Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Lựa chọn một số bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ cho đội tuyển bóng đá nam trường THPT kim anh sóc sơn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.12 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

PHAN THỊ HUYỀN TRANG

LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP
NHẰM PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH TỐC ĐỘ
CHO ĐỘI TUYỂN BÓNG ĐÁ NAM TRƢỜNG
THPT KIM ANH - SÓC SƠN - HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

PHAN THỊ HUYỀN TRANG

LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP
NHẰM PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH TỐC ĐỘ
CHO ĐỘI TUYỂN BÓNG ĐÁ NAM TRƢỜNG
THPT KIM ANH - SÓC SƠN - HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

Hƣớng dẫn khoa học

TH.S LÊ TRƢỜNG SƠN CHẤN HẢI


HÀ NỘI, 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là: Phan Thị Huyền Trang
Sinh viên lớp K34 khoa GDTC- GDQP
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài “Lựa chọn một số bài tập nhằm phát triển
sức mạnh tốc độ cho đội tuyển bóng đá nam Trƣờng THPT Kim Anh Sóc Sơn - Hà Nội” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu
này mang tính thời sự cấp thiết và phù hợp với điều kiện khách quan của
Trường THPT Kim Anh.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012

Sinh viên

Phan Thị Huyền Trang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GDTC

: Giáo dục thể chất

GV


: Giáo viên

HLV

: Huấn luyện viên

SMTĐ

: Sức mạnh tộc độ

TDTT

: Thể dục thể thao

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

VĐV

: Vận động viên


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Số bảng
Nội dung
Trang
biểu
27
Bảng 3.1 Thực trạng đội ngũ GV TDTT Trường THPT Kim Anh
Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học
28
Bảng 3.2
tập môn GDTC
Kết quả điều tra số buổi tập/tuần và thời gian tập
29
Bảng 3.3 luyện/buổi các bài tập phát triển SMTĐ cho đội tuyển
bóng đá nam tại một số trường THPT
Thực trạng việc sử dụng bài tập phát triển SMTĐ trong huấn
30
Bảng 3.4
luyện đội tuyển bóng đá nam Trường THPT Kim Anh
Kết quả phỏng vấn xác định nguyên tắc lựa chọn bài tập
32
Bảng 3.5
phát triển SMTĐ (n=30)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn bài tập phát triển SMTĐ
33
Bảng 3.6 cho đội tuyển bóng đá nam Trường THPT Kim Anh
(n=30)
Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá SMTĐ
37
Bảng 3.7 cho đội tuyển bóng đá nam Trường THPT Kim Anh
(n=30)

Kết quả phỏng vấn về mức độ ưu tiên sử dụng số buổi
39
Bảng 3.8 tập trong mỗi tuần, thời gian cho mỗi buổi tập phát triển
SMTĐ (n=30)
40
Bảng 3.9 Kế hoạch thực nghiệm
Kết quả kiểm tra SMTĐ của hai nhóm trước thực
41
Bảng3.10
nghiệm (nA=nB=12VĐV)
Kết quả kiểm tra SMTĐ của hai nhóm sau thực nghiệm
42
Bảng3.11 (n =n =12VĐV)
A
B
Biểu đồ thể hiện thành tích bật nhảy nâng cao đùi tại
43
Biểu đồ 1
chỗ 20s (lần) trước và sau thực nghiệm
Biểu đồ thể hiện thành tích chạy đà ném biên (m) trước
44
Biểu đồ 2
và sau thực nghiệm
Biểu đồ thể hiện thành tích sút bóng liên tục 5 quả, đà
44
Biểu đồ 3
5m (s)


MỤC LỤC

Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

5

1.1.

Vị trí, vai trò môn Bóng đá đối với học sinh THPT

5

1.1.1. Vị trí, vai trò của GDTC đối với học sinh THPT

5

1.1.2. Vị trí, vai trò môn Bóng đá đối với học sinh THPT

6

1.2.

Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi THPT

8

1.2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi THPT


8

1.2.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi THPT.

9

1.3.

Khái niệm và đặc điểm tố chất sức mạnh

11

1.4.

Cơ sở sinh lý của SMTĐ

13

1.5.

Đặc điểm SMTĐ trong bóng đá

15

1.6.

Phương pháp huấn luyện SMTĐ trong bóng đá

16


1.6.1. Xu hướng huấn luyện thể lực cho VĐV bóng đá

16

1.6.2. Phương pháp huấn luyện tố chất SMTĐ

18

Những vấn đề về huấn luyện thể thao cho học sinh THPT

19

Chƣơng 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC

21

1.7.

NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

21

2.2. Phương pháp nghiên cứu

21

2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu


21

2.2.2. Phương pháp phỏng vấn

22

2.2.3 Phương pháp quan sát sư phạm

22

2.2.4. Phương pháp sử dụng test kiểm tra sư phạm

22

2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

23

2.2.6. Phương pháp toán học thống kê

23

2.3. Tổ chức nghiên cứu

24


2.3.1. Thời gian nghiên cứu

24


2.3.2. Địa điểm nghiên cứu

25

2.3.3. Đối tượng nghiên cứu

25

Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

26

3.1. Đánh giá thực trạng việc sử dụng bài tập nhằm phát triển SMTĐ

26

cho đội tuyển bóng đá nam Trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà
Nội.
3.1.1. Thực trạng công tác GDTC ở Trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn

26

- Hà Nội.
3.1.2 Thực trạng đội ngũ GV TDTT Trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn

27

- Hà Nội.
3.1.3. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học tập


28

môn GDTC.
3.1.4. Thực trạng công tác huấn luyện SMTĐ của đội tuyển bóng đá

29

nam Trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội.
3.1.5. . Đánh giá thực trạng việc sử dụng các bài tập trong huấn luyện

29

SMTĐ cho đội tuyển bóng đá nam Trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn Hà Nội.
3.2. Lựa chọn và ứng dụng các bài tập nhằm phát triển SMTĐ cho đội

