hồ Chí Minh của nhiều tác giả thuộc
chương trình nghiên cứu KX02. Viện Hồ Chí Minh xuất bản 1993.
Những công trình kể trên của các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cơ
bản trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh như: vai trò, chức năng, bản chất

Phùng Thị Mến

3

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

và một số phạm trù đạo đức cơ bản. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu
vào việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và sự vận
dung này vào công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cụ thể của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, công trình nghiên cứu góp phần luận giải sự cần thiết và những giải
pháp chủ yếu nhằm giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, góp phần làm sáng tỏ vai trò, tầm quan trọng của giáo dục

đạo đức cho sinh viên Việt Nam để hình thành ở họ những phẩm chất đạo đức
cần thiết.
Thứ hai, phân tích, đánh giá ưu, khuyết điểm, và những vấn đề đặt ra
trong thực trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, từ thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên, đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nhiên cứu: Nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh
viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: Việc giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho tất cả
mọi người là rất quan trọng và cần thiết. Song, ở đây công trình nghiên cứu
giới hạn trong phạm vi giáo dục đạo đức cho sinh viên - những chủ nhân
tương lai của đất nước học tập và tu dưỡng đạo đức theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.

Phùng Thị Mến

4

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cở sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng phương

pháp lịch sử và phương pháp logic kết hợp việc nghiên cứu lý luận đối với
thực tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch, quy nạp, khái quát làm rõ
mục đích đề tài đề ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý
luận về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên Việt Nam hiện nay, góp
phần năng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho các
công trình khoa học, công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, khía
quát lý luận liên quan đến vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội con người.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm 3 chương, 11 tiết.

Phùng Thị Mến

5

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại
Chương 1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Cơ sở sâu xa nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đó là truyền thống

đạo đức dân tộc. Có thể nói đạo đức là một vấn đề được đặt ra từ rất
sớm, nó có cả trong ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích… của người
Việt Nam. Đó là tính hướng thiện, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong
Tấm Cám, Cây tre trăm đốt… đó là tinh thần:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.”
Hay:
“Lá lành đùm lá rách”
Truyền thống đạo đức dân tộc là xuất phát điểm của tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Bác đã từng nói: “dân tộc ta có truyền thống đạo đức
làm người”, truyền thống tốt đẹp ấy biểu hiện ngay từ buổi đầu dựng
nước, trải qua quá trình lâu dài chống giặc ngoại xâm giữ nước, truyền
thống đạo đức dân tộc càng được bồi đắp phong phú hơn, nó không bất
biến mà luôn được bổ sung phát triển. Đó là tinh thần hi sinh quên mình
vì tổ quốc, là quyết tâm đấu tranh cho độc lập tự do của đất nước, hạnh
phúc của nhân dân.
Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh nước nhà rối ren, nhân dân lầm
than cơ cực, xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trên
quê hương xứ Nghệ khắc khổ nhưng trung kiên và dải đất miền Trung
khô cằn mà bất khuất. Tất cả kết lại là lẽ sống, là lương tri, là lòng nhân
ái, là đạo đức sáng ngời của dân tộc ta. Truyền thống đó đã hun đúc ở
Bác nếp sống giản dị, lòng yêu nước nồng nàn và thương dân sâu sắc.

