Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Lựa chọn bài tập phát triển sức nhanh nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển điền kinh trường THPT kim anh sóc sơn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.71 KB, 49 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Thị Thảo
Sinh viên lớp K34 GDTC – GDQP, trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, chưa được bảo vệ trước
Hội đồng khoa học nào. Toàn bộ các vấn đề đưa ra bàn luận, nghiên cứu, đều
mang tính thời sự, cấp thiết đúng với thực tế khách quan ở trường THPT Kim
Anh – Sóc Sơn – Hà Nội.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2012
Sinh viên

Nguyễn Thị Thảo


DANH MỤC VIẾT TẮT

GDTC

: Giáo dục thể chất

TDTT

: Thể dục thể thao

THPT

: Trung học phổ thông

XPC

: Xuất phát cao


XPT

: Xuất phát thấp

TĐC

: Tốc độ cao

T

: Tiết



: Mục đích

YC

: Yêu cầu.

VĐV

: Vận động viên

HLV

: Huấn luyện viên

GV


: Giáo viên

STT

: Số thứ tự.

TN

: Thực nghiệm

ĐC

: Đối chứng

TTN

: Trước thực nghiệm

STN

: Sau thực nghiệm



: Thời điểm

(s)

: Giây


THL

: Trước huấn luyện

SHL

: Sau huấn luyện


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số biểu
bảng
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4

Bảng 3.5

Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10
Biểu đồ 3.1
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.3
Biểu đồ 3.4

Nội dung

Thực trạng đội ngũ giáo viên TDTT trường THPT
Kim Anh
Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và
học tập môn GDTC
Bài tập phát triển sức nhanh trong chạy 100m đang
được trường THPT Kim Anh áp dụng
Kết quả các test kiểm tra sức nhanh của nam đội tuyển
điền kinh trường THPT Kim Anh năm học 2008 2009
Kết quả các test kiểm tra sức nhanh của nam đội tuyển
điền kinh trường THPT Kim Anh năm học 2009 2010
Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập phát triển phát
triển sức nhanh (n=20)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập phát triển sức
nhanh (n=20)
Kết quả các test kiểm tra trước thực nghiệm của 2
nhóm (nA = nB =8)
Tiến trình thực nghiệm
Kết quả các test kiểm tra sau thực nghiệm của 2 nhóm
(nA = nB = 8)
Biểu diễn kết quả chạy 30m TĐC trước và sau thực
nghiệm của 2 nhóm
Biểu diễn kết quả của chạy 60m XPT trước và sau
thực nghiệm 2 nhóm
Biểu diễn kết quả nâng cao đùi tại chỗ 15 giây trước
và sau thực nghiệm của 2 nhóm
Biểu diễn kết quả chạy 100m trước thực nghiệm và
sau thực nghiệm của 2 nhóm

Trang



MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................
1.1. Tác dụng của TDTT. ....................................................................................
1.2. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC
trong trường học ..................................................................................................
1.3. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THPT ...................................................
1.4. Nội dung và các giai đoạn huấn luyện điền kinh .........................................
1.5. Sức nhanh và các biểu hiện của sức nhanh ..................................................
1.6. Phương pháp rèn luyện sức nhanh ...............................................................
CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC
NGHIÊN CỨU ...................................................................................................
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................
2.2. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................
2.3. Tổ chức nghiên cứu ......................................................................................
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................
3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và sự phát triển sức
nhanh trong chạy 100m của nam đội tuyển điền kinh trường THPT
Kim Anh – Sóc Sơn – Hà Nội .............................................................................
3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập phát triển
sức nhanh nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển điền
kinh trường Kim Anh – Sóc Sơn – Hà Nội .........................................................
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..........................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................
PHỤ LỤC


1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội ngày nay, khi chất lượng cuộc sống đã và đang từng bước
được nâng cao, thì nhu cầu về sức khỏe nói chung và tập luyện thể dục thể
thao (TDTT) nói riêng càng được quan tâm nhiều hơn. TDTT là một công cụ
để nâng cao sức khỏe, tạo điều kiện cho người lao động phát triển một cách
toàn diện. Bác Hồ cũng đã nói: “Một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể
tráng kiện” [6], muốn phát triển trí óc thì trước hết con người phải khỏe
mạnh. Và cũng vì lí do: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống
mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân
yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt; mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước
mạnh khỏe. Vậy nên tập luyện thể dục, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của
mỗi người dân yêu nước” [6].
Nghị quyết Trung ương II khóa VIII của Đảng khẳng định mục tiêu của
Giáo dục và Đào tạo là nhằm tạo ra một lớp người: “Phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” [7].
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về sức khỏe và thể chất cho những người
lao động mới, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngoài ra, thể thao còn là phương tiện để giao lưu văn hóa, thắt chặt
thêm tình đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới, củng cố và tăng cường sự
hợp tác, giao lưu văn hóa và phát triển của mỗi quốc gia. Trong mỗi thời kì
Đại hội TDTT của khu vực và quốc tế, tinh thần thể thao cũng góp phần đem
lại sự gắn kết giữa các dân tộc và hòa bình cho các quốc gia. Vị trí thứ 3 trong
khu vực với những tấm huy chương vàng của Vũ Thị Hương (100m, 200m tại
Seagame 2007) và gần đây nhất là tấm huy chương bạc của Hoàng Anh Tuấn
(môn cử tạ) tại Olympic Bắc Kinh 2008. Đó là những bằng chứng thuyết phục