31

tuyển bóng đá nam Trường THTP Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội.
3.2.1. Lựa chọn bài tập nhằm phát triển SMTĐ cho đội tuyển bóng đá

31

nam Trường THPT Kim Anh.
3.2.2 Ứng dụng bài tập phát triển SMTĐ cho đội tuyển bóng đá nam

38

Trường THPT Kim Anh.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


45

TÀI LIỆU THAM KHẢO

47

PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhằm
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh thì yếu tố con
người luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ
nghĩa” [8]. Trong hình mẫu và phẩm chất con người, sức khỏe và thể chất
chiếm vị trí thiết yếu để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó,
thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
(XHCN), mục tiêu chủ yếu của TDTT là phục vụ sức khỏe và nâng cao thể
chất của con người, phục vụ văn hóa. Nó tổng hợp các phương tiện, phương
pháp nhằm giúp cho con người phát triển một cách toàn diện, hài hòa. Vì vậy,
TDTT là một bộ phận hữu cơ của nền văn hóa xã hội, là phương tiện giáo
dục, hoạt động TDTT là một trong những hình thức cơ bản chuẩn bị thể lực
phục vụ cho lao động và hoạt động khác.
Ngày nay, cùng với sự tiến bộ của nhân loại nền TDTT nước ta cũng có
nhiều bước tiến mới. Hoạt động TDTT vô cùng phong phú và đa dạng, mỗi
môn thể thao mang đặc điểm riêng, thể hiện dưới nhiều hình thức, mang tính
thẩm mỹ và thu hút được nhiều người tham gia tập luyện. Đảng và Nhà nước

ta luôn quan tâm đến mục tiêu đào tạo con người toàn diện về: Đức, Trí, Thể,
Mỹ cho thế hệ sau - thế hệ tương lai của đất nước. Ngày 07/08/1995 Thủ
tướng chính phủ đã ra chỉ thị 133/TTg, nêu rõ yêu cầu đối với Tổng cục
TDTT cũng là Uỷ Ban TDTT các tỉnh thành, ngành có liên quan: “Ngành
TDTT phải xây dựng định hướng phát triển có tính chất chiến lược, trong đó
quy định rõ các môn thể thao và các hình thức hoạt động mang tính phổ cập
đối với mọi đối tượng, lứa tuổi tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của
quần chúng khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [1]. Nghị quyết đại hội


2
Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII đã nêu rõ: “Công tác TDTT cần được
coi trọng và nâng cao chất lượng giáo dục trong trường học, tổ chức hướng
dẫn và vận động đông đảo nhân dân rèn luyện thân thể hàng ngày, nâng cao
chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng VĐV, nâng cao thành tích các môn
thể thao” [1].
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của TDTT, trong những năm gần đây
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến phong trào TDTT như: đầu tư trang
thiết bị, dụng cụ tập luyện và thi đấu thể thao, đặc biệt quan tâm tới phát triển
TDTT trường học nước ta, vì đó vừa là đối tượng chiến lược, vừa là nơi có
điều kiện thuận lợi nhất để áp dụng những hình thức, nội dung, phương pháp
hoạt động thể thao phong phú đa dạng đem lại hiệu quả lớn. Chính vì lẽ đó,
Đảng và Nhà nước đang dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác GDTC trong
trường học.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng đã khẳng định:
“Công tác TDTT coi trọng và nâng cao chất lượng GDTC trong các trường
học, tổ chức hướng dẫn và vận động nhân dân tham gia rèn luyện hàng ngày.
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo…” [3].
Luật Thể dục thể thao 2006 quy định: “Nhà nước coi trọng TDTT
trường học nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh thiếu

niên, nhi đồng. GDTC là nội dung giáo dục bắt buộc đối với học sinh, sinh
viên được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại
học…” [7].
Trong giai đoạn hiện nay, GDTC trong nhà trường là một bộ phận hết
sức cần thiết, nó gắn liền và góp phần vào mục tiêu của giáo dục, có vai trò
quan trọng để chuẩn bị thể lực chung cho học sinh, sinh viên. Ngoài ra,
GDTC còn giúp rèn luyện ý chí, tinh thần dũng cảm, ý thức tổ chức kỷ luật và
là một trong những nội dung đánh giá tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học


3
sinh. Như vậy, GDTC có liên quan đến tất cả các mặt của giáo dục bởi vì sức
khỏe là vốn quý nhất của con người, có sức khỏe tốt con người mới có thể học
tập tốt, lao động tốt, sáng tạo cái đẹp… Do đó, GDTC là cơ sở để giáo dục
toàn diện con người.
Dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hầu hết các môn thể thao đã
được đưa vào các trường từ cấp Phổ thông đến bậc Đại học với nội dung và
hình thức phong phú, đa dạng như: Bóng chuyền, Bóng rổ, Cầu lông, Điền
kinh, Thể dục. Trong đó, việc đưa nội dung bóng đá vào giảng dạy chính khóa
có tác dụng rất lớn để giáo dục và nâng cao thể lực cho học sinh.
Bóng đá là môn thể thao “vua” được đông đảo quần chúng mến mộ và
tập luyện bởi tính lôi cuốn, hấp dẫn và đầy bất ngờ của nó. Trong đó, đối
tượng thanh niên học sinh tham gia rất đông. Ngoài việc nâng cao sức khỏe,
bóng đá còn giáo dục con người những phẩm chất đạo đức tốt: tính kiên trì,
lòng dũng cảm, góp phần phát triển con người một cách toàn diện. Thời gian
gần đây phong trào tập luyện bóng đá trong trường học không ngừng phát
triển cả về chất lượng và số lượng. Hàng năm, Đại hội Thể dục thể thao của
ngành luôn có số lượng lớn các trường THPT tham gia, trong đó nội dung
bóng đá thực sự thu hút khán giả. Vì vậy, bóng đá đã góp phần không nhỏ vào
việc giáo dục, phát triển toàn diện cho học sinh.