Phùng Thị Mến

6

K35 GDCD



Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

Kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc ta, trong Báo cáo Chính trị
tại Đại hội Đảng lần thứ II, tháng 2 năm 1951 Hồ Chí Minh đã đúc kết dân ta
có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước. Chủ nghĩa
yêu nước có trong mỗi con người Việt Nam, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo
và lòng dũng cảm của người Việt Nam và là chuẩn mực đạo đức cơ bản của
cả dân tộc. Song, để tinh thần yêu nước trở thành truyền thống thì thì các thế
hệ người Việt Nam đều được giáo dục và rèn luyện theo chủ nghĩa yêu nước
mà trong đó tư tưởng xuyên suốt là hành động của con người luôn luôn vì xã
hội, vì dân tộc và vì Tổ quốc. Điều này không chỉ thể hiện khi Tổ quốc lâm
nguy, mà ngay cả khi thời bình, trong sản xuất, người Việt Nam luôn biết
mình làm việc cho ai và và hành động vì ai. Giải quyết tốt nhận thức làm việc
cho ai và hành động vì ai là vấn đề đạo đức rộng lớn. Nó là cơ sở của tinh
thần tập thể khi con người vượt qua được ranh giới giữa các nhân, gia đình và
cộng đồng; giữa lợi ích riêng và lợi ích chung của Quốc gia.
Hồ Chí Minh đã kế thừa một cách sáng tạo có chọn lọc những giá trị
đạo đức tốt đẹp của dân tộc để xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới
trong tư tưởng đạo đức của mình.
1.1.2. Tinh hoa đạo đức nhân loại
Cùng với những truyền thống đạo đức dân tộc, Hồ Chí Minh luôn
tiếp thu những giá trị đạo đức tiến bộ của nhân loại. Cả phương Đông lẫn
phương Tây, từ Nho, Phật, Lão đến Thiên chúa giáo,… đều ảnh hưởng
trong tưởng đạo đức của Bác. Đó là việc tu dưỡng đạo đức cá nhân của
Khổng Tử, là lòng nhân ái của GiêSu, là tinh thần cứu khổ cứu nạn của

Đức Phật,…

Phùng Thị Mến

7

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

Đối với đạo đức phương Đông, Hồ Chí Minh có sự chắt lọc tài tình,
sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống nho học, được tiếp
xúc với nền giáo dục của Khổng Tử ngay từ nhỏ, đạo đức nho giáo đã ăn
sâu vào tiềm thức của Người. Bác nhận thấy được những tư tưởng tích
cực trong đạo đức nho giáo. Đạo Nho coi đạo đức là gốc, muốn trị quốc
bình thiên hạ trước hết người quân tử phải biết tu thân, phải biết tu dưỡng
đạo đức với chính bản thân mình. Nhìn thấy được tầm quan trọng và sức
mạnh to lớn của đạo đức đối với con người và xã hội, sau này trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh đã từng nói: “Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang” [20, tr. 283].
Tư tưởng đạo đức nho giáo được Hồ Chí Minh việt hóa một cách độc
đáo. Nếu Khổng Tử lấy “trung với vua” làm đầu thì với Hồ Chí Minh phải “
trung vời nước”. Nếu nho giáo lấy “hiếu với cha mẹ” làm trọng thì đến Hồ
Chí Minh không dừng lại ở đó mà phát triển thành “ hiếu với nhân dân”.
Ở Hồ Chí Minh ta luôn thấy cốt cách phong nho, nếp sống giản dị,
tâm hồn cao thượng, sống thân ái với mọi người, gần gũi với thiên nhiên.

Một phong thái nổi bật của đạo đức nho giáo đã thấm vào tư tưởng, tâm hồn
Hồ Chí Minh.
Bên cạnh nho giáo Hồ Chí Minh cũng tiếp thu những giá trị tích cực
của tư tưởng đạo đức Phật giáo. Đây là một tôn giáo đã trở thành quốc giáo
của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Ngày nay, tư tưởng đạo đức Phật
giáo càng ăn sâu trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Bác đã thấy được
tấm lòng đại từ đại bi của Đức Phật. Người từng nói: Đức Phật là từ bi cứu
khổ cứu nạn, muốn chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hi sinh đấu tranh
diệt lũ ác ma. Phải chăng tinh thần cứu khổ, cứu nạn của Đức Phật chính là
đức hi sinh quên mình vì Tổ quốc và nhân dân để cứu nhân dân ra khỏi cảnh