2


cho sự phát triển của thể thao Việt Nam cho dù sự phát triển đó còn gặp nhiều
khó khăn.
Trong các môn thể thao giúp mọi người nâng cao sức khỏe, cơ bản
nhất, đơn giản nhất và hiệu quả nhất chính là môn Điền kinh. Với tầm quan
trọng đó, ngoài việc tập trung đầu tư để nâng cao thành tích thi đấu ở các giải
quốc tế, môn Điền kinh là một trong những nội dung cơ bản không thể thiếu
của hầu hết các chương trình giảng dạy của các trường phổ thông, trung cấp,
cao đẳng và đại học.
Trong môn điền kinh, chạy 100m là nội dung được nhà trường đặc biệt
quan tâm. Tập luyện và thi đấu chạy 100m đòi hỏi VĐV phải có sự hội tụ đầy
đủ các tố chất thể lực và khả năng phối hợp vận động. Trong đó, việc phát
triển sức nhanh là yếu tố quan trọng, khâu then chốt vì nó ảnh hưởng trực tiếp
đến thành tích của chạy cự ly 100m... Do vậy, chạy 100m là môn thể thao đòi
hỏi người tập phải tập luyện có khoa học, có hệ thống mới đạt thành tích cao.
Thành công trên lĩnh vực nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng bài tập phát
triển sức nhanh trong chạy 100m của các tác giả: Nguyễn Văn Hướng,
Nguyễn Thị Lan ... các tác giả đều nghiên cứu ở các đối tượng khác nhau,
những kết quả nghiên cứu phần nào phản ánh nội dung phát triển sức nhanh
và là những căn cứ khoa học cần thiết trong quá trình giải quyết nhiệm vụ của
đề tài nghiên cứu.
Xuất phát từ những lí do trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Lựa
chọn bài tập phát triển sức nhanh nâng cao thành tích chạy 100m cho nam
đội tuyển điền kinh trường THPT Kim Anh – Sóc Sơn – Hà Nội”.
*Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích cơ sở lí luận và thực tiễn, đề tài nghiên
cứu lựa chọn bài tập phát triển sức nhanh trong chạy 100m cho nam đội tuyển
điền kinh trường THPT Kim Anh – Sóc Sơn – Hà Nội để ứng dụng trong quá
trình giảng dạy, góp phần nâng cao thành tích chạy 100m.



3

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tác dụng của thể dục thể thao
Tác dụng nổi bật và chuyên biệt của TDTT thể hiện ở sự phát triển các
tố chất thể lực (sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự mềm dẻo khéo léo) và bồi
dưỡng kĩ năng, kĩ xảo khác trong lao động, quân sự và sinh hoạt sau này.
Người tập TDTT thường có thân hình cân đối, nở nang, cơ bắp phát
triển khỏe mạnh. Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ tránh được các bệnh về
tim mạch. Người tập thường xuyên thì tim sẽ khỏe hơn và to hơn bình
thường. Theo những tài liệu của tổ chức Y tế thế giới trong 65 năm trở lại đây
số người mắc bệnh tâm thần tăng 24 lần, nhồi máu cơ tim tăng 60 lần ở tuổi
35 - 44. Đó là 2 bệnh có liên quan nhiều với tình trạng thiếu vận động và ảnh
hưởng bởi mặt trái của nền văn minh hiện đại.
Thể chất tốt là một trong những điều kiện để học tập, lao động đạt hiệu
quả cao hơn. Có công trình nghiên cứu đã tính được rằng: Người khỏe thì học
kĩ năng lao động nhanh và dễ hơn người bình thường khoảng 2 - 5%, hồi phục
sau lao động cũng nhanh hơn.
Khoa học kĩ thuật càng hiện đại (cơ giới hóa, tự động hóa sản xuất…)
thì hiện tượng đói vận động ngày càng phát triển, TDTT giúp con người khắc
phục sự mất cân bằng đó làm cho tinh thần thêm tinh nhạy, chính xác trong
suy nghĩ và điều chỉnh máy móc.
Những ngày Hội thể thao hấp dẫn như Olympic được truyền thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng, tình
cảm của hàng tỷ người trên hành tinh. Qua đó, cũng giáo dục con người biết
thưởng thức cái đẹp của thể thao, không chỉ về hình thể, trang phục, phương
tiện mà còn cả sự hoàn thiện các tố chất thể lực. Những trận thi đấu ở trình độ
cao và sôi nổi càng dễ tạo ra những giá trị chân chính về cái đẹp của thể thao.



4

TDTT sẽ góp phần xây dựng con người hoàn thiện “Phát triển cao về
trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức”[6]. Đó là hoạt động hấp dẫn, phổ biến rộng rãi giúp con người và các
dân tộc trên thế giới đoàn kết, hiểu biết nhau hơn.
1.2. Những quan điểm của Đảng và nhà nƣớc về GDTC trong trƣờng
THPT
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tại
điều 41 quy định: Nhà nước thống nhất quản lí sự nghiệp phát triển thể dục
thể thao, quy định giáo dục thể chất (GDTC) bắt buộc trong trường học,
khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức thể dục tự nguyện của nhân
dân, tạo điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục
thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao [3].
Chỉ thị 36/CT/TW ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa VII) giao trách nhiệm cho Bộ Giáo dục - Đào tạo và Tổng cục TDTT
thường xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương
trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể đào tạo giáo viên TDTT cho
trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực
hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện
TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, qua đó
phát hiện và tuyển chọn được nhiều tài năng thể thao cho quốc gia.
Luật giáo dục ban hành năm 2005 quy định: “Nhà nước coi trọng
TDTT trong trường học nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp
thanh thiếu niên nhi đồng. GDTC là nội dung giáo dục bắt buộc đối với học
sinh, sinh viên được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non
đến đại học. TDTT trường học bao gồm việc tiến hành chương trình GDTC
bắt buộc và tổ chức TDTT ngoại khóa cho người học. Nhà nước khuyến khích

và tạo điều kiện cho học sinh được tập TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuổi


