Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Tư tưỏng hồ chí minh về công tác cán bộ và những giải pháp để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490 KB, 56 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khoá luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Trước tiên, em xin bày tỏ lời cảm
ơn chân thành nhất tới thầy giáo Nguyễn Công Tiến, người đã tận tình hướng
dẫn em hoàn thành khoá luận này.
Qua đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong trường Đại
học sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị
đã giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua và tạo điều kiện để em hoàn
thành khoá luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân,
nên khoá luận khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, em
kính mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên

Nông Thị Lan

SVTH: Nông Thị Lan

1

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp



GVHD: Nguyễn Công Tiến

LỜI CAM ĐOAN

Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy
giáo Nguyễn Công Tiến. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên

Nông Thị Lan

SVTH: Nông Thị Lan

2

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................... 1
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ ............................ 5
1.1. Khái niệm và tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu công tác cán bộ ......... 5

1.2. Nguồn gốc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác cán bộ ................................................................................................... 17
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ .......... 21
Chương 2: Những giải pháp để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay........................................................................ 28
2.1. Yêu cầu khách quan của những giải pháp để hoàn thiện pháp luật
cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ..................................................... 28
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở Việt Nam hiện nay ................................................................. 38
KẾT LUẬN............................................................................................... 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 52

SVTH: Nông Thị Lan

3

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng
cộng sản và Nhà nước Việt Nam xác định là: nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản củạ cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề cán bộ

Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ: Người coi: “Cán bộ là gốc
của mọi công việc” và “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt
hoặc kém” [1, 223].
Kế thừa những tư tưởng đó của chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng và Nhà
nước ta đã rất coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển
và nâng cao đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan tổ chức của mình;
coi đó là lực lượng then chốt đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp cách
mạng. Vấn đề xây dựng và phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện của Đảng và văn
bản pháp luật của Nhà nước.
Tại Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
(6/1996) chỉ ra: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước vừa có trình
độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh
thần trách nhiệm, tận tuỵ, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành
công vụ” [8,132] văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
(4/2001) khẳng định: Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế, cán bộ, công chức,
coi trọng cả năng lực và đạo đức: bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong
thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết
là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và
kỹ năng quản lý hành chính Nhà nước, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức

SVTH: Nông Thị Lan

4

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Nguyễn Công Tiến

theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán
bộ, công chức và kịp thời thay thế những cán bộ công chức yếu kém và thoái
hoá. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo bồi dưỡng,
đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) đã
đưa ra giải pháp: “Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây
dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ công chức có đủ
phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thoả đáng và công bằng”
[12, 254 ]. Đặc biệt Bộ chính trị khoá IX đã có nghị quyết số 48 - NQ/TW
ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hương đến 2020: trong đó có chỉ ra: Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành
chính Nhà nước và ban hành luật công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan,
công chức Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống
tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, đội ngũ cán bộ công chức
ở nước ta ngày càng phát triển vững mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất
ngày càng được năng cao, đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu luận chứng để xây dựng ban hành tiến
tới hoàn thiện hơn pháp luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có phẩm chất đạo đức, vừa
có trình độ năng lực, đảm bảo vừa hồng vừa chuyên, thực sự là công bộc của
nhâ dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác cán bộ và những giải pháp để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay”.


SVTH: Nông Thị Lan

5

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đội
ngũ cán bộ, công chức là đòi hỏi khách quan cấp bách trong giai đoạn hiện
nay. Để đảm bảo điều đó trước hết phải tạo ra được cơ sở pháp lý bằng cách
hoàn thiện chế định pháp luật cán bộ, công chức; Đảng và Nhà nước ta đã xác
định cơ sở chính trị của tiến trình đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vì thế trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn
đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức. Qua tìm hiểu, tôi thấy trong những
năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Liên quan tới nội
dung nghiên cứu của khoá luận này có một số công trình khoa học sau:
Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên), (2001), “Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
Bùi Đình Phong (2002), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ”, Nxb Lao động, Hà nội
Thạc sĩ Luật Phạm Minh Triết (2003), “Hoàn thiện pháp luật về công
chức hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh vực: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác cán bộ. Qua đó vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đề ra những giải
pháp để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác cán bộ.
- Phương pháp cụ thể :

SVTH: Nông Thị Lan

6

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

+ Phương pháp logic
+ Phương pháp lịch sử
+ Kểt hợp logíc - lịch sử
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê …
5. Ý nghĩa của khoá luận
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán
bộ.
Góp phần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để hoàn thiện pháp luật cán

bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ.
Chương 2: Những giải pháp để hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức
ở Việt Nam hiện nay.