Bóng đá không phải là môn thể thao quá khó, đặc điểm của môn bóng đá
là môn phức tạp cao, mang tính chất đối kháng nên đòi hỏi người chơi phải có
kỹ thuật cùng thể lực tốt. Trong bóng đá, yếu tố thể lực luôn phải duy trì, tố
chất sức mạnh đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là SMTĐ. Bóng đá hiện đại
ngày nay, trận đấu diễn ra rất quyết liệt và với tốc độ nhanh, các cầu thủ phải
thường xuyên va chạm với nhau trong các tình huống tranh chấp bóng để giành
quyền kiểm soát bóng, hay trong các động tác chuyền bóng, sút bóng, ném
biên, dẫn bóng... Trong đó, yếu tố SMTĐ là rất cần thiết để các VĐV thực hiện
những kỹ thuật động tác và là cơ sở quan trọng để huấn luyện thể lực.


4
Trường trung học phổ thông Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội, một ngôi
trường không chỉ có phong trào học tập sôi nổi mà còn có hoạt động văn nghệ,
thể thao phát triển mạnh, đặc biệt hoạt động thể thao luôn được các em hưởng
ứng và tham gia nhiệt tình ở tất cả các nội dung: Cầu lông, Điền kinh, Bóng đá,
Đá cầu. Nội dung bóng đá đã thu hút được đông đảo các em học sinh tham gia
tập luyện và thi đấu, các em luôn tự giác tích cực tập luyện trong những giờ
ngoại khóa, nhằm hoàn thiện và nâng cao trình độ kỹ thuật cũng như thể lực
cho môn thể thao này. Tuy nhiên, qua thực tiễn quan sát các trận thi đấu tại
các giải phong trào, Hội khỏe của trường tổ chức, tôi nhận thấy thành tích thi
đấu của các em chưa cao, thể lực còn hạn chế, nhất là SMTĐ thể hiện qua
những động tác: chạy nước rút, dẫn bóng, tranh cướp bóng… Trong đó, phải
kể tới việc sử dụng các bài tập nhằm phát triển SMTĐ trong nhiều năm qua,
trong khi có những bài tập không còn phù hợp với bóng đá hiện đại. Điều đó
đã làm giảm sút thể lực của VĐV trong quá trình huấn luyện, giảng dạy cũng
như trong quá trình thi đấu bóng đá. Có nhiều tác giả nghiên cứu về SMTĐ
trong bóng đá, tuy nhiên với đề tài “Lựa chọn một số bài tập nhằm phát
triển sức mạnh tốc độ cho đội tuyển bóng đá nam Trƣờng THPT Kim
Anh - Sóc Sơn - Hà Nội” thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. Nhằm mục đích

phát triển sức SMTĐ trong bóng đá cho học sinh, tôi chọn nghiên cứu đề tài
trên.
*Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn những bài tập có hiệu quả nhất nhằm phát triển SMTĐ cho
đội tuyển bóng đá nam Trường THPT Kim Anh - Sóc Sơn - Hà Nội.


5

Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí, vai trò môn Bóng đá đối với học sinh THPT
1.1.1. Vị trí, vai trò của GDTC trường học đối với học sinh THPT
Mục tiêu của nền giáo dục nước ta đặt ra là phải đào tạo ra những con
người toàn diện về mọi mặt có đủ: Đức, Trí, Thể, Mỹ. Bên cạnh công tác giáo
dục văn hóa thì GDTC cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Nó là một tiền đề
giúp người học có đủ sức khỏe, tinh thần thoải mái, sảng khoái để tiếp thu
kiến thức của các bộ môn khác.
GDTC trường học là cơ sở, nền tảng của TDTT quốc dân. Đây là một
chiến lược quan trọng và có tác dụng lâu dài vì lực lượng học sinh, sinh viên
là lực lượng rất đông đảo và nhiệt tình trong việc tham gia tập luyện TDTT.
Phong trào TDTT trong học sinh, sinh viên phát triển sẽ kéo theo phong trào
thể thao quần chúng phát triển và đây cũng là cơ sở để tuyển chọn bồi dưỡng
các tài năng thể thao tiến đến thể thao thành tích cao.
GDTC đối với học sinh THPT góp phần thúc đẩy phát triển thân thể
khỏe mạnh, tăng cường thể chất.
GDTC là bộ phận không thể thiếu để thúc đẩy sự phát triển toàn diện
của học sinh, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền giáo dục phát triển
toàn diện. Thân thể khỏe mạnh là cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục
khác. GDTC liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục

thẩm mỹ và lao động.
GDTC không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh
mà còn làm cho tinh thần con người mạnh khỏe, cuộc sống văn minh vui vẻ,
có ý nghĩa, tạo nên hành vi và thói quen văn minh như: tôn trọng kỉ luật, có
trách nhiệm với tập thể, tôn trọng trật tự công cộng. Là cầu nối để người học


6
giao lưu, học hỏi, đoàn kết lại với nhau, khích lệ lòng tự tin, dũng cảm của
bản thân người học có khát khao khẳng định bản thân.
GDTC trường học là yếu tố cơ bản để chuẩn bị sức khỏe, thể lực phục
vụ cho lao động sản xuất và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Vì kết quả của hoạt
động GDTC là trình độ hoạt động thể lực của người học sẽ được nâng cao. Đó
là cơ sở để tiếp thu các thao tác lao động và giải quyết các nhiệm vụ mà thực
tiễn đòi hỏi người lao động và giải quyết các kỹ xảo vận động hoàn thiện.
GDTC còn giúp các em rèn luyện ý chí, tinh thần vượt khó, lòng tự tôn dân
tộc từ đó sẵn sàng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Vị trí, vai trò môn Bóng đá đối với học sinh THPT
Bóng đá là môn thể thao “vua” mang tính đối kháng cao, các tình
huống trên sân rất đa dạng, phức tạp đòi hỏi người chơi phải có ý chí chiến
đấu cao, sự phối hợp thông minh của cả một tập thể, phương án giải quyết
từng tình huống cụ thể mang đầy tính ngẫu hứng, sáng tạo từng phong cách
thi đấu. Với luật chơi đơn giản và dụng cụ thi đấu ít tốn kém giúp cho trò chơi
này phát triển mạnh mẽ. Ở nhiều nước, bóng đá có vai trò quan trọng trong
cuộc sống của người hâm mộ, trong cộng đồng địa phương hay cả quốc gia.
Bóng đá không chỉ đem lại lợi ích kinh tế, đôi khi còn có ảnh hưởng chính trị
ở khu vực hoặc thậm chí là quốc tế. Trong văn hóa đại chúng, bóng đá được
nhiều nghệ sĩ coi là thứ “ngôn ngữ toàn cầu” với những đặc điểm thi đấu, luật
lệ và truyền thống riêng của nó. Do đó, có thể nói đây là môn thể thao phổ
biến nhất thế giới.