5

và điều kiện từng nơi. GDTC là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục
tiêu giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”[4].
1.3. Đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh THPT
1.3.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT
Ở lứa tuổi này các em tỏ ra mình là người lớn, đòi hỏi sự tôn trọng từ
mọi người xung quanh. Các em có nhu cầu cao về hoạt động ngoại khoá, chủ
động tìm hiểu cuộc sống xung quanh, có nhiều hoài bão, ước mơ.
Ở lứa tuổi này do quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức chế nên
các em tiếp thu cái mới một cách nhanh chóng nhưng chóng chán, mau quên,
các em dễ bị tác động bởi môi trường xung quanh.
Về hứng thú: các em đã có thái độ tự giác, tích cực trong học tập xuất
phát từ động cơ học tập đúng đắn và thái độ lựa chọn nghề nghiệp sau này.
Song hứng thú học tập do nhiều động cơ khác nhau, đua với bạn bè, tự ái,
hiếu danh… cho nên khi giảng dạy giáo viên cần giúp cho các em xây dựng
động cơ đúng đắn để các em có hứng thú học tập các môn học nói chung và
môn GDTC nói riêng.
Về tình cảm: các em đã bộc lộ rõ về tình cảm của bản thân với mái
trường mình gắn bó, với thầy cô giáo đã dạy các em. Vì vậy, việc giáo viên
gây được thiện cảm và sự tôn trọng của các em là một trong những thành
công giúp giáo viên có nhiều thuận lợi trong giảng dạy, thúc đẩy các em tự
giác, tích cực trong học tập.
Về trí nhớ: các em ở lứa tuổi này hầu như khômg tồn tại việc ghi nhớ
máy móc, do các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic chặt

chẽ và lĩnh hội được bản chất vấn đề cần học tập.
Do đó, cần có định hướng, nhắc nhở và chỉ bảo các em hoàn thành tốt
nhiệm vụ, kèm theo khen thưởng động viên đúng mức đối với các em.


6

1.3.2. Đặc điểm sinh lý của học sinh THPT
Ở lứa tuổi này các em có sự phát triển mạnh mẽ về cấu trúc và chức
năng của cơ thể.
Hệ xương: thời kì này xương các em phát triển mạnh cả về chiều dài
cũng như chiều dày và biến đổi thành phần hoá học của xương cũng tăng lên
như tăng hàm lượng canxi, phôtpho, magiê……tăng độ bền của xương. Các
tổ chức sụn thay thế bằng các mô xương. Cơ quan tạo máu của xương phát
triển hoàn thiện.
Hệ tuần hoàn: ở lứa tuổi này kích thước của tim tương đối lớn, tần số
co bóp của tim đã giảm xuống còn 70 – 78l/phút. Tuy nhiên chưa ổn định,
dưới tác động của kích thích chúng dễ dàng bị thay đổi.
Hệ tim mạch: lứa tuổi này đã thích nghi với sự tăng công suất hoạt
động. Sự phục hồi của hệ tim mạch nhanh, thể tích tâm thu tăng cao.
Hệ máu: sau thời gian tập luyện lâu dài và căng thẳng, độ nhớt của máu
các em tăng, lượng hồng cầu trong máu tăng, sau các hoạt động kéo dài lượng
hồng cầu trong máu giảm. Ngược lại trong các hoạt động với thời gian ngắn
lượng hồng cầu tăng lên.
Hệ hô hấp: ở lứa tuổi này có sự thay đổi rõ rệt về sự độ dài chu kì hô
hấp. Độ sâu hô hấp tăng, dung tích sống và thông khí phổi tối đa tăng, khả
năng hấp thụ oxi tối đa lớn.
Hệ cơ: do hệ xương thay đổi, vì vậy hệ cơ cũng thay đổi theo. Khối
lượng cơ tăng nhanh nhưng cơ tăng không đều và chủ yếu là các cơ nhỏ dài,
độ phì đại cơ chưa cao. Nhóm cơ chân phát triển nhanh hơn cơ tay.

Hệ thần kinh: đến độ tuổi này sự phát triển về hình thể và khối lượng
đã phát triển xong. Kích thước não và hành tuỷ đạt tới mức của người trưởng
thành. Hoạt động phân tích, tổng hợp của võ não tăng lên, tư duy trừu tượng
đã hình thành, tạo điều kiện cho việc hình thành phản xạ có điều kiện, kĩ
năng, kĩ xảo vận động.


7

Ngoài ra, do sự hoạt động mạnh mẽ của tuyến hoocmôn làm cho tính
hưng phấn mạnh hơn ức chế gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động TDTT.
1.4. Nội dung và các giai đoạn huấn luyện điền kinh
1.4.1. Nội dung huấn luyện điền kinh
Nội dung huấn luyện thể thao nói chung hay Điền kinh nói riêng là quá
trình huấn luyện về các mặt: Thể lực, kĩ - chiến thuật, đạo đức, ý chí, tâm lí và
lí luận. Tất cả các mặt này đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau và tạo
thành một quá trình thống nhất của việc hoàn thiện thể thao cho VĐV điền
kinh. Qua trình này được thực hiện thông qua việc sử dụng các phương tiện,
phương pháp huấn luyện chung, huấn luyện chuyên môn và các hình thức
khác nhau của LVĐ trong tập luyện và thi đấu.
1.4.2. Các giai đoạn huấn luyện điền kinh
Trong quá trình huấn luyện điền kinh nói chung và huấn luyện chạy cự
ly ngắn nói riêng đều có 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn huấn luyện ban đầu.
+ Giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu.
+ Giai đoạn chuyên môn hóa sâu.
+ Giai đoạn hoàn thiện thể thao.
Mỗi giai đoạn đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ riêng đáp ứng với
nhu cầu và mục đích huấn luyện VĐV.
* Giai đoạn huấn luyện ban đầu

Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là phát triển thể lực toàn diện của
các em, dạy cho các em những bài tập khác nhau, gây cho chúng sự ham thích
thể thao đặc biệt là Điền kinh.
Trong giai đoạn huấn luyện này phương pháp trò chơi chiếm ưu thế vì
nó không chỉ dùng để phát triển tốc độ mà còn để tăng cường sức mạnh, khả
năng phối hợp vận động và sức bền. Trong giai đoạn huấn luyện ban đầu còn