SVTH: Nông Thị Lan

7

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

1.1. Khái niệm và tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu công tác cán bộ
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính Phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng. Từ định hướng
đó, Người khẳng định: Cán bộ là cái “gốc” của mọi công việc. Công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thực hiện tư tưởng đó của

Người, các Nghị Quyết của Đảng ta đều giành sự quan tâm cho công tác cán
bộ. Nghị quyết Trung ương 3, khoá VIII của Đảng xác định, cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của Cách mạng; là khâu then chốt của công tác xây
dựng Đảng. Kinh nghiện thực tiễn chỉ rõ mức chính xác của đường lối và việc
cụ thể hoá đường lối chính xác, kịp thời cũng như việc thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng thắng lợi đều tuỳ thuộc ở chất lượng đội ngũ cán bộ.
Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra mục
tiêu chung của công tác cán bộ là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham
nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn nghiệp
vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; có
tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc
khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển,
có số lượng và cơ cấu hợp lý” [12, 292].

SVTH: Nông Thị Lan

8

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Bác Hồ nói nhiều về công tác cán bộ và dường như tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác cán bộ là tư tưởng lớn trong suốt cuộc đời vĩ đại của Người.
Sự vĩ đại của tư tưởng ấy là Bác nói và làm.

Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây
dựng đội ngũ cán bộ trung thành với Tổ quốc và dân tộc, tận tụy kiên cường
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ. Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói:
“Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng: Vấn đề đào tạo cán bộ và trọng
dụng nhân tài là yếu tố phát triển trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
dẫn đến sự chấn hưng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng
đào tạo cán bộ, và sử dụng cán bộ, vì cán bộ là khâu quyết định. Người viết:
“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [14, 14]. Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc chính là quan điểm về con người với tính
cách là chủ thể vừa là mục tiêu, động lực cách mạng. Đó là biểu hiện của
quan niệm lấy dân làm gốc.
Từ những nhận thức sâu sắc đó về công tác cán bộ, chủ tịch Hồ Chí
Minh thấy cần phải có một đội ngũ cán bộ tốt, vì cán bộ là gốc của mọi công
việc nên huấn luyện và đào tạo cán bộ cũng là công việc gốc của Đảng, và để
có đội ngũ cán bộ tốt, Đảng cần phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì bao gồm có hai nội dung lớn đó là :
Đào tạo và sử dụng cán bộ.
- Đào tạo cán bộ:
Ngay từ những năm đầu chuẩn bị thành lập Đảng, Bác Hồ rất coi trọng
công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ để làm hạt nhân nòng cốt cho phong trào.
Công tác cán bộ bắt đầu từ đào tạo, bao gồm đào tạo qua trường lớp và đào
tạo qua thực tiễn.

SVTH: Nông Thị Lan

9

Lớp: K33B - GDCD



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Từ những năm 1925 – 1927, Người đã mở các lớp huấn luyện cán bộ ở
Quảng Châu - Trung Quốc để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho những
thanh niên ưu tú trong nước ra học chính trị. Tác phẩm: “ĐƯỜNG CÁCH
MỆNH” do Bác viết là cuốn “Giáo khoa” đầu tiên để huấn luyện cán bộ. Tổ
chức thanh niên cách mạng đồng chí hội do Bác thành lập là những bước
chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, và cán bộ cho việc thành lập Đảng cộng sản
Đông Dương (1930).
Trong những năm sau đó, Người luôn quan tâm đến công tác đào tạo để
tăng cường bổ xung cán bộ cho Đảng. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII
vào tháng 5/1941, Người nhấn mạnh: Việc đào tạo cán bộ nay đã trở thành
vấn đề gấp rút… các cấp chỉ huy Đảng phải chú ý đặc biệt tới công tác này,
triển khai Nghị Quyết, nhiều lớp huấn luyện cán bộ được mở ra.
Sau cách mạng tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác và Trung
ương, công tác đào tạo huấn luyện cán bộ được đẩy mạnh hơn, liên tục mở
các lớp đào tạo, huấn luyện như: lớp Nguyễn Aí Quốc (1946); lớp Tô Hiệu
(1947); lớp Trần Phú (1948) và lớp tại chức để huấn luyện đường lối kháng
chiến kiến quốc.
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả huấn luyện cán bộ,
thang 10 năm 1947, Bác Hồ viết cuốn “Sửa đổi lối làm việc” với bút danh
XYZ. Sách xuất bản lần đầu vào năm 1948 xuất bản lần thứ 7 vào năm 1959,
cuốn sách này trở thành một tài liệu quý cho tất cả các khoá huấn luyện cán
bộ ở trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, có thể nói “Sửa đổi lối làm việc” là
cuốn sách “Gối đầu gường” của cán bộ, vì đây là tác phẩm mà nội dung của
nó chứa đựng những lời chỉ huấn cơ bản thiết thực đối với mỗi cán bộ lãnh
đạo trước đây, cũng như hiện nay. Cuốn sách lại trình bày một cách ngắn gọn,