Phùng Thị Mến

8

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

lầm than, đưa đất nước thoát khỏi vòng nô lệ của Bác. Vì mục tiêu cao cả ấy,
Người không ngại khó khăn gian khổ quyết đấu tranh diệt lũ ác ma bán nước
và cướp nước là chủ nghĩa thực dân đế quốc để đem lại độc lập tự do cho đất
nước, hạnh phúc cho nhân dân.
Mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc còn được Bác tìm thấy ở chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã có một thời kỳ khá dài hoạt
động ở Trung Quốc và tận mắt chứng kiến những thành tựu cũng như những
tồn tại của cuộc cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Ở đây Người nhận

thấy ưu điểm của chính sách Tôn Trung Sơn là phù hợp với điều kiện Việt
Nam. Hơn nữa, ở Tôn Trung Sơn cũng là lý tưởng đấu tranh giải phóng dân
tộc, giành độc lập tự do đem lại ấm no hạnh phúc trong cuộc sống cho nhân
dân. Sự gặp nhau về đạo đức giữa hai nhà tư tưởng lớn là tất yếu một khi cả
hai đều mưu cầu độc lập tự do hạnh phúc cho dân tộc.
Tư tưởng đạo đức của Bác hình thành là một quá trình. Bác đã đến
phương Tây, sống ở nhiều nước trên thế giới và một thời gian dài sống tại
thủ đô Paris hoa lệ trung tâm văn hóa Châu Âu và thế giới. Phương Tây là
nơi mà đạo cơ đốc giáo đã trở thành quốc giáo từ rất sớm và bao trùm lên
đời sống của nhân dân đến hôm nay. Gần gũi với nhân dân phương Tây, Hồ
Chí Minh nhận thấy một bộ phận họ cũng có lòng yêu người như Đức Chúa.
Gạt bỏ những hạn chế tiêu cực, Hồ Chí Minh tìm thấy được ở Thiên chúa
giáo lòng nhân ái bao la của GiêSu. Phải chăng tư tưởng này của Đức Chúa
đã bắt gặp lòng khoan dung độ lượng của Hồ Chí Minh và thăng hoa trở
thành tư tưởng nhân đạo, đạo đức cao cả của Người? .
Có thể nói phương Tây là cái nôi của các trào lưu tư tưởng, trong đó
các nhà triết học thời kỳ khai sáng tiêu biểu như Montesquieu,
J.J.Rousseau… cùng với tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của cách mạng tư

Phùng Thị Mến

9

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại


sản Pháp, góp phần quan trọng đối với việc hình thành chủ nghĩa nhân văn,
nhân đạo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Nhưng yêu thương, nhân ái trên lý thuyết vẫn không làm Hồ Chí
Minh hài lòng mà với Bác tư tưởng đó phải được thực hiện hóa cho cả dân
tộc và nhân loại. Từ đó người tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy
được giá trị đạo đức hiện thực của các nhà Cộng sản khoa học: giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc và nhân loại. “Đối với Mác - Ăngghen đạo đức
cao nhất của con người là bản chất tối cao của con người và phải lật đổ tất cả
những giá trị xã hội trong đó con người bị làm nhục bị nô dịch, bị bỏ rơi bị
khinh bỉ” [11, tr.27]. Đối với Lênin đó là hiện thân của tình anh em bốn bể,
là đời tư trong sáng, là nếp sống giản dị, là đạo đức vĩ đại và cao đẹp dành
cho các dân tộc bị áp bức khiến cho trái tim họ hướng về Người không gì
ngăn cản nổi.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu phương pháp làm việc biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó Người biết gạn đục khơi trong mọi giá trị đạo đức
của nhân loại. Đặc biệt là đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Người đấu tranh cho toàn thể các dân tộc bị áp bức đã thẩm thấu toàn bộ vào
tư tưởng đạo đức của Người. Xuất phát từ điều kiện vật chất của xã hội
những nhà đạo đức của chủ nghĩa Mác đấu tranh vì mục đích giải phóng
những kẻ khốn cùng, những người nô lệ trên toàn thế giới, nhằm đem lại
quyền con người thật sự cho họ. Đó là những nhà đạo đức Cộng sản cao cả.
Hệ thống tư tưởng của chủ nghĩa Mác góp phần tạo nên tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh một tư tưởng đạo đức hiện thực, biện chứng, tiến bộ và hiện
đại.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản
chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Lênin đối
với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những