8

có các bài tập nhằm phát triển tổng hợp các tố chất thể lực của VĐV. Kết thúc
giai đoạn huấn luyện ban đầu, những em có chỉ số kiểm tra tốt sẽ được
chuyển tiếp vào giai đoạn huấn luyện tiếp theo.
* Giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là: huấn luyện thể lực toàn diện,
nâng cao mức độ chịu đựng chung của cơ thể, tạo được vốn kĩ năng của vận
động, tăng tri thức để hình thành những nền tảng ban đầu của tài năng thể
thao.
Đặc điểm của giai đoạn này là sử dụng rộng rãi các phương pháp,
phương tiện huấn luyện, song có tính tới đặc thù của chạy ngắn.
Để huấn luyện tốc độ ở giai đoạn này không nên cho các em chạy với
các tốc độ cực đại quá nhiều. Tập chạy trong các điều kiện khó khăn (chạy
trên bậc thang, chạy trên dốc, chạy trên cát) luân phiên với chạy trong điều
kiện bình thường. Cần nhớ rằng điều quan trọng khi huấn luyện sức nhanh là
tình trạng hưng phấn tối ưu của hệ thần kinh trung ương, khi mà VĐV chưa bị
mệt mỏi bởi những hoạt động trước đó. Vì vậy, các hoạt động tốc độ cần được
áp dụng ngay sau phần khởi động.
Để huấn luyện sức nhanh có thể sử dụng các môn bóng (bóng đá, bóng
rổ, bóng ném) đòi hỏi phải sử dụng sức nhanh trong các tình huống thay đổi.
Trong những năm chuyên môn hóa ban đầu cần đặc biệt thận trọng tuân thủ

giới hạn cường độ của LVĐ vì lúc này là lúc cơ thể các em đang phát triển.
* Giai đoạn chuyên môn hóa sâu
Đặc điểm của giai đoạn này là tính chuyên môn hóa được thể hiện rõ
hơn. Tỉ trọng huấn luyện chuyên môn về thể lực, kĩ thuật, tâm lí được tăng lên
đáng kể. Khối lượng và cường độ của các phương tiện huấn luyện chủ yếu
tăng nhiều so với giai đoạn trước. Với mục đích hoàn thiện trình độ huấn
luyện về thể lực, kĩ thuật của VĐV chạy ngắn, vẫn nên đa dạng hóa các


9

phương tiện huấn luyện với tỉ trọng thích hợp, đa dạng hóa điều kiện thực
hiện chúng và vị trí tiến hành tập luyện. Đây là giai đoạn VĐV tập luyện thể
thao tích cực nhất đồng thời bộc lộ khả năng thể thao và đạt trình độ điêu
luyện về thể thao. Trong quá trình tập luyện thể hiện rõ đặc điểm của chuyên
môn hóa sâu như: thể lực, kĩ thuật, chiến thuật, tâm lí cũng như được nâng lên
đáng kể nhờ tăng khối lượng đào tạo chung và cả khối lượng các bài tập đào
tạo chuyên môn cũng như các bài tập thi đấu. Tổng khối lượng và cường độ
tăng nhiều hơn so với giai đoạn trước, khối lượng các cuộc kiểm tra thi đấu
cũng tăng lên rõ rệt và trở thành nội dung không thể thiếu được trong kế
hoạch huấn luyện. Hệ thống tập luyện và thi đấu ngày càng trở nên cá biệt
hóa, đào tạo thể thao phần lớn gắn liền với thành tích thể thao. Do đó, đòi hỏi
VĐV phải dành nhiều thời gian và công sức, dồn nhiều tâm trí để tập luyện và
thực hiện chế độ sinh họat phù hợp, có kế hoạch để đạt được thành tích cao
nhất.
* Giai đoạn hoàn thiện thể thao
Ở giai đoạn này LVĐ trong huấn luyện tương ứng với thi đấu càng lớn
và việc tuân thủ theo nguyên tắc thích hợp càng nghiêm ngặt thì thành tích
càng cao. Vì vậy, cần đặc biệt thận trọng đến mối quan hệ giữa khối lượng và
cường độ của LVĐ trong huấn luyện.

Việc huấn luyện chạy ngắn đẳng cấp cao khác với huấn luyện cấp thấp
hơn cả về nhiệm vụ, nội dung và sự phân chia LVĐ. Khi bắt đầu lập kế hoạch
huấn luyện cần phân tích và làm rõ những mặt mạnh, mặt yếu trong thi đấu
của VĐV, những khâu còn yếu trong huấn luyện thể lực và kĩ thuật, LVĐ
khác nhau của chu kì năm.
Tất cả những tài liệu này cho phép HLV lựa chọn thận trọng hơn các
phương tiện huấn luyện (để sửa chữa những khuyết điểm) khối lượng và
cường độ trong chu kì huấn luyện nhiều năm. Qua nghiên cứu các nhà lí luận


10

chuyên ngành điền kinh khẳng định rằng: Giai đoạn huấn luyện ban đầu là
giai đoạn làm cơ sở nền tảng và giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là giai
đoạn huấn luyện cơ bản trong quá trình huấn luyện. Bởi vì giai đoạn huấn
luyện ban đầu là huấn luyện kĩ năng khéo léo phối hợp động tác phát triển sức
nhanh, nắm được kĩ thuật sơ bộ, còn giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là
giảng dạy kĩ thuật phát triển sức mạnh của động tác và tốc độ chạy, tăng sức
mạnh tốc độ. Củng cố sức khỏe và rèn luyện sự bền bỉ dẻo dai của cơ thể.
Trong chạy 100m yêu cầu các tố chất sức nhanh, sức mạnh tốc độ, sức
bền tốc độ. Trong đó, sức nhanh đóng vai trò quyết định đối với thành tích
chạy cự ly 100m, các tố chất này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tố chất này
củng cố cho tố chất kia phát triển. Nếu như thiếu đi một trong ba yếu tố trên
thì ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao thành tích chạy 100m.
+ Tố chất sức nhanh giúp đạt được tốc độ trong khi chạy.
+ Tố chất sức mạnh tốc độ giúp cho mỗi bước chạy có lực đạp ở chân sau,
tăng khả năng thực hiện động tác hiệu quả.
+ Tố chất sức bền tốc độ giúp duy trì được tốc độ trên toàn cự li chạy 100m.
1.5. Sức nhanh và các biểu hiện của sức nhanh
Sức nhanh là khả năng thực hiện động tác trong thời gian ngắn nhất ở

một điều kiện nhất định. Người ta phân biệt ba hình thức biểu hiện sức nhanh
như sau:
+ Thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động.
+ Tốc độ động tác.
+ Tần số động tác.
Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc
biệt những chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan
với tốc độ động tác. Những hình thức kể trên là thể hiện các năng lực tốc độ
khác nhau. Thí dụ, thành tích chạy ngắn phụ thuộc vào thời gian phản ứng