dễ hiểu, dễ đọc. Mỗi câu, mỗi chữ có ý nghĩa mục đích, chứa đựng những

SVTH: Nông Thị Lan

10

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

quan điểm lớn về công tác cán bộ, về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch
vững mạnh.
Hồ Chí Minh xác định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” công tác
cán bộ là công tác cơ bản, của công tác cơ bản. Về mặt lý luận, cần xác định
đây là cái gốc của mọi công việc, chứ không phải cái gốc của ý thức hệ, cái
gốc để làm nên lịch sử. Người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý mà
không tin, không yêu là người cán bộ không có phẩm chất lãnh đạo. Muốn
trồng được cái gốc vững chắc của mọi công việc, phải xác định vấn đề đào
tạo, huấn luyện cán bộ làm sao cho đúng, cho tốt. Muốn đào tạo tốt, thì phải
biết phát hiện những người có thể làm cán bộ. Trong khi đào tạo cán bộ,
Người yêu cầu phải hướng cho cán bộ vào một nội dung chính trị đúng đắn và
nội dung chuyên môn sâu sắc. Cũng như Người đã từng nói: “Muốn lập làng
kiểu mẫu thì trước hết phải đào tạo ra những người kiểu mẫu để làm cán bộ
cho làng đó, đội đó” [15, 7]
Trong suốt cuộc đời vĩ đại của Bác, công việc đào tạo cán bộ luôn được
chăm lo cả hiện tạ và tương lai - xem như một nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng. Người dạy: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như những người

làm vườn vun trồng những cây cối quý báu” [15, 30] và chỉ rõ “Không phải
vài ba tháng hoặc vài ba năm mà đào tạo được một cán bộ tốt. Cần phải công
tác đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được” [15,30 ] công tác đào tạo phải
được tiếp tục trong quá trình sử dụng cán bộ.
Đào tạo cán bộ bao gồm “nuôi dạy”, huấn luyện, bồi dưỡng. Trong việc
huấn luyện cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu phải xác định rõ: Huấn luyện ai? Ai
huấn luyện? Huấn luyện gì? Huấn luyện thế nào? Tài liệu huấn luyện phải ra
sao?. Vấn đề bao trùm là xác định và thực hiện cho được mục đích của huấn
luyện để làm gì?

SVTH: Nông Thị Lan

11

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Trong công tác huấn luyện phải có hiệu quả. Hồ Chí Minh đã quán triệt
sâu sắc quan điểm, người cán bộ phải được huấn luyện về mọi mặt phải giỏi
về chuyên môn nghiệp vụ, và phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc
ấy, cán bộ ở môn nào, nghề nào, ngành nào phải được học và thành thạo ở
môn ấy, đấy là yếu tố quan trọng để hình thành “tài năng”, đồng thời phải
được huấn luyện về bản lĩnh chính trị, về phẩm chất đạo đức về văn hoá, và
cả về lý luận, đó là những yêu cầu cơ bản trong việc huấn luyện cán bộ. Trong
đó, Người chỉ rõ việc huấn luyện chớ để chạy theo số lượng mà không coi
trong chất lượng.

Việc huấn luyện phải đúng mục đích, đúng đối tượng, nội dung huấn
luyện phải thiết thực, chu đáo bằng nhiều hình thức và phải tiếp tục trong hoạt
động thực tiễn lâu dài của cán bộ. phải huấn luyện cán bộ thật tốt về mặt lý
luận với phương châm,phương pháp học tập là lý luận liên hệ với thực tế. Học
phải đi đôi với hành, làm việc gì học việc ấy có như vậy mới có hiệu quả và
đội ngũ cán bộ được huấn luyện mới có thể sử dụng được.
- Sử dụng cán bộ:
Bên cạnh việc đào tạo và huấn luyện cán bộ, Hồ Chí Minh còn chú ý
đến vấn đề sử dụng cán bộ. Để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu thực
tiễn cách mạng, vì vậy đào tạo và sử dụng cán bộ phải là hai quá trình song
song, có mối quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau trong công tác cán bộ.
Sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh đã nêu ra các luận điểm quan trọng:
Thứ nhất, phải “hiểu và đánh giá đúng cán bộ”: có đánh giá đúng cán
bộ mới có thể lựa chọn, bố trí, cất nhắc cán bộ cho đúng. Hiểu đúng cán bộ
nghĩa là hiểu người, biết việc cán bộ mới có thể đánh giá đúng cán bộ. Hồ Chí
Minh cho rằng: Biết người cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là
dễ. Đã không tự biết mình thì khó mà biết người… không biết sự phải trái ở