Phùng Thị Mến


10

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt
trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ngay từ những tác phẩm đầu tiên của Chủ nghĩa Cộng sản khoa học
như: “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh” 1845 của Ăngghen, “Luận
cương về Phơ Bách” (1844 - 1847) của Mác cho đến Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản (1848) do hai ông viết chung và nhiều tác phẩm sau đó, Mác Ăngghen đã đề cập những vấn đề rất cơ bản của tư tưởng đạo đức. Đó là
cuộc đấu tranh để xóa bỏ các chế độ áp bức, bóc lột, bất công, bất bình đẳng
trong xã hội, nhằm giải phóng con người, đưa con người lên vị trí làm chủ
và phát triển toàn diện.
V.I. Lênin - người kế tục và phát triển lý luận đạo đức học Mác Ăngghen đã nhấn mạnh sâu sắc hơn vấn đề giải phóng các dân tộc bị thống
trị, bị áp bức bóc lột phải gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc để cho các dân tộc đều được tự do, bình đẳng và phát
triển tiến bộ. Chính Lênin là người đã phân biệt sâu sắc giữa đạo đức của kẻ
thống trị và đạo đức của kẻ bị cai trị, đạo đức có tính giai cấp. Chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đặt tư tưởng lý luận đạo đức trên lập trường của giai cấp
công nhân.
Hồ Chí Minh vừa kế thừa, vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-lênin về đạo đức, vừa có sự phát triển sáng tạo những nguyên lý đó trở
thành những nguyên lý đạo đức mới ở Việt Nam. Đó là kết hợp nhuần

nhuyễn những nguyên lý đạo đức Mác - Lênin với hoàn cảnh, trình độ, đặc
điểm của con người Việt Nam. Về mặt hình thức thể hiện, nếu như Mác Lênin đã thông qua mọi tác phẩm, mọi hoàn cảnh để nói về lý luận đạo đức
một cách tinh tế, có sức thuyết phục cao, thì ở Hồ Chí Minh ngoài cách làm
đó, Người còn để tâm sức, thời gian bàn sâu, cụ thể qua những bài viết ngắn

Phùng Thị Mến

11

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

nhưng súc tích, cô đọng, nhấn mạnh sâu sắc nội dung đạo đức cách mạng
như: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, “cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư”. Bản thân Người còn nêu gương đạo đức và thực
hành đạo đức. Đó không chỉ là sự độc đáo trong phong cách của Người, mà
còn chứng tỏ sự nhuần nhuyễn, uyên thâm trong việc kết hợp vận dụng sáng
tạo lý luận Mác - Lênin nói chung, lý luận về đạo đức học nói riêng.
1.1.4. Nhân tố chủ quan
Xét một cách tổng thể, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không thể có
được nếu không có nhân tố chủ quan của bản thân Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất thế giới,
Người biết xây dựng tư tưởng đạo đức của mình trên nền tảng những tư
tưởng đạo đức của dân tộc và nhân loại. Cố nhiên, đó không phải là tư tưởng
giáo điều mà là một cuộc cách mạng tạo nên sự thăng hoa trong tư tưởng
đạo đức thông qua nhận thức và hành động thực tiễn của chính bản thân

mình.
Với trí tuệ anh minh và tư duy biện chứng, kiến thức uyên thâm tinh
thần tự chủ, Hồ Chí Minh đã xây dựng và thể hiện tư tưởng đạo đức của
mình một cách khoa học cao đẹp. Chúng ta không thể lầm lẫn vào đâu được
với nếp sống giản dị khiêm tốn, tác phong làm việc một cách khoa học, tấm
lòng nhân ái yêu thương con người của Bác. Cuộc đời và sự nghiệp của
Người là minh chứng vô giá cho tư tưởng đạo đức cao cả của Hồ Chí Minh.
Ở Hồ Chí Minh ta thấy cả tâm hồn dân tộc, lương tâm thời đại và tinh hoa
của loài người. Hồ Chí Minh - bình thường mà cao thượng, giản dị ,mà vĩ
đại, một nhà đạo đức của dân tộc và cả nhân loại.
Nhìn một cách toàn diện có thể nói, nếu truyền thống đạo đức dân tộc,
tinh hoa đạo đức Đông, Tây là điều kiện khách quan, là cơ sở quan trọng, thì
đạo đức Cộng sản của Mác - Lênin và nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh là