11

vận động, tốc độ động tác đơn và tần số bước chạy. Trong động tác có sự phối
hợp phức tạp thì tốc độ không chỉ phụ thuộc vào sức nhanh mà còn phụ thuộc
vào nhiều nhân tố khác nhau. Vì vậy, tốc độ động tác hoàn chỉnh chỉ biểu hiện
gián tiếp sức nhanh của con người. Cho nên, trong khi phân tích đánh giá sức
nhanh của con người phải căn cứ vào mức độ phát triển của từng hình thức
đơn giản của nó.
1.5.1. Đặc điểm sức nhanh
Sức nhanh là một tố chất thể lực để tiến hành các hành vi vận động
trong thời gian ngắn nhất trong các điều kiện quy định.
Sức nhanh động tác là một trong những cơ sở quyết định thành tích
trong nhiều môn thể thao có chu kì.
Trong các môn thể thao có chu kì, sức nhanh động tác cũng đặc biệt
quan trọng đối với toàn bộ hoặc đối với các tình huống từng phần trong các
môn chạy cư ly ngắn, cũng như trong giai đoạn tăng tốc và xuất phát trong
đua thuyền, đua ca nô và bơi.
Các tiền đề quan trọng cho sức nhanh là tính linh hoạt của các quá trình
thần kinh, sức nhanh - nhanh, khả năng kéo căng kéo giãn, tính đàn hồi và

khả năng thả lỏng của các cơ, ý chí tinh thần và các cơ chế sinh hóa.
* Tính linh hoạt của các quá trình thần kinh
Chỉ khi nào thay đổi một cách nhanh nhất giữa hưng phấn và ức chế
trong những sự điều hòa tương ứng của hệ thần kinh cơ, kết hợp dùng lực tốt
nhất thì mới có thể đạt được một tốc độ động tác cao và tần số động tác tối đa.
* Năng lực sức mạnh nhanh
Là tỉ lệ sức mạnh - nhanh, trong sức nhanh phản ứng đặc biệt trong sự
tăng tốc cao, lúc xuất phát và khả năng nhanh chóng đạt tốc độ cao, như trong
chạy cự li ngắn, đua xe đạp cự li ngắn, đua thuyền, đua ca nô và trong phần
lớn các môn bóng. Về phương diện sinh hóa, sức nhanh phụ thuộc một cách


12

đặc biệt vào các nguồn dự trữ năng lượng trong cơ và mức độ của sự huy
động năng lượng hóa học ở dạng yếm khí.
* Tính đàn hồi của cơ
Khả năng kéo dãn, tính đàn hồi và khả năng thả lỏng của các cơ hoạt
động thay đổi nhau trong các bài tập sức nhanh. Nếu các tính chất này không
được phát triển đầy đủ thì không thể đạt được biên độ động tác cần thiết và
các cơ đồng vận phải khắc phục một lực cản rất lớn trong quá trình thực hiện
động tác đặc biệt ở những điểm tiếp của động tác. Do đó, các bài tập kéo dãn
và thả lỏng phải luôn luôn là thành phần của huấn luyện nhằm phát triển sức
nhanh.
* Sự nỗ lực về ý trí
Việc đạt được sức nhanh cao nhất phụ thuộc một cách quyết định vào
sự nỗ lực của ý chí. Bởi vì, trong huấn luyện chạy cự ly ngắn không có một sự
bắt buộc bên ngoài nào trực tiếp tác dụng lên VĐV, như khi nâng một quả tạ
nặng hoặc khi nhảy cao nên khó sử dụng sức mạnh và ý chí một cách tối đa.
Do đó, đòi hỏi phải đạt được những thành tích lớn về mặt ý chí thông qua các

yêu cầu cao trong huấn luyện. Trong đó, một điều kiện không thể thiếu được
là thông báo tốc độ đạt được bằng sự đo chính xác về thời gian. Điều này
được tiến hành tốt nhất trong huấn luyện thi đấu với đối phương.
Như vậy, sức nhanh phụ thuộc chủ yếu vào tính linh hoạt của quá trình
thần kinh cơ và tốc độ co cơ. Cả hai nhóm mặc dù biến đổi dưới tác dụng của
tập luyện nhưng nói chung đều là những yếu tố được quy định với các đặc
điểm di truyền do đó trong quá trình tập luyện, sức nhanh biến đổi chậm và ít
hơn sức mạnh và sức bền.
1.5.2. Cơ sở sinh lý, sinh hóa của sức nhanh
Thời gian của phản ứng vận động gồm 5 giai đoạn:
1. Xuất hiện hưng phấn trong cơ quan cảm thụ.