SVTH: Nông Thị Lan

12

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

mình chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu. Người ta thường hay

phạm phải những chứng bệnh sau này:
1. Tự cao tự đại
2. Ưa người ta nịnh mình
3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người
4. Đem một cái khuôn khổ nhất định chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi
người khác nhau
Phạm một trong bốn chứng bệnh đó thì cũng như: mắt đã mang kính có
màu ,không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông…phải sửa
chữa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem
xét cán bộ càng đúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta khi nhìn nhận, đánh giá cán bộ
phải tránh định kiến, hẹp hòi, chỉ thấy cây mà không thấy rừng, chỉ thấy
khuyết điểm mà không nhìn thấy ưu điểm. Vì người đời ai cũng có chỗ tốt và
chỗ xấu. Đánh giá “xem xét cán bộ không chỉ xem người ngoài mặt mà xem
tính chất của họ. Không chỉ xem xét một công việc, một lúc mà phải xem xét
toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ” [21, 4]. Chẳng những phải xem xét
công tác của họ mà còn phải xem cả cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem
xét cách viết, cách nói của họ còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với
lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng những phải xem xét ta như thế nào
mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào.
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các đồng chí cán bộ lãnh đạo phải gần
gũi với mọi người, phải sáng suốt đừng để bọn vu vơ bao vây mà xa cách cán
bộ tốt. Phải tỉnh táo phân biệt đúng - sai - thật - giả, phân biệt những người
thẳng thắn, trung thực với kẻ cơ hội, nịnh bợ. Nếu không làm được như vậy
đã tạo ra kẽ hở cho kẻ xấu luồn lách, phá hoại ngay từ bên trong bộ máy của
ta.

SVTH: Nông Thị Lan

13


Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm đến tiêu chuẩn và chất lượng,
hiệu quả công tác làm thước đo để xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ.
Thứ hai, “Phải khéo dùng cán bộ”
Đó là tư tưởng mà Hồ Chí Minh nêu rõ phải dựa trên cơ sở đánh giá họ
để bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc và đúng sở
trường. Qúa trình này phải gắn liền với thực hiện dân chủ, công khai. Hiểu và
sử dụng cán bộ đúng sẽ tạo ra cho họ yên tâm vui vẻ công tác, phát huy hết
khả năng trong công việc, thực hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính
phủ.
Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát huy và nâng cao giá trị
truyền thồng của cha ông “Dụng nhân như dụng mộc” thành chuẩn mực,
nguyên tắc của công tác cán bộ. Lời dạy giản dị và sâu sắc của Bác luôn cần
phai học hỏi và làm theo: “Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải
dùng chỗ hay của người và giúp đỡ người chữa chỗ dở. Dùng người như
dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng cong đều tuỳ chỗ mà dùng
được” [3, 32]. Nếu không biết tuỳ tài mà dùng chẳng khác gì thợ rèn thì bảo
đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử cả hai người đều thành công
làm được như vậy một mặt vừa khắc phục được sự lãng phí chất xám của các
bộ mặt khác sẽ phat huy tốt năng lực sở trường của cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: phải cân nhắc cán bộ cho đúng và
phải dùng cán bộ cho khéo. Người viết: khi cân nhắc cán bộ phải xem xét rõ
người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy mến phục

không? nghĩa là phải xem xét uy tín cán bộ đối với quần chúng đến mức độ
nào phải xem người ấy xứng đáng với việc gì. Nếu có người tài mà không
dùng đúng tài của họ, cũng như dùng không đúng việc, nếu cân nhắc không
cẩn thận không khỏi đem người chỉ nói mà không làm vào những địa vị lãnh
đạo, như thế rất có sự phê phán thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng

SVTH: Nông Thị Lan

14

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

người. Người đã chỉ ra tác dụng của việc bố trí sử dụng đúng người, đúng
việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: khéo dùng cán bộ, dùng đúng cán bộ
là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, bởi vì không đánh giá, sử dụng đúng cán
bộ sẽ dẫn đến sử dùng phí nhân tài là sự lãng phí lớn của đất nước: “Lãnh đạo
khéo thì tài nhỏ hoá ra tài to, lãnh đạo không khéo thì tài nhỏ” [19, 21].
Khéo dùng cán bộ, Hồ Chí Minh cũng đưa ra cảnh báo những biểu hiện
tiêu cực trong việc sử dụng cán bộ và cần phải được khắc phục :
1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết bầu bạn, cho họ là chắc
chắn hơn người ngoài.
2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người
chính trực.
3. Ham dùng người hợp tính tình với mình, mà trách những người tính
tình không hợp với mình.

Vì biết bệnh đó, kết quả những người kia đã làm bậy, mình cũng cứ bao
dung, che chở, bảo vệ, khiến cho chúng ngày càng hư hỏng. Đối với những
người chính trực thì bớt bới lông tìm vết để trả thù, như thế cố nhiên là hỏng
cả công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo.
Thứ ba, để sử dụng cán bộ Đảng phải giúp đỡ cán bộ.
Kiểm tra giúp đỡ cán bộ, trước tiên, Đảng phải thực hiện chế độ kiểm
soát thường xuyên và có nề nếp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm kiểm soát có ba điều lợi:
Biết rõ cán bộ, nhân viên tốt hay xấu.
Biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của cơ quan.
Biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của chỉ thị Nghị quyết.
Những kiểm soát không phải đúng với cấp dưới, tách rời người cán bộ
với tất cả các quan hệ trên - dưới - ngang - dọc của họ mà phải kiểm soát có
hệ thống, cả từ dưới lên. Điều kiện quan trọng nhất để kiểm soát là người từ