Phùng Thị Mến

12

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

cội nguồn căn bản, quyết định sự hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Tất cả hội tụ trong tư tưởng và mục đích tối cao của Người: mưu cầu độc
lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc và nhân loại. Tiếp thu những giá trị đạo
đức trước đó, Hồ Chí Minh không sao chép giáo điều mà thổi vào đó một
luồng gió mới, một cái hồn tinh tế sáng tạo, cách mạng hóa nó thành một hệ

tư tưởng đạo đức đặc thù, độc đáo, đạo đức mới, đạo đức cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.2.1. Một số quan niệm về đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm trong
lịch sử loài người và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển, tiến bộ của xã hội. Vì vậy, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử
nhân loại, vấn đề đạo đức luôn luôn được xã hội quan tâm, đặc biệt là các
nhà triết học. Cho đến hiện nay bàn về đạo đức có nhiều hệ thống lý thuyết
tiêu biểu, tiếp cận đạo đức theo các khuynh hướng khác nhau.
Khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm khách quan và
của các nhà thần học. Các nhà triết học duy tâm khách quan Platôn và
Hêghen lấy “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối” để lý giải nguồn gốc và bản
chất đạo đức. Còn các nhà thần học cho đạo đức có nguồn gốc từ thần thánh,
con người và xã hội chẳng qua chỉ là những hình thái biểu hiện cụ thể khác
của đấng thần linh và những chuẩn mực đạo đức do thần thánh tạo ra để giáo
dục con người.
Khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Họ
coi đạo đức như là năng lực “tiên thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức
hay “thiện ý” theo cách gọi của I.Kantơ: là một năng lực có tính nhất thành,
bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt
động mang tính xã hội của con người.

Phùng Thị Mến

13

K35 GDCD



Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

Khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy vật. Họ đã nhìn
thấy đạo đức trong quan hệ của con người, nhưng con người chỉ là một thực
thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên
giai cấp, dân tộc và thời đại. Tiêu biểu cho quan niệm này là nhà triết học cổ
điển Đức: Phoi ơ Bắc.
Khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khác với
các cách tiếp cận của chủ nghĩa duy tâm khách quan và duy vật tầm thường,
C.Mác và Ph.Ăngghen dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử đã xây dựng một học thuyết đạo đức có tính cách mạng. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức gắn với phương thức sản xuất và điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội “Xét đến cùng mọi học thuyết đạo đức đã
có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy
giờ” [12, tr.137]. Như vậy, các hiện tượng đạo đức ở các thời đại khác nhau
nó có tính chất khác nhau, trong xã hội có giai cấp thì đạo đức có tính giai
cấp. Cho nên, không thể coi đạo đức là nhất thành, bất biến, vĩnh viễn như lý
thuyết của một số nhà đạo đức trước kia đề ra.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội, đạo đức giống mọi hình thái khác là phản ánh tồn tại xã hội
của con người. Tiếp tục phát triển quan niệm đạo đức nói trên, G.Bandzeladze
cho rằng: Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự
nguyện, tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và trong quan
hệ với xã hội nói chung. Bản chất đạo đức là sự quan tâm tự giác của những
con người đến lợi ích của nhau, đến lợi ích xã hội.
Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức cụ thể. Song, thuật
ngữ đạo đức được Người sử dụng nhiều lần tùy thuộc vào hoàn cảnh với
nhiều nghĩa khác nhau.


Phùng Thị Mến

14

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

Theo nghĩa rộng, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hình vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm
giàu tính người trong các quan hệ xã hội, kể cả trong quan hệ tư tưởng,
chính trị với cả thiên nhiên và môi trường sống.
Theo nghĩa hẹp, đạo đức là luân lý, những quy định, những chuẩn mực
ứng xử trong quan hệ giữa con người với con người, với công việc, với bản
thân.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại, giữa truyền thống
với hiện đại. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có đạo lý làm người, trong đó
chủ nghĩa yêu nước giữ vị trí chuẩn mực cao nhất và đứng đầu bảng thang
giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Hồ Chí Minh rất chú trọng chắt lọc
tinh hoa đạo đức nhân loại. Trong tất cả mọi vấn đề, Người đều khai thác
yếu tố tích cực, tìm kiếm những “hạt nhân hợp lý” phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng của dân tộc và xây dựng xã hội mới.
Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là
ở cách làm việc, cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét trong 3 mối
quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong 3 mối quan hệ

đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi, chuẩn mực đạo
đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với chính bản thân hay không? Thái độ
của mình đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng chí, đồng đội, cấp
trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng, với Nhà nước, đối
với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý đối với công việc
hay không? Điều đó xác định đạo đức của mỗi con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng đạo đức của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng “một tấm gương sống có giá
trị hơn một trăm bài điếu văn tuyên truyền” [15, tr.263]. Có thể nói, những

Phùng Thị Mến

15

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

phẩm chất cao đẹp của Lênin đã cuốn hút Hồ Chí Minh, thực sự trở thành
định hướng, tạo nên một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức, dẫn tới việc
hình thành những chuẩn mực đạo đức mới, đạo đức cách mạng ở Việt Nam.
Tuy đề cao vai trò của đạo đức nhưng Hồ Chí Minh cũng không coi
nhẹ tài năng, có tri thức mới hoàn thành tốt đẹp mọi nhiệm vụ. Năm 1959
Bác Hồ nói với các giáo viên đang học lớp chính trị “ có tài mà không có
đức là hỏng, có đức mà chỉ có i tờ thì dạy thế nào?” [15, tr.295]. Nói chuyện
tại Đại hội Sinh viên Việt Nam lần thứ II (1958), Người cho rằng: “Thanh
niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế

tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được
gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có
tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài
người” [20, tr. 172]. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập,
nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao.
Yếu tố đạo đức được Người xem là hàng đầu. Người thường nói vừa
“hồng” vừa “chuyên” chứ không phải vừa “chuyên” vừa “hồng”, “đức tài” chứ
không phải “tài đức”. Người còn nói: “có tài mà không có đức là hỏng…đức
phải có trước tài” [20, tr.492]. Bởi vì “địa vị càng cao mà không có đức thì thiệt
hại càng lớn” “tính xấu của một Đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có
hại đến dân”[24, tr.354]. Không những thế Người còn quan niệm đạo đức là
sức mạnh. Bác nói: “ta là “thiện” ta nhất định thắng” [19, tr.227]. Bởi vì có đạo
đức sẽ thu phục được lòng người, sẽ tập hợp quanh mình một lực lượng to lớn,
sẽ làm cho sức mạnh của mình tăng lên gấp bội. Bác nói rằng: “Muốn dân thu
phục phải được dân tin, muốn dân tin phải thanh khiết” [24, tr.55]. Như vậy
yếu tố đạo đức còn mang một ý nghĩa chính trị to lớn. Sức mạnh của đạo đức

Phùng Thị Mến

16

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

còn được Hồ Chí Minh khai thác để cảm hóa những người lầm đường, lạc lối,

kéo họ về phía cách mạng, Bác nói: “Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta
phải lấy tinh thần nhân ái mà cảm hóa họ”[23, tr.246].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh” thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo
cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Người cũng nhắc lại
ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương
tâm của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia
và cống hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và
CNXH.
Mục đích của đạo đức theo Hồ Chí Minh là suốt đời đấu tranh cho
Đảng, cho cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trước hết thể hiện
qua giá trị đạo đức - lý tưởng cao cả mà Người luôn hướng tới, đó là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Giá trị đạo đức cao cả ấy được Hồ Chí Minh
suốt đời phấn đấu. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào
ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [26, tr.517]. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh cũng là sự nghiệp chính trị phi thường, quyết định vận
mệnh sự sống còn của dân tộc.
Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là
toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người
trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực
đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và
ác, về cái không được làm và về nghĩa vụ phải làm.