Sự đa dạng, phong phú, hấp dẫn của bóng đá thể hiện ở tính tập thể,
tính đối kháng, tính phức tạp. Bởi vậy, bóng đá lôi cuốn và thu hút đông đảo
quần chúng tham gia và tập luyện, đặc biệt phải kể đến đối tượng là thanh
niên học sinh tham gia rất đông nên nó đã góp phần không nhỏ vào việc giáo
dục, phát triển toàn diện cho học sinh.


7
Hệ thống GDTC trong trường học là tổ hợp gồm rất nhiều các bài tập
được xây dựng trên cơ sở các môn điền kinh và thể thao. Việc đưa nội dung
bóng đá vào chương trình giảng dạy có tác dụng rất lớn để giáo dục và nâng
cao thể lực cho học sinh, chơi bóng đá là một hình thức vận động mà thanh
thiếu niên rất ưa thích, đặc điểm và sức hấp dẫn của bóng đá có thể thu hút rất
nhiều người hâm mộ, bóng đá còn mang lại rất nhiều hữu ích đối với tâm hồn,
thân thể, tâm lý, công việc và đời sống của con người. Chơi bóng đá góp phần
nâng cao thể chất một cách toàn diện, các cầu thủ bóng đá còn được so sánh
như có tốc độ của một VĐV chạy ngắn, có sức bền của một VĐV chạy
maratông, có sức mạnh và khả năng bứt phá của một VĐV cử tạ, có sự mềm
dẻo của VĐV thể dục. Ngoài ra, bóng đá còn có tác dụng bồi dưỡng rất nhiều
tính cách của con người như dũng cảm, ngoan cường, kiên nhẫn không mệt
mỏi, thắng không kiêu, bại không nản. Nhiều tình huống đòi hỏi người chơi
phải có dũng khí và can đảm để thực hiện động tác kỹ thuật, trong quá trình
học và vận dụng những động tác kỹ thuật đó chính là quá trình bồi dưỡng dần
dần tinh thần dũng cảm, ngoan cường. Sân bóng là một “vũ đài”, cái cần là
dũng khí không sợ gian nan, hiểm nguy, tinh thần tích cực tiến thủ và lòng tin
sẽ giành được thắng lợi, nhất là khi đang ở thế yếu, đang bị dẫn bàn, thời gian
chuẩn bị hết thì càng phải phấn đấu ngoan cường hết mức, có tinh thần quyết
dành thắng lợi. Tinh thần này càng có ích đối với sự trưởng thành của học sinh.
Hàng năm sở GD – ĐT Hà Nội thường xuyên tổ chức các Đại hội Thể
dục thể thao và thu hút sự tham gia rất đông đảo các trường THPT. Tuy nhiên,

các đội bóng đá của các trường phần lớn còn thi đấu một cách bột phát chưa
có chiến thuật thi đấu cụ thể, các em thi đấu chủ yếu còn dựa vào cảm hứng
và khả năng của cá nhân, chưa có sự phối hợp ăn ý gắn kết cả đội trong tấn
công cũng như trong phòng thủ, việc áp dụng các chiến thuật vào thi đấu chưa
thực sự có hiệu quả, từ tập luyện đến thi đấu có sự khác biệt rất lớn, đặc biệt
trình độ thể lực còn hạn chế, vì thế mà chất lượng trận đấu chưa cao.


8
1.2. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi THPT
1.2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi THPT
Về mặt tâm lý, các em muốn chứng tỏ mình là người lớn, muốn để cho
mọi người tôn trọng mình, đã có một trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng
phân tích, tổng hợp, muốn biết nhiều, có nhiều hoài bão nhưng còn nhiều
nhược điểm và thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống.
Tuổi này chủ yếu là tuổi hình thành thế giới quan, tự ý thức, hình thành
tính cách và hướng về tương lai, đó cũng là tuổi lãng mạn, mơ ước độc đáo
mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhu cầu sáng tạo, nảy nở những tình cảm
mới, trong đó mối tình đầu thường để lại dấu vết trong sáng trong suốt cuộc
đời, thế giới quan không phải là một niềm tin lạnh nhạt, khô khan mà nó là sự
say mê, ước vọng khát khao.
Hứng thú: các em đã có thái độ tự giác tích cực trong học tập, xuất phát
từ động cơ học tập đúng đắn và hướng tới việc lựa chọn nghề phù hợp với
mình sau khi đã học xong THPT. Song hứng thú học tập cũng còn do nhiều
động cơ khác nhau: giữ lời hứa với bạn bè, đôi khi do tự ái, hiếu danh. Vì vậy,
GV cần định hướng cho các em xây dựng động cơ đúng đắn để các em có được
hứng thú bền vững trong học tập nói chung và trong GDTC nói riêng [15].
Tình cảm: so với học sinh cấp Tiểu học và THCS, học sinh THPT biểu
lộ rõ rệt tình cảm gắn bó và yêu quý mái trường mà các em sắp chia tay, đặc
biệt đối với những GV giảng dạy các em (yêu, ghét rõ ràng). Việc GV gây

được thiện cảm và sự tôn trọng là một trong những thành công trong sự nghiệp
trồng người, điều đó giúp GV thuận lợi trong quá trình giảng dạy, nó thúc đẩy
các em tự giác tích cực trong tập luyện và ham thích môn thể thao [15].
Trí nhớ: lứa tuổi này hầu như không còn tồn tại việc ghi nhớ máy móc
do các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính lôgic, tư duy chặt