SVTH: Nông Thị Lan

15

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

bên trong sẽ là điều kiện. Vì vậy, sự trong sạch từ bên trong sẽ là tiền đề của
sự kiểm soát. Thiếu tiền đề này việc kiểm soát chỉ gây thêm tác hại.
Đối với cán bộ phạm sai lầm phải giúp sửa chữa khuyết điểm kịp thời
không nên để mắc khuyết điểm kịp thời, không nên để mắc khuyết điểm to rồi

mới đem ra “đập”, làm cho cán bộ bị xử lý sẽ mất tự tin, sinh ra nản chí, từ
nản chí thành ra vô dụng. Phê bình cán bộ phải bằng thái độ chân thành, giúp
họ nhận ra sai lầm để vui lòng sửa chữa, chứ không nên công kích, cưỡng bức
sửa chữa. Phải tuỳ mức độ nặng nhẹ của sai lầm mà sử phạt cho đúng, hợp lý
hợp tình.
Cuối cùng, kiểm tra, giúp đỡ và phê bình cán bộ có nghĩa là phải đồng
nhất yêu thương cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ để đào tạo được một cán bộ tốt phải mất
một thời gian dài, nhưng trong lúc tranh đấu, lại để mất cán bộ tốt phải mật
thiết yêu thương cán bộ. Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương không
phải là vỗ về, nuông chiều, phó mặc, mà thương yêu là giúp đỡ họ học tập
thêm, tiến bộ thêm, là kẻ thấy khuyết điểm phải giúp họ sửa chữa ngay để vun
trồng cái thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ.
Thứ tư, sử dụng cán bộ còn đòi hỏi phải biết kết hợp các thế hệ cán bộ
một cách đúng đắn.
Trong đội ngũ cán bộ có các lớp già, trẻ, lớp cũ, lớp mới. Việc kết hợp
các thế hệ cán bộ, giữa cán bộ già có quá trình cống hiến, đóng góp với lớp
cán bộ trẻ được Hồ Chí Minh rất quan tâm và giải quyết đúng đắn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp đúng đắn cán bộ cũ,
cán bộ già với cán bộ mới và cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán
bộ nữ. Người nói, Đảng phải khéo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ không
nên coi thường cán bộ trẻ, còn cán bộ trẻ thì không được kiêu ngạo, phải
khiêm tốn học hỏi đồng chí cán bộ già có kinh nghiệm.

SVTH: Nông Thị Lan

16

Lớp: K33B - GDCD



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Như vậy, bốn nội dung trên trong việc sử dụng cán bộ có liên quan chặt
chẽ tác động qua lại lẫn nhau, từ chỗ hiểu cán bộ sẽ cá cách đánh giá đúng
cán bộ, có cách đánh giá đúng cán bộ mới có cách sử dụng cán bộ cho đúng
chỗ, cho phù hợp, sử dụng cán bộ rồi thì phải thường xuyên kiểm tra, giúp đỡ
chứ không thể bỏ mặc. Quan trọng hơn, trong tất cả các khâu, phải biết kết
hợp các thế hệ cán bộ cho đúng đắn hợp lý.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu công tác cán bộ
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh Hồ Chí Minh rất chú ý
tới xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ cho tốt và yêu cầu người cán bộ
phải có đủ đức, đủ tài, trong đó đức là gốc, đội ngũ cán bộ phải được tổ chức
hợp lý và có hiệu quả. Người đã nêu ra những yêu cầu sau về công tác cán bộ:
Một là, Hồ Chí Minh xác định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [1, 223].Công
tác cán bộ là một công tác cơ bản và quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, Người cán bộ phải tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là
yêu cầu đầu tiên cán bộ phải là người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh “tài và đức”, trong công tác cán
bộ thì Người chú trọng đến tiêu chuẩn cán bộ là “hồng và chuyên”. Đó là hai
tiêu chuẩn cơ bản của Người yêu cầu mỗi cán bộ cần phải có. Tài và đức là
mối quan hệ hữu cơ mà tuỳ theo tính chất của công việc mà định lượng và
định tính cho đúng. Người có lúc nói “tài và đức”, nhưng lại có lúc nói “đức
và tài”. Điều đó phản ánh tư duy linh hoạt, cô đọng mỗi khi bàn về tài và đức,
đức và tài.
Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng của người cán bộ. Vấn đề này
được Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong các tác phẩm, bài viết,

bài nói của Người về công tác cán bộ, trong quá trình tiến hành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