13

2. Dẫn truyền hưng phấn vào hệ thần kinh trung ương.
3. Truyền tín hiệu trong tổ chức lưới và hình thành tín hiệu ly tâm.
4. Truyền tín hiệu từ hệ thần kinh trung ương tới cơ.
5. Hưng phấn cơ và hoạt động đáp trả.
Trong đó, giai đoạn thứ ba chiếm nhiều thời gian nhất. Những động tác
được thực hiện với tốc độ tối đa khác hẳn với động tác chậm về đặc điểm sinh
lý. Sự khác biệt cơ bản thể hiện rõ ở chỗ: Khi thự hiện với tốc độ tối đa thì
khả năng điều chỉnh bằng cảm giác trong tiến hành thực hiện động tác sẽ gặp
khó khăn. Do đó, với tốc độ cao khó có thể thực hiện động tác thật chính xác.
Trong các động tác rất nhanh và được thực hiện với tần số cao như
trong chạy cự li ngắn, cơ chỉ hoạt động tích cực ở những điểm cuối cùng của
biên độ động tác. Động năng được truyền cho một bộ phận nào đó của cơ thể,
sau đó bị triệt tiêu khi các cơ đối kháng tham gia hoạt động và truyền cho bộ
phận này một gia tốc theo hướng ngược lại. Trong động tác tốc độ lớn, hoạt
tính của cơ diễn ra trong thời gian ngắn đến mức cơ không kịp co lại nhiều và

thực tế cơ hoạt động theo chế độ đẳng trường.
Tần số động tác phụ thuộc vào tính linh hoạt của 2 quá trình thần kinh
hưng phấn và ức chế được chi phối bởi 3 yếu tố: cường độ, độ cân bằng và độ
linh hoạt. Những ai trong thành phần cơ có nhiều sợi cơ trắng thì phát triển
sức nhanh. Những ai trong thành phần cơ có nhiều sợi cơ đỏ thì phát triển sức
mạnh.
Do đó, cơ sở sinh lý phát triển sức nhanh là tăng cường độ linh hoạt và
tốc độ dẫn truyền hưng phấn ở trung tâm thần kinh và bộ máy vận động tăng
cường sự phối hợp giữa các sợi cơ và các cơ, nâng cao khả năng thả lỏng.
Theo quan điểm sinh hóa, sức nhanh phụ thuộc vào hàm lượng ATP
trong cơ và tốc độ phân giải ATP dưới ảnh hưởng của xung động thần kinh
cũng như vào tốc độ tái tổng hợp nó. Vì các bài tập tốc độ diễn ra trong


14

khoảng thời gian rất ngắn, nên quá trình tổng hợp ATP hầu như được thực
hiện theo cơ chế yếm khí. Trong các bài tập như chạy 100m - 200m, bơi 25m
- 50m thì 90% năng lượng hoạt động của cơ được tạo ra bằng sự cung cấp
năng lượng yếm khí. Do đó, có sự nợ dưỡng rất lớn và thời gian trả nợ dưỡng
có thể kéo dài hàng chục phút.
1.6. Phƣơng pháp rèn luyện sức nhanh
1.6.1. Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn giản
Phản ứng vận động đơn giản là sự đáp lại tín hiệu biết trước nhưng xuất
hiện đột ngột bằng động tác định trước (ví dụ: phản ứng với tiếng súng lệnh
trong xuất phát). Sức nhanh phản ứng vận động có ý nghĩa thực dụng rất lớn.
Sức nhanh phản ứng vận động có khả năng “chuyển” rất cao: những người có
khả năng phản ứng nhanh trong tình huống này thì cũng dễ có khả năng phản
ứng nhanh trong tình huống khác.
Phương pháp phổ biến nhất trong rèn luyện sức nhanh phản ứng vận

động đơn giản là tập lặp lại với các tín hiệu xuất hiện đột ngột như: tiếng còi,
tiếng súng, với những người mới tập phương pháp lặp lại nhanh chóng đem
lại kết quả tốt.
Trong trường hợp sức nhanh phản ứng giữ vai trò quan trọng người ta
phải sử dụng tới các phương pháp chuyên môn để hoàn thiện nó. Một trong số
phương pháp chuyên môn rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn giản
thường áp dụng trong thực tiễn là phương pháp phân tích. Bản chất của
phương pháp này là tách biệt việc hoàn thiện phản ứng với phần nâng cao tốc
độ của động tác tiếp theo.
Như vậy, bài tập sức nhanh phản ứng vận động đơn giản gồm 2 phần:
tập phản ứng trong điều kiện thuận lợi và tập tốc độ động tác theo phương
pháp cảm giác vận động do Gelerstein đề xuất năm 1958 để hoàn thiện phản
ứng vận động đơn giản. Phương pháp này dựa trên mối liên quan chặt chẽ


15

giữa sức nhanh phản ứng và năng lực phân biệt những khoảng thời gian ngắn.
Thông thường những người có khả năng cảm giác tốt với khoảng thời gian
ngắn thì sẽ có sức nhanh phản ứng cao.
1.6.2. Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động phức tạp
Phản ứng vận động phức tạp thường gặp trong thể thao gồm có hai loại:
phản ứng đối với vật thể di động và phản ứng lựa chọn. Phản ứng đối với vật
thể di động thường gặp trong các môn bóng và các môn đối kháng cá nhân,
phản ứng với các vật thể di động thường kéo dài từ 0,25 - 1 giây. Bài tập phản
ứng đối với vật thể di động yêu cầu tập luyện được gia tăng thông qua tốc độ
vật thể tăng tính bất ngờ và rút ngắn cự ly. Trò chơi vận động với bóng có tác
dụng rất tốt trong rèn luyện sức nhanh đối với vật thể di động. Trong khi tiến
hành giáo dục phản ứng vận động phức tạp cần phải đảm bảo nguyên tắc từ
đơn giản đến phức tạp và tiến hành theo cách tăng dần số lượng biến đổi tình

huống có thể xảy ra.
1.6.3. Phương pháp rèn luyện sức nhanh tần số động tác
Mặc dù phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng tốc độ tối đa phụ thuộc chủ
yếu vào tính linh hoạt của các quá trình thần kinh. Suy rộng ra, thì tốc độ chủ
yếu phụ thuộc vào tần số động tác. Như vậy, bản chất của rèn luyện tốc độ là
tác động nâng cao tần số động tác. Phương tiện rèn luyện sức nhanh tần số là
các bài tập, các bài tập này phải thỏa mãn 3 yêu cầu:
+ Kĩ thuật động tác cho phép thực hiện với tốc độ giới hạn.
+ Kĩ thuật bài tập đã được tiếp thu tới mức kĩ xảo.
+ Thời gian bài tập tương đối ngắn (không quá 20 - 22 giây) để tốc độ
không bị giảm sút ở cuối cự li.
Về nguyên tắc, cần tạo điều kiện phát huy tần số động tác tối đa. Các
thành phần LVĐ và quãng nghỉ trong các phương pháp rèn luyện tốc độ đều
phải hướng tới tần số tối đa.