9
chẽ hơn và lĩnh hội được bản chất của vấn đề cần học tập. Do đặc điểm trí
nhớ của các em học sinh THPT khá tốt nên GV có thể sử dụng phương pháp
trực quan kết hợp với phương pháp giảng giải, phân tích sâu sắc các chi tiết
kỹ thuật động tác và vai trò, ý nghĩa cũng như cách sử dụng các phương tiện,
phương pháp trong GDTC để các em có thể tự lập một cách độc lập trong thời
gian rảnh rỗi.
Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn so với các lứa tuổi
trước đó, các em có thể hoàn thành được những bài tập khó và đòi hỏi sự khắc
phục khó khăn lớn trong tập luyện. Mặc dù vậy ở lứa tuổi này các em rất cần
sự hướng dẫn chỉ bảo của GV để các em có thể tiếp tục hoàn thiện mình [15].
1.2.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi THPT
- Hệ thần kinh: ở lứa tuổi này, hệ thần kinh tiếp tục được phát triển
đi đến hoàn thiện. Khả năng tư duy, khả năng phân tích tổng hợp và trừu
tượng hoá được phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành nhanh
chóng việc tiếp thu và hoàn thiện kĩ thuật động tác. Tuy nhiên, đối với một số
bài tập đơn điệu, thiếu hấp dẫn cũng làm cho học sinh nhanh mệt mỏi. Cần
thay đổi nhiều hình thức tập luyện một cách đa dạng, phong phú, đặc biệt tăng
cường hình thức thi đấu, trò chơi vận động để gây hứng thú và tạo đi ều kiện
hoàn thành tốt các bài tập chính, nhất là các bài tập về sức bền.
Ngoài ra, do sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục và tuyến
yên, làm cho tính hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế, giữa hưng phấn và
ức chế không cân bằng đã ảnh hưởng tới hoạt động thể lực. Đặc biệt là các học

sinh nữ, tính nhịp điệu giảm sút nhanh chóng, khả năng chịu đựng lượng vận
động yếu. Vì vậy, GV cần sử dụng các bài tập thích hợp và thường xuyên quan
sát phản ứng có thể của học sinh nữ để có biện pháp giải quyết kịp thời [5].
- Hệ vận động: ở lứa tuổi này, hệ xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển.
Mỗi năm nữ cao thêm 0,5 đến 1cm, nam cao thêm 1 đến 3cm. Tập luyện TDTT


10
một cách thường xuyên sẽ làm cho hệ xương khoẻ mạnh hơn. Ở lứa tuổi học
sinh THPT, các xương nhỏ như xương cổ tay, bàn chân hầu như đã hoàn thiện
nên có thể tập luyện một số động tác: treo, chống, mang, vác nặng mà không
làm tổn hại hoặc không tạo sự phát triển lệch lạc của cơ thể. Cột sống đã ổn
định hình dáng nhưng vẫn chưa được hoàn thiện, vẫn có thể bị cong vẹo, nên
việc tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác thông qua hệ thống bài tập như: đi,
chạy, nhảy, thể dục nhịp điệu... cho học sinh là rất cần thiết và không th ể coi
nhẹ. Riêng đối với học sinh nữ, xương xốp hơn học sinh nam, ống tuỷ rỗng
hơn, chiều dài ngắn hơn, bắp thịt nhỏ và yếu hơn, nên xương của nữ không
khoẻ bằng nam. Đặc biệt là xương chậu của nữ to hơn và yếu hơn nam, nên
trong quá trình GDTC không thể sử dụng các bài tập có khối lượng và cường
độ như nhau mà phải có sự phân biệt lượng vận động giữa nam và nữ [5].
- Hệ cơ: các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên sức co cơ vẫn
còn tương đối yếu, các bắp cơ lớn phát triển nhanh (cơ đùi, cơ cánh tay), phát
triển chậm hơn là các cơ nhỏ (cơ bàn tay, ngón tay). Các cơ co phát triển
chậm hơn các cơ duỗi. Đặc biệt, vào tuổi 16 các tổ chức mỡ dưới da của nữ
phát triển mạnh, ảnh hưởng đến việc phát triển sức mạnh của cơ th ể. Nói
chung, cuối thời kỳ cơ bắp phát triển nhanh nhất.
Do vậy, cần tập các bài tập phát triển sức mạnh để góp phần thúc đẩy
sự phát triển của các cơ. Nhưng các bài tập không nên chỉ có treo hoặc chống
đơn thuần mà phải là những bài tập kết hợp giữa treo, chống cùng với những
bài tập khắc phục lực đối kháng khác nữa. Việc tập như vậy sẽ vừa phát triển

các cơ co, cơ duỗi, lại vừa giảm nhẹ sức chịu đựng của các cơ khi tập liên tục
trong thời gian dài. Các bài tập phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức và đảm bảo
cho tất cả các loại cơ (to, nhỏ) đều được phát triển. Cần có yêu cầu riêng biệt
đối với học sinh nữ, tính chất động tác của học sinh nữ cần toàn diện, mang
tính mềm dẻo, khéo léo và có tính nhịp điệu [5].