SVTH: Nông Thị Lan

17

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Đạo đức ở đây được Người xác định nó là đạo đức cách mạng, mà đã nói đến
cách mạng tức là biến cái cũ thành cái mới, sáng tạo. Vì vậy, đạo đức cách
mạng bao gồm yếu tố tài năng bên trong.
Ba là, xây dựng tư cách, nhân cách tác phong của người cán bộ. Với
Hồ Chí Minh tư cách là sự thể hiện đối xử có văn hoá của người cán bộ với
nhân dân, với đồng nghiệp, đồng chí của mình; tư cách của Người là sự đúng
đắn của người cán bộ đó. Nhân cách chính là tư cách của con người và của
người cán bộ.
Tác phong là sự thể hiện ở cách làm việc và ngăn nắp trong sinh hoạt
hàng ngày, hàng giờ và phẩm chất cônng tác của người cán bộ. Người cho
rằng, một người cán bộ mà có tư cách, nhân cách, tác phong là người cán bộ
tốt. Toàn bộ tư cách, nhân cách, tác phong theo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ là gói trong hai chữ: trung thực với chính mình, gia đình mình, những
người thân với đồng nghiệp, đồng chí của mình.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cán bộ phải xuất đời phấn đấu hi sinh cho lý tưởng
của Đảng, người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương

sáng trong cuộc sống.
Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong
nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là toàn bộ tấm gương
sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều
dài của dân tộc trỏ thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ
dân tộc ở trên đất nước Việt Nam.
Đồng thời, về năng lực cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực
hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân.Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân đây là yêu cầu
đối với cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng,
người cán bộ bằng hành động thực tế của mình phải làm cho dân tin, dân yêu,

SVTH: Nông Thị Lan

18

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

dân kính, dân phục; cán bộ phải là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của
nhân dân.
Cán bộ phải luôn học tập để nâng cao về mọi mặt và phải có một tác
phong tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu đại
khái, ham chuộng hình thức phô trương cho oai làm đại khái qua loa. Phải sâu
sắc tỉ mỉ nắm việc lớn phải giải quyết bắt đầu từ những việc cơ bản, không
cận thị (tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc

quan sát phải chân đi, miệng nói, tay làm không như thế thì đầy túi quần
thông cáo, đầy túi áo công văn nhưng công việc không chạy.
Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật
của Đảng là thường xuyên đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này
đúng như điều tất yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta không phải trên trời
sa xuống, nó ở trong xã hội mà ra, do đó Đảng phải thường xuyên tự đổi mới.
Riêng về phong cách công tác của cán bộ Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các
vấn đề chủ yếu: sửa chữa cách lãnh đạo về công tác cán bộ biết chọn trình tự
ưu tiên công việc; thường xuyên tổng kết công tác phải luôn có sáng kiến sâu
sát, gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; phải kiểm tra kiểm
soát chặt chẽ; có lãnh đạo chung nhưng có chỉ đạo điểm.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc. Đó là những quan niệm chỉ đạo chung và công tác đổi mới, hoàn
thiện pháp luật cán bộ là một trong những nhiệm vụ cần kíp, vì cán bộ luôn là
những người đứng đầu là gốc của mọi công việc, chính vì lẽ đó mà Hồ Chí
Minh rất quan tâm tới đặc điểm của cán bộ, và công tác cán bộ.

SVTH: Nông Thị Lan

19

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

1.2. Nguồn gốc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ

Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng
Sản Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm
1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế cộng sản. Hồ Chí Minh là
lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt cuộc đời chăm lo cho lãnh đạo, rèn
luyện Đảng, đồng thời là một chiến sỹ kiên cường của phong trào cộng sản và
công nhân Quốc tế.
Phát huy truyền thống và phương sách dùng người của cha ông ta để
lại, đồng thời tiếp thu, kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin; Hồ Chí
Minh đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, coi cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã ý thức rõ
việc dùng người là quốc sách nó không phải là nguyên nhân duy nhất, nhưng
có tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, sự trường tồn và phát triển
của dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăng ghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán
bộ và công tác cán bộ của giai cấp vô sản. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin bất cứ
giai cấp và chính Đảng nào muốn giành và giữ được chính quyền Nhà nước
thì trước hết phải có đội ngũ con người làm đầu tầu, làm nòng cốt. Giai cấp vô
sản và chính đảng của mình cũng vậy, phải đào tạo được đội ngũ cán bộ trung
thành, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng đó là đội ngũ cán bộ chuyên
nghiệp, như Mác đã khẳng định: Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những
người sử dụng lực lượng thực tiễn.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng: “…mọi
hoạt động cùng nhau của con người đòi hỏi: một mặt phải có những cá nhân
giữ vai trò quản lý, chỉ huy, lãnh đạo, mặt khác, phải có những người bị lãnh