16

Như vậy, để giáo dục phát triển sức nhanh một cách hoàn chỉnh thì cần
đưa vào các nội dung bài tập phong phú đa dạng và đảm bảo tính khoa học
toàn diện trên cơ sở lí luận, dựa trên tâm sinh lí lứa tuổi.
1.6.4. Mối quan hệ giữa các tố chất thể lực trong việc nâng cao thành tích
chạy 100m
Giáo dục sức nhanh trong chạy cự li ngắn nói chung và trong chạy
100m nói riêng có ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn. Trong quá trình tập luyện
và thi đấu muốn đạt được thành tích cao ở chạy cư ly ngắn thì yếu tố hàng đầu
là họ phải được huấn luyện sức nhanh. Tuy nhiên, trong quá trình huấn luyện
nhằm nâng cao thành tích chạy 100m, chúng ta không chỉ quan tâm đến việc
huấn luyện các tố chất sức nhanh, mà ta còn phải chú ý đến việc huấn luyện
các tố chất thể lực khác. Một trong các tố chất có liên quan đến thành tích

chạy 100m là tố chất sức mạnh.
Thông thường khi phát huy tốc độ cao nhất, con người phải khắc phục
lực cản bên ngoài khá lớn và tốc độ đạt được là nhờ vào sức mạnh cơ bắp.
Trong vùng trọng lượng vật thể lớn thì tốc độ sức mạnh của con người tăng
lên sẽ làm tốc độ động tác tăng lên và ngược lại. Nếu tập luyện làm tăng tốc
độ tối đa thì khả năng tốc độ tối đa và sức mạnh chỉ tăng trong vùng lực cản
bên ngoài nhỏ, còn nếu lực cản bên ngoài tương đối lớn thì thực tế sẽ không
ảnh hưởng nhiều đến tốc độ động tác. Chỉ có thể tăng đồng thời trị số tối đa
của lực và tốc độ mới làm cho tốc độ tăng lên trong toàn vùng lực cản bên
ngoài.
Như vậy, về nguyên tắc có thể tăng tốc độ trong một động tác nào đó
bằng một trong hai cách sau:
+ Tăng tốc độ tối đa.
+ Tăng sức mạnh tối đa.
Kinh nghiệm cho thấy, nâng cao tốc độ tối đa là việc làm khó khăn,
trong khi đó nâng cao sức mạnh đơn giản hơn nhiều. Vì vậy, trong thực tiễn


17

người ta sử dụng rộng rãi các bài tập sức mạnh để nâng cao tốc độ. Hiệu quả
của các bài tập sức mạnh càng cao khi lượng đối kháng tập luyện càng lớn.
Trong quá trình rèn luyện sức mạnh để nâng cao tốc độ cần giải quyết
hai nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Nâng cao sức mạnh tốc độ.
+ Rèn luyện khả năng phát huy sức mạnh lớn trong điều kiện vận động
nhanh.
Để rèn luyện khả năng nhanh chóng phát huy sức mạnh, trong trường
hợp này càng căng cơ tối đa được tạo lên bằng lượng đối kháng dưới mức
giới hạn và tốc độ lớn nhất. Trong rèn luyện sức mạnh tốc độ cần lưu ý rằng

động tác phải thực hiện với biên độ cực đại. Nếu thực hiện động tác với biên
độ hạn chế (có chỗ dừng) thì những mối liên hệ phối hợp bất lợi sẽ được củng
cố.
Cần phải sử dụng kết hợp các bài tập sức mạnh tốc độ với các bài tập
sức mạnh đơn thuần và lấy các bài tập sức mạnh đơn thuần làm cơ sở. Nếu
chỉ sử dụng các bài tập sức mạnh tốc độ thì tốc độ tối đa sẽ không được nâng
lên một cách đáng kể bởi vì trong các động tác nhanh thời gian tác động lên
hệ thần kinh cơ ngắn, xong khi tập sức mạnh đơn thuần để phát triển tốc độ
cần lưu ý rằng trong thời gian tập sức mạnh đơn thuần, tốc độ thường tạm thời
giảm đi. Chỉ qua 2 - 6 tuần, sau khi ngừng hoặc giảm đột ngột LVĐ đó thì tốc
độ mới bắt đầu tăng lên. Trong thời gian dừng bài tập sức mạnh đơn thuần
người ta sử dụng chủ yếu bài tập sức mạnh tốc độ.
Các bài tập sức mạnh chỉ ảnh hưởng tích cực tới sức nhanh khi chúng
tăng cường sức mạnh ở các động tác cần phát huy tốc độ tối đa. Trong rèn
luyện sức mạnh tốc độ cần lựa chọn lượng đối kháng lớn nhất nhưng vẫn
không làm rối loạn cấu trúc bài tập thi đấu. Có như vậy, mới tác động đồng
thời tới kĩ thuật và các tố chất thể lực.


18

Trong các động tác thực hiện với tốc độ cao, việc điều chỉnh sai sót
trong vận động rất khó. Vì vậy, thực hiện kĩ thuật bài tập với TĐC là nhiệm
vụ rất phức tạp và khó khăn. Mặt khác, giữa kĩ thuật và tốc độ tối đa tương
quan chặt chẽ với nhau. Do đó, huấn luyện kĩ thuật là một thành phần quan
trọng của rèn luyện tốc độ.
Trong thực tế người ta thường tiếp thu kĩ thuật bài tập tốc độ bằng hai
cách:
+ Dạy động tác với tốc độ chậm, sau đó tăng dần tốc độ tới mức cực
đại.