11
- Hệ tuần hoàn: ở lứa tuổi này, hệ tuần hoàn của học sinh đang phát
triển và đi đến hoàn thiện: buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh, mạch
đập của nam khoảng 70 - 80 lần/phút, nữ 70 - 75 lần/phút, hệ thống điều hoà
vận mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh, phản ứng của hệ tuần hoàn trong
vận động tương đối rõ rệt. Sau vận động, mạch đập và huyết áp hồi ph ục
tương đối nhanh chóng, cho nên lứa tuổi này có thể tập chạy dai sức và tập
những bài tập có khối lượng và cường độ vận động lớn hơn học sinh THCS.
Khi sử dụng các bài tập có cường độ và khối lượng lớn hoặc các bài tập phát
triển sức bền cần phải thận trọng và thường xuyên kiểm tra theo dõi trạng thái
sức khoẻ của học sinh [5].
- Hệ hô hấp: đã phát triển và tương đối hoàn thiện, vòng ngực của
nam từ 67 - 72cm, nữ từ 68 - 74cm, diện tích tiếp xúc của phổi khoảng 100 120 cm2 gần bằng tuổi trưởng thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng
từ khi 15 tuổi là 2 - 2,5 lít. Ở tuổi 16 - 18 tới 3 - 4 lít, tần số hô hấp gần giống
người lớn (từ 10 - 20 lần/phút).
Tuy nhiên, các cơ hô hấp vẫn còn yếu nên sự co giãn của lồng ngực nhỏ,
chủ yếu là co giãn cơ hoành. Vì vậy, trong tập luyện cần thở sâu và tập trung
chú ý thở bằng ngực, các bài tập bơi, chạy cự ly trung bình, việt dã đã có tác
dụng tốt đến sự phát triển của hệ hô hấp [5].
- Trao đổi năng lƣợng:
Đặc điểm chính là quá trình đồng hóa chiếm ưu thế so với quá trình dị
hóa do nhu cầu phát triển và hình thành cơ thể, một phần đáng kể năng lượng
ở lứa tuổi này được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu đó [5].

1.3. Khái niệm và đặc điểm tố chất sức mạnh
* Theo quan điểm lý luận và phương pháp TDTT
Sức mạnh là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng sự nỗ lực cơ
bắp. Nói cách khác, sức mạnh của con người là khả năng khắc phục lực đối
kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại sự nỗ lực cơ bắp.


12
- Cơ bắp sinh ra lực trong các trường hợp
+ Không thay đổi độ dài cơ (chế độ tĩnh)
+ Giảm độ dài của cơ (chế độ khắc phục)
+ Tăng độ dài của cơ (chế độ nhượng bộ)
- Sức mạnh phụ thuộc vào:
+ Quan hệ giữa lực cơ bắp sản sinh và khối lượng vật thể chịu tác
động: nếu con người thực hiện một hoạt động với nỗ lực cơ bắp tối đa để làm
chuyển động những vật thể có khối lượng khác nhau thì lực sinh ra sẽ khác
nhau.
+ Quan hệ giữa lực và tốc độ: giữa lực và tốc độ có tương quan tỷ lệ
nghịch với nhau, tốc độ càng cao thì lực càng nhỏ và ngược lại.
Để rèn luyện sức mạnh người ta sử dụng các bài tập sức mạnh, tức là các
động tác với lực đối kháng. Các bài tập này được chia làm hai nhóm:
- Các bài tập với lực đối kháng bên ngoài
+ Các bài tập với dụng cụ nặng
+ Các bài tập với lực đối kháng của người cùng tập
+ Các bài tập với lực đàn hồi
+ Các bài tập với lực đối kháng của môi trường bên ngoài (chạy trên
cát, mùn cưa...)
- Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể
Sức mạnh chia ra làm 2 loại:
+ Sức mạnh đơn thuần (khả năng sinh ra lực trong các động tác chậm

hoặc tĩnh)
+ SMTĐ (khả năng sinh ra lực trong các động tác nhanh)
Ngoài những loại cơ bản trên còn gặp một số khái niệm sau:
+ Sức mạnh bột phát: là khả năng con người phát huy nội lực lớn trong
thời gian ngắn nhất.


13
+ Sức mạnh bền: là khả năng chống lại mệt mỏi của cơ thể khi hoạt
động sức mạnh.
+ Sức mạnh tương đối: là sức mạnh tuyệt đối trên 1kg trọng lượng cơ
thể [6].
* Theo quan điểm sinh lý TDTT
Sức mạnh là khả năng khắc phục trọng tải bên ngoài bằng sự căng cơ.
Sức mạnh phụ thuộc vào:
+ Số lượng đơn vị vận động (sợi cơ) tham gia vào căng cơ
+ Chế độ co cơ của các đơn vị vận động (sợi cơ) đó.
+ Chiều dài ban đầu của sợi cơ trước lúc co [6].
Để hiểu rõ hơn về sức SMTĐ đã tham khảo các quan điểm của các nhà
khoa học TDTT trong và ngoài nước:
+ Theo quan điểm của Verkhosanxki: SMTĐ là khả năng chống lại lực
đối kháng bên ngoài trong khoảng 40 - 70% khả năng sức mạnh tối đa [10].
+ Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Toán: SMTĐ là khả năng khắc
phục một trọng lượng nào đó với tốc độ nhanh nhất hay SMTĐ là khả năng
sinh lực trong các động tác nhanh và thời gian ngắn nhất [12].
+ Theo quan điểm của Zaxiorxki: SMTĐ là loại sức mạnh được quy
định bởi gia tốc động tác và khối lượng cố định (F = m.a) [10].
Như vậy có thể khái quát: SMTĐ là khả năng sinh lực trong các động
tác nhanh.
1.4. Cơ sở sinh lý của SMTĐ

SMTĐ là khả năng sinh lực trong các động tác nhanh. SMTĐ là năng
lực sức mạnh nhanh nhất, cao nhất, là yếu tố quyết định của tốc độ, là độ linh
hoạt của quá trình thần kinh và tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của quá trình thần
kinh thể hiện khả năng biến đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế trong
các trung tâm thần kinh, tốc độ co cơ phụ thuộc vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi


14
cơ chậm trong bó cơ. Trong hoạt động TDTT, sức mạnh và tốc độ có mối liên
quan mật thiết với nhau, mức độ phát triển sức mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến tốc
độ nhiều môn thể thao. Kết quả hoạt động không chỉ phụ thuộc vào tốc độ hay
sức mạnh riêng lẻ mà còn phụ thuộc vào sự phối hợp giữa hai tố chất, các
hoạt động như vậy gọi là các hoạt động SMTĐ.
- Quá trình hưng phấn ở hệ thần kinh có tính linh hoạt cao do hoạt động
thay đổi giữa cơ đối kháng và co rút cần sự thay đổi giữa quá trình hưng phấn
và ức chế ở trung khu vận động vỏ não cho nên nâng cao được tính linh hoạt
của quá trình thần kinh.
- Đối với hệ vận động, quá trình hưng phấn của VĐV cao nên đòi hỏi
chức năng vận động của cơ quan vận động rất cao, thời trị cơ bắp ngắn, thời
trị cơ đối kháng và co cơ giãn giống nhau.
- Đối với hệ tim mạch, trong các bài tập SMTĐ tần số nhịp tim của
VĐV tăng lên rất cao sau khi thực hiện các bài tập SMTĐ (140 - 150
lần/phút).
- Khi tập các bài tập SMTĐ thì huyết áp của VĐV cũng tăng lên, huyết
áp tối đa từ 150 - 160mmHg.
- Ở hệ hô hấp, lượng oxi trên phút lớn bởi vì cường độ tối đa nhưng do
thời gian hoạt động ngắn nên sự thiếu oxi cũng tăng lên ít nhiều, tần số hô hấp
oxi tăng lên không đáng kể, sau khi đã kết thúc hoạt động thể tích hô hấp và
hấp thụ oxi cũng tăng lên ít nhiều. Các bài tập SMTĐ là những bài tập có
công suất lớn, thời gian ngắn, năng lượng sử dụng chủ yếu là do phân giải

ATP và CP dự trữ trong cơ. Nhu cầu oxi không được thỏa mãn trong quá trình
vận động là do nợ oxi lên tới 95% song do thời gian ngắn nên tần số nợ oxi
không lớn lắm.
- Cơ quan bài tiết và điều hòa thân nhiệt khi hoạt động SMTĐ có những
biến đổi không đáng kể, điều này là do công suất hoạt động ngắn và thời gian
hoạt động diễn ra ngắn.


15
1.5. Đặc điểm SMTĐ trong bóng đá
Bóng đá là môn thể thao mang tính đối kháng cao, lượng vận động lớn,
cường độ cao, thời gian hoạt động dài, chiến thuật phát triển nhanh, các động
tác kỹ thuật có cường độ cao, sự tranh đua quyết liệt, sử dụng nhiều loại hình
phát triển nhanh, chạy đổi hướng, xuất phát đột ngột, nhằm đẩy đối phương
vào thế bị động, trong khi đó thời gian nghỉ giữa những lần di chuyển đó lại
không nhiều. Do đó, muốn trở thành cầu thủ bóng đá giỏi thì VĐV phải có
nền tảng thể lực tốt. Trong các tố chất thể lực thì SMTĐ là một trong những
tố chất rất quan trọng, việc huấn luyện thể lực là cơ sở để phát tiển các tố chất
vận động khác, hơn nữa có thể lực cầu thủ sẽ làm chủ được tinh thần, tâm lý
ổn định trong những giây phút căng thẳng, đảm bảo hiệu suất thi đấu. Trong
bóng đá, sức mạnh thể hiện ở nhiều động tác khác nhau như: động tác khống
chế bóng bằng vai, đầu, ngực do đồng đội chuyền đến (sức mạnh đơn thuần);
chạy dẫn bóng với tốc độ cao, tranh cướp bóng (SMTĐ); bật nhảy đánh đầu,
sút cầu môn (sức mạnh bột phát); khả năng duy trì thể lực trong suốt trận đấu
(sức mạnh bền).
SMTĐ là tố chất rất quan trọng của cầu thủ bóng đá, là một yếu tố dẫn
đến sự thành công trong các pha tranh cướp bóng, sút bóng. Trong bóng đá
hiện đại tốc độ trận đấu diễn ra rất nhanh, đòi hỏi các cầu thủ phải di chuyển
liên tục để thực hiện các ý đồ chiến thuật như: phòng thủ kèm người, phòng
thủ khu vực, phối hợp nhóm 2-3 người, bật tường nhanh, di chuyển không

bóng lôi kéo đối phương, chạy hoán đổi vị trí cho nhau, tấn công nhanh, đột
phá cá nhân..., đồng thời đòi hỏi cầu thủ phải xử lý tốt những tình huống xảy
ra trên sân, phải thực hiện tốt kỹ thuật, phải chính xác và nhanh chóng trong
những điều kiện khác nhau. Do đó, sức mạnh trong bóng đá là điều kiện để
nâng cao thành tích cho VĐV.
Một số tác giả cho rằng trong bóng đá thể lực là nền tảng, kỹ thuật là cơ
sở, chiến thuật là tạm thời, tức là nếu chúng ta chỉ dựa vào kỹ thuật không thì


16
sẽ không có một đội bóng tốt mà ta cần phải biết kết hợp với thể lực. Như
vậy, có thể thấy thể lực chiếm một vị trí quan trọng trong bóng đá. Cùng với
sức mạnh, tố chất SMTĐ là một trong những tố chất đặc trưng không thể
thiếu trong bóng đá, nhất là trong bóng đá hiện đại ngày nay, có tốc độ có thể
chơi bóng với tốc độ nhanh, có thể chiến thắng những pha phản công nhanh,
nhất là khi sử dụng lối chơi phòng thủ phản công. Nhưng điều quan trọng là
bóng đá là môn có tính chiến đấu cao, các cầu thủ phải tranh chấp nhau rất
quyết liệt ở những pha tranh chấp bóng tay đôi, bật nhảy tại chỗ đánh đầu hay
những pha dẫn bóng với tốc độ cao và luôn gặp phải sự truy cản rất quyết liệt
của đối phương, để vượt qua được sự truy cản và chiến thắng trong những
tình huống đó thì đòi hỏi cầu thủ phải có sức mạnh mà yếu tố SMTĐ là không
thể thiếu.
1.6. Phƣơng pháp huấn luyện SMTĐ trong bóng đá
1.6.1. Xu hướng huấn luyện thể lực cho VĐV bóng đá
Theo đà phát triển của bóng đá ngày nay, công tác huấn luyện thể lực
cần phải tìm hiểu, khai thác những nhân tố thúc đẩy nguồn lực tiềm tàng của
VĐV, thông thường những nhân tố đó là khối lượng vận động và cường độ
vận động, nó là động lực chính làm tăng nhanh thể lực cũng như thành tích
cho VĐV, trong công tác huấn luyện cần chú ý giải quyết khối lượng vận
động cao và cường độ vận động lớn một cách hợp lý, muốn làm được thì phải