SVTH: Nông Thị Lan

20


Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

đạo, bị quản lý” [16, 29]. Trong quá trình đó tất yếu xuất hiện một hình thức
đặc thù của quan hệ xã hội đó là quan hệ giữa lãnh đạo và phục tùng. Hình
thức của mối quan hệ này có thể được duy trì và phát triển tốt trong điều kiện
người lãnh đạo có uy tín. Uy tín của người lãnh đạo được hiểu như sau: đó là
sự kết hợp giữa quyền lực và sự ảnh hưởng của người đó đến người khác,
được người khác tôn trọng và kính phục, hay uy tín là sự kế thừa chung có ý
nghĩa xã hội với quyền uy và ảnh hưởng của một cá nhân, một nhóm hay một
thiết chế xã hội nào đó trong một lĩnh vực nhất định của xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen không nói nhiều tới uy tín của người lãnh đạo,
người cán bộ nhưng lại nói nhiều tới quyền uy. Song quyền uy theo quan
điểm của hai ông nó bao hàm, chứa đựng cả vấn đề uy tín trong đó. Bởi theo
Ăngghen: Quyền uy nói ở đây là có nghĩa chỉ ý chí của người khác mà người
ta buộc phải tiếp thu; mặt khác quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề, sự
phục tùng của quần chúng của người lãnh đạo không phải được xây dụng trên
cơ sở nhũng tiêu chí của sự trừng phạt làm sợ hãi hay đồng thuận giữa chủ thể
và khách thể.
Quyền uy thực sự của người lãnh đạo giữ vai trò hết sức quan trọng.
Đôi khi nó giữ vai trò quyết định cho sự tôn trọng của một tổ chức, một tập
thể, Ph.Ăngghen viết: “Trên một chiếc tàu đi giữ biển cả thì càng thấy rõ hơn
hết là cần phải có quyền uy, hơn nữa phải có quyền uy độc nhất. Trên tàu lúc
gặp nguy hiểm thì sinh mệnh của mọi người phụ thuộc vào sự phục tùng tức
khắc không điều kiện của tất cả mọi người vào ý chí một người” [17, 30]
Quyền uy của những người cộng sản theo quan điểm của những nhà

Kinh Điển, được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn khác so với quyền uy quan
liêu dưới chế độ tư bản và dưới con mắt của những nhà học giả tư sản.
V.I.Lênin cho rằng quyền uy đó là quyền uy của cuộc đấu tranh muôn hình
muôn vẻ trong hàng ngũ của chính quân đội xã hôi chủ nghĩa toàn thế giới.

SVTH: Nông Thị Lan

21

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Quyền uy đó mà những người vô sản, nhân dân lao động, những người tiến bộ
và ưa chuộng hoà bình phải đổ mồ hôi, sức lực, trí tuệ và cả xương máu của
mình mới giành lại được. Bởi vậy, uy tín của nhà lãnh đạo, quản lý dưới xã
hội xã hội chủ nghĩa cũng có cơ sở tâm lý xã hội của nó, đó là quyền uy về
chính trị của nhà lãnh đạo do Đảng và Nhà nước giao cho. Tuy nhiên mới chỉ
là điều kiện khách quan để nhà quản lý lãnh đạo xây dựng uy tín của mình,
còn người quản lý lãnh đạo có xây dựng được uy tín cho mình hay không còn
phụ thuộc vào điều kiện chủ quan giữ vai trò hết sức quan trọng đó là: Những
phẩm chất đạo đức, nhân cách, năng lực hoạt động của cá nhân trong những
điều kiện, công việc cụ thể quyết định. Trong những phẩm chất ấy thì phẩm
chất chính trị, bản lĩnh chính trị luôn giữ vai trò chủ đạo.
Về đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cương vị khác nhau đều phải
coi họ là người chịu trách nhiệm cá nhân trước toàn bộ hoạt động của một tập
thể mà họ phụ trách. Cần phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn cá nhân

của từng cán bộ, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải tìm cho được những
người có đủ năng lực phẩm chất để đảm đương các cương vị cán bộ lãnh đạo
chủ chốt. Sự lựa chọn cán bộ thực sự khách quan và dân chủ, đây là vấn đề
hết sức khó khăn nhưng không thể không kiên trì.
Trong quần chúng cách mạng có nhiều người có tài và có “cái tâm”
trong sáng. Vấn đề là phải biết phát hiện bồi dưỡng, đào tạo sử dụng như thế
nào là trách nhiệm và nghệ thuật của Đảng cầm quyền, muốn có phong trào
quần chúng , cần phải biết bồi dưỡng thế hệ cán bộ mới để họ có đủ các điều
kiện kế cân xứng đáng với truyền thống cách mạng của các thế hệ đi trước,
các thế hệ đi trước phải coi đây là trọng trách của lịch sử giao phó, trước sự
đòi hỏi của lịch sử nếu không họ sẽ có tội là đã cản trở bước tiến của lịch sử.
Qua đó, Lênin đã nêu ra một số luận điểm chủ yếu về cán bộ lãnh đạo
và công tác cán bộ.