+ Tiếp thu kĩ thuật ngay với tốc độ cực đại.
Mỗi cách đều có lợi thế và nhược điểm riêng của nó. Trong trường hợp
đầu, động tác thực hiện với tốc độ chậm và tốc độ cao tuy giống nhau về đặc
tính không gian, nhưng khác nhau về thông số sức mạnh tốc độ. Trong trường
hợp thứ 2, người tập không thể cùng một lúc thực hiện 2 ý muốn: đúng và
nhanh. Hơn nama, mức độ kĩ thuật của bài tập vượt quá sức tiếp thu với người
tập. Nhưng cuối cùng họ không tiếp thu kĩ thuật một cách chính xác.
Để khắc phục những nhược điểm nêu trên, trong huấn luyện kĩ thuật
bài tập tốc độ cần tuân thủ 2 nhiệm vụ sau:
+ Cần tiến hành dạy học động tác ở tốc độ xấp xỉ tối đa (9/10 sức). Để
cấu trúc sức mạnh tốc độ không khác biệt so với khi thực hiện với tốc độ tối
đa, đồng thời có thể kiểm tra kĩ thuật.
+ Cần biến đổi tốc độ thực hiện động tác từ thấp đến cực đại.
Bên cạnh tố chất sức mạnh tốc độ thì tố chất sức bền, khả năng phối
hợp vận động và khả năng khéo léo cũng ảnh hưởng rất lớn tới thành tích
chạy 100m.
Tố chất sức bền đảm bảo sự duy trì khả năng vận động trong thời gian
dài của người tập, tập luyện sức bền nhằm nâng cao các cấu trúc chức năng,


19

chức phận, nâng cao khả năng hấp thụ ôxi nên cơ thể sẽ duy trì được khả năng
hoạt động thể lực lâu dài với cường độ và công suất lớn trong quá trình nâng
cao thành tích chạy 100m.
Khả năng phối hợp vận động và khéo léo đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả của quá trình huấn luyện. Khả năng phối hợp vận
động đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng của cơ thể tránh được các động tác
thừa, sự tiêu hao năng lượng không cần thiết. Mềm dẻo làm tăng biên độ tác
động, tăng khả năng thả lỏng tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi từ động

tác này sang động tác khác.
Tóm lại, tốc độ tối đa mà con người có thể phát huy trong một hoạt
động nào đó phụ thuộc chủ yếu vào sức nhanh, ngoài ra còn phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác. Vì vậy, để có được hiệu quả cao trong quá trình rèn luyện
sức nhanh cần kết hợp chặt chẽ với rèn luyện các tố chất thể lực khác và hoàn
thiện kĩ thuật.


20

CHƢƠNG 2
NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích của đề tài, chúng tôi đề ra 2 nhiệm vụ cần giải
quyết:
- Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng công tác GDTC và việc sử dụng bài tập
phát triển sức nhanh cho nam đội tuyển điền kinh trường THPT Kim Anh –
Sóc Sơn – Hà Nội.
- Nhiệm vụ 2: Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả bài tập phát triển
sức nhanh nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển điền kinh trường
THPT Kim Anh – Sóc Sơn – Hà Nội.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên tôi dự kiến áp dụng các
phương pháp sau đây:
2.2.1. Phương pháp đọc và phân tích tài liệu tham khảo
Phương pháp này được sử dụng nhằm hình thành cơ sở lí luận, xây
dựng giả thuyết khoa học, xác định các mục tiêu, cơ sở để phân tích đánh giá
kết quả trong khi thực hiện đề tài. Tài liệu bao gồm: Sách giáo khoa, các văn
kiện, chính sách của Đảng và Nhà nước, các công trình nghiên cứu có liên
quan…..

2.2.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm
Sử dụng phiếu điều tra nhằm tổng hợp các ý kiến và kinh nghiệm từ
thực tiễn giảng dạy và huấn luyện của giáo viên bằng phiếu hỏi, các câu hỏi ở
mức độ quan trọng của từng bài tập nhằm tìm ra các bài tập hợp lí để nâng
cao hiệu quả huấn luyện.


21

2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận được khách thể, đối tượng
nghiên cứu, mục đích bao quát toàn diện những ưu nhược điểm của đối tượng
nghiên cứu. Đánh giá được sự tiếp thu LVĐ, kinh nghiệm phối hợp vận động.
Qua đó xây dựng được sự phù hợp của các bài tập và nâng cao được độ tin
cậy của đề tài.
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Đề tài sử dụng phương pháp kiểm tra sư phạm cả hai giai đoạn TTN và
STN dưới dạng các test nhằm đánh giá sự phát triển sức nhanh trong chạy
100m cho đối tượng nghiên cứu và mức độ hiệu quả bài tập.
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Là phương pháp nghiên cứu mà người ta đưa nhân tố mới vào, xác định
hiệu quả của chúng trước những nhân tố khác.
Bằng phương pháp này chúng tôi có cơ sở để đánh giá hiệu quả bài tập
đã lựa chọn, chúng tôi tiến hành thực nghiệm với nam VĐV chạy 100m
trường THPT Kim Anh.
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để kiểm tra đánh giá và tìm hiểu
tính hiệu quả trong quá trình thực nghiệm bài tập vào thực tế, sau khi đã lựa
chọn và xác định được các bài tập, chúng tôi đã tiến hành phân nhóm thực
nghiệm, tổng số là 16 em chia làm 2 nhóm mỗi nhóm 8 em.
- Nhóm thực nghiệm 8 em: Theo bài tập và phương pháp chúng tôi lựa

chọn.
- Nhóm đối chứng 8 em: Tập luyện bình thường và theo phương pháp
của cơ sở.
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này chúng tôi xử lý được tất cả các
số liệu thu được qua quá trình nghiên cứu thông qua các tham số đặc trưng.
Các công thức sử dụng trong đề tài là:


×