Phùng Thị Mến

17


K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

Đến nay, các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về
đạo đức. Để có một sự thống nhất cao về khái niệm đạo đức, là vấn đề rất
khó. Quan niệm của tập thể các nhà khoa học ở Học Viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh cho rằng: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện với niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi của con
người. Đạo đức đánh giá hành vi của con người theo chuẩn mực và quy tắc
đạo đức biểu hiện thành khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa
và phi nghĩa.
Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù
hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy có tính tích cực, có tính nhân
đạo. Ngược lại, nếu hệ thống giá trị đạo đức không phù hợp với sự phát
triển, tiến bộ thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
1.2.2. Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là “cái
gốc” của người cách mạng.
Vấn đề đạo đức cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn có
sự nhất quán và tính lôgic cao về tinh thần cách mạng cũng như phương
pháp tư duy, nhất là phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng của

chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc,
chắt lọc tinh hoa đạo đức của nhân loại, Người còn phát triển và sáng tạo
những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Phùng Thị Mến

18

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

Người đã đặt vấn đề đạo đức cách mạng một cách rất lôgic và có cơ sở
khoa học về các quan hệ lợi ích. Hầu như các nguyên tắc đạo đức Người đề ra
trước hết cho mình thực hiện, sau đó mới để giáo dục người khác, có thể nêu ra
một số chuẩn mực cơ bản về đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người, như
sau:
Thứ nhất: Nếu bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn
Đường Kách mệnh, Người chỉ đề ra những nguyên lý chung thể hiện mối
quan hệ giữa ba khía cạnh, phản ánh mối quan hệ đạo đức mới, đạo đức cách
mạng mà người cách mạng cần quán triệt trước tiên, đồng thời nêu cao việc
tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã đề ra những nguyên tắc về
hành vi đạo đức cách mạng đối với người có chức, có quyền trong Chính
phủ từ toàn quốc đến các làng, Người đề nghị: “Mở một chiến dịch giáo dục
lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” [26,
tr.9], để làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước,

yêu lao động.
Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức
cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo
đức mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều
nhất, thường xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà
vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi
người. Phẩm chất này gắn liền với họat động hàng ngày của mỗi con người
và có quan hệ mật thiết với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Chí công
vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính
sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại. Người có tinh thần chí công vô tư là
người ham làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị, công danh,
phú quý, không nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Người cho rằng những cán bộ,

Phùng Thị Mến

19

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD Vi Thị Lại

đảng viên có đầy đủ đức tính nêu trên sẽ đứng vững trước mọi thử thách,
hơn nữa yêu cầu họ phải thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đối
với người, với việc và với chính mình.
Thứ hai: Từ nội dung hẹp của các phạm trù đạo đức cũ, Người mở
rộng, đưa vào đây một nội dung rất mới, tiến bộ, cách mạng, vượt qua những
hạn chế của tư tưởng đạo đức truyền thống và nâng lên thành tư tưởng đạo

đức mới, mà tiêu biểu nhất là các khái niệm: Trung, hiếu, nhân, nghĩa,… Từ
trung với vua thành trung với nước; từ hiếu với cha mẹ mình thành hiếu với
dân; từ nhân chỉ là nhân ái thành nhân dân, từ cần cho riêng mình thành cần
cho cả xã hội; từ kiệm cho riêng mình thành tiết kiệm chung phục vụ cho đất
nước; từ liêm nghĩa là liêm khiết, không tham nhũng, nghĩa là chỉ giữ cho
bản thân mình trong sạch, Người mở rộng thành vấn đề liêm khiết mang tính
xã hội; từ chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn, Người
chuyển sang vấn đề thiện, ác; làm việc chính, là người thiện; làm việc tà là
người ác. Người nhấn mạnh: “Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng.
Phải giữ đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính.
Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái, giữ vững lập
trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân” [25, tr.480]. Trung với nước,
hiếu với dân được coi là nội dung cơ bản nhất, bao trùm nhất trong tư tưởng
đạo đức cách mạng của Người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với Tổ
quốc và nhân dân. “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của dân tộc, nước ở đây là nước của dân, dân là chủ nhân của
đất nước. Người cho rằng bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Xuất phát từ quan
niệm như vậy, nên “hiếu” trong tư tưởng của Người chính là “Hiếu với dân”.
Hiếu với dân không chỉ là xem người dân như đối tượng dạy dỗ, ban ơn mà
là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Ở người, lý luận luôn gắn chặt với thực

Phùng Thị Mến

20

K35 GDCD



×