SVTH: Nông Thị Lan

22

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

Trước hết, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc của toàn
dân, tiến hành trên quy mô rộng lớn, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ đóng
vai trò tổ chức các quá trình thực tiễn một cách có hiệu quả.
Thứ hai, cách mạng phải đào tạo một đôi ngũ cán bộ đủ sức gánh vác
nhiệm vụ lịch sử mới, chính quyền cách mạng có thể và cần sử dụng các

chuyên gia tư sản, một số nhân viên của chính quyền cũ. Song, những vị trí
chủ chốt của bộ máy Đảng, Nhà nước, các lực lượng vũ trang, cơ quan kinh tế
phải là công - nông. Việc đánh giá cơ cấu, chất lượng cán bộ không thể thoát
ly tình hình, Đảng và Nhà nước phải gấp rút xây dựng lấy cho mình đội ngũ
cán bộ lãnh đạo từ chính những người do lịch sử để lại.
Thứ ba, mỗi khi cách mạng chuyển giai đoạn phải có sự thay đổi cần
thiết trong cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ. Mỗi bước chuyển như thế là một lần
phải đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời vừa phải hoàn thiện cả về
pháp luật cán bộ.
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, Hồ Chí Minh
cũng nhận thấy: Con người là vốn quý nhất, là lực lượng to nhất và Người
luôn coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, vì thế công việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, nếu có được cán bộ tốt, ngang tầm
là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi. Từ đó,
trong hoạt động cách mạng của mình tư tưởng về cán bộ, công tác cán bộ của
Người được hình thành phát triển thông qua các công việc cụ thể của thực
tiễn, từ việc phát hiện lựa chọn, đánh giá cán bộ đến việc dùng cán bộ. Từ
việc huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng, đến việc đề ra pháp lệnh cán bộ đến việc
khen thuởng, phê bình, kỷ luật cán bộ…Tất cả những yếu tố đó nằm trong
mối quan hệ mật thiết, tạo nên sự hoàn chỉnh phong phú của tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác cán bộ.

SVTH: Nông Thị Lan

23

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Nguyễn Công Tiến

1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác
cán bộ
Hồ Chí Minh là một trong những người luôn coi trọng đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ có đủ sức mạnh để hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của
Đảng. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to
lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Người không chỉ dừng lại ở những bài nói, bài viết, những chỉ thị Nghị
quyết về cán bộ mà còn trực tiếp mở các lớp đào tạo huấn luyện cán bộ đích
thân Người tham gia giảng dạy, chỉ dẫn công việc, giáo dục hướng dẫn cán bộ
trong thực tiễn công tác.
Về vị trí công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ “là dây
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt,
toàn bộ máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân. Nếu cán bộ dở
thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [14, 54]. Đồng thời cán bộ
là người đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu
rõ để đặt chính sách cho đúng. Hồ Chí Minh coi: cán bộ là cái gốc của mọi
công việc. Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, cán
bộ là tiền vốn của đoàn thể có vốn mới làm ra lãi. Không có cán bộ tốt thì
hỏng việc tức là lỗ vốn. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách
mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là
do Đảng, Nhà nước, đoàn thể phân công và quyền lực của cán bộ cũng như
nhiệm vụ của người cán bộ là do nhân dân giao cho.
Quan điểm của Hồ Chí Minh khác với một số lãnh tụ đương thời trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Một số người lúc đó thường nói
“cán bộ quyết định tất cả”. Luận điểm khái quát nhất của Hồ Chí Minh về vị


SVTH: Nông Thị Lan

24

Lớp: K33B - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Công Tiến

trí, vai trò của cán bộ là: cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành, vì vậy cán bộ có vai trò, vị trí rất quan trọng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ nêu trên rất cụ thể, thể hiện
quan điểm cách mạng và khoa học về vai trò của cán bộ. Quan niệm cán bộ
quyết định công việc, cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc ở đây bao
gồm từ việc nghiên cứu tình hình, nắm chắc tình hình thực tiễn để xác định
đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn đến việc cụ thể hoá đường lối, nhiệm
vụ chính trị đó.
Qua đó thấy được rằng: Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cán bộ ở một vị trí
tính chất quyết định, khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất bại
của chính sách đó là cách tổ chức công việc do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi
kiểm tra. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ đã toát lên một điều: cán
bộ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng mang tính chiến lược của sự nghiệp
cách mạng.
Đồng thời, cần phải thấy rằng khi bàn về vai trò, vị trí của người cán
bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong mối quan hệ đa chiều. Khi coi cán bộ
là gốc của mọi công việc, Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đó, ở chỗ có hay
không có cán bộ để cho công việc mà Người lưu tâm đến điểm gốc của vấn

đề là chất lượng cán bộ từ đó mới khẳng định được một điều : “muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [1, 23], Hồ Chí Minh đòi
hỏi người cán bộ tốt, nếu có cán bộ tốt thì thành công , còn nếu không có cán
bộ tốt thì hỏng việc, tức là thất bại. Vì vậy khi nào nơi nào làm tốt công tác
cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được nhiều
thắng lợi và ngược lại. Với quan điểm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng
đến công tác cán bộ, từ đánh giá lựa chọn huấn luyện thử thách rèn luyện, sử
dụng, đãi ngộ cán bộ.

SVTH: Nông Thị Lan

25

Lớp: K33B - GDCD


×