tiến hành huấn luyện một cách nghiêm túc, khoa học và phải biết hệ thống
hóa các bài tập. Trong huấn luyện, diễn biến tuần tự mục tiêu của từng giai
đoạn thường là không chuyển tiếp hết được, do vậy bất kì một HLV nào
muốn VĐV vượt quá đặc điểm của quá trình huấn luyện chuyên môn hoá quá
sớm để đạt thành tích nhất thời thì tất yếu sẽ dẫn đến sự bắt buộc VĐV đạt
thành tích khi chưa có thể đạt được, như vậy hậu quả của nó là thời gian duy
trì thành tích ngắn, không những thế mà có thể làm cho VĐV có những tác
hại xấu mà không thể lường trước được.


17
Ngày nay, chức năng của các cầu thủ càng mở rộng, tốc độ thi đấu ngày
càng cao thông qua việc chuyển nhanh từ tấn công sang phòng thủ và ngược lại,
sự đối kháng trực tiếp ngày càng quyết liệt đòi hỏi ở VĐV sức chịu đựng với
cường độ lớn. Trình độ phát triển thể lực cao sẽ giúp cho VĐV thực hiện các
hành động kỹ thuật chuẩn xác, duy trì sự tập trung phân phối và luân chuyển chú
ý trong suốt quá trình trận đấu. Vì vậy, việc huấn luyện thể lực cần phải huấn
luyện nhiều hướng, vận dụng các phương pháp, phương tiện huấn luyện tiên
tiến. Ngày nay công tác huấn luyện thể lực cho VĐV bóng đá là huấn luyện
đồng bộ, tổng hợp, chia thành nhiều chu kỳ, tất cả các nhân tố kỹ thuật, chiến
thuật, phong cách, trí tuệ, tâm lý thi đấu… Đặc biệt, trong xu thế huấn luyện
bóng đá hiện nay sử dụng nhiều tình huống mang tính chất đối kháng cao, diễn
ra với tốc độ nhanh, có kết hợp với bóng, tỷ lệ huấn luyện thể lực không kết hợp
với bóng từ chỗ lớn tới chỗ giảm dần, có như vậy công tác huấn luyện thể lực
cho bóng đá mới phù hợp với yêu cầu chung của nền bóng đá hiện đại.
Huấn luyện thể lực đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành cho
VĐV những năng lực vận động kỹ - chiến thuật thi đấu và các chỉ số lượng
vận động thi đấu, mức độ căng thẳng tâm lý. Do đó, trong huấn luyện thể thao
hiện đại thì huấn luyện thể lực giữ vị trí tính chất và tầm quan trọng đặc biệt.
Với xu hướng bóng đá hiện nay, toàn đội tấn công toàn đội phòng thủ,

tức là lối đá tổng lực, tốc độ của trận đấu hay mức độ đối kháng quyết liệt của
trận đấu đều được nâng cao và phát triển khá dài, do đó yêu cầu huấn luyện
thể lực cho VĐV bóng đá hiện nay là rất cao.
Xu hướng của huấn luyện thể thao hiện đại đòi hỏi ngay từ đầu đối với
từng môn thể thao phải quan tâm và phát triển các tố chất đặc thù, định hướng
và phát triển thể lực chuyên môn.
Trong bóng đá, SMTĐ là tố chất đặc thù. Bởi vậy, ngay từ đầu cần phải
huấn luyện SMTĐ cho VĐV một cách toàn diện, tạo cơ sở cho phát triển
thành tích sau này.


18
1.6.2. Phương pháp huấn luyện tố chất SMTĐ
Huấn luyện sức mạnh là huấn luyện bằng những hình thức của lượng
vận động phục vụ trực tiếp cho việc nâng cao sức mạnh tối đa, SMTĐ, sức
mạnh bền.
Sự phát triển sức mạnh tối đa đòi hỏi không những phải nâng cao tốc độ
co cơ mà còn phải nâng cao SMTĐ. Ý nghĩa của sức mạnh tối đa này đối với
năng lực SMTĐ phụ thuộc vào các yêu cầu của cấu trúc thành tích của môn
thi đấu. Trong các môn mà sức mạnh tối đa là cơ sở quyết định tốc độ vận
động tối ưu thì phải phối hợp huấn luyện sức mạnh tối đa và SMTĐ với nhau.
Đó là phương pháp huấn luyện đặc biệt. Việc huấn luyện này phải đảm bảo sự
biến đổi một cách tốt nhất năng lực sức mạnh tối đa thành năng lực SMTĐ.
Phương pháp huấn luyện SMTĐ là cần phải nâng cao sức mạnh và tốc
độ một cách có trọng tâm tuỳ theo yêu cầu. Ở đây cần quan tâm tới những yêu
cầu thi đấu chuyên môn. Nếu tiến hành huấn luyện sức mạnh với các lực cản
bên ngoài lớn thì sẽ nâng cao được sức mạnh tối đa và tốc độ co cơ nhưng
không có tác dụng nâng cao tốc độ co cơ như khi nó đặc trưng cho các động
tác thi đấu với lực cản nhỏ.
Huấn luyện SMTĐ độ yêu cầu sắp xếp tất cả các yếu tố của lượng vận

động một cách chính xác. Vì tác dụng của huấn luyện SMTĐ phụ thuộc chủ
yếu vào hưng phấn tối ưu của hệ thần kinh trung ương nên không tiến hành nó
trong điều kiện mệt mỏi (mệt mỏi làm giảm, chậm động tác).
Cần phải hạn chế một cách thích hợp toàn bộ khối lượng của lượng vận
động SMTĐ trong một buổi tập và hạn chế số lần lặp lại trong một động tác.
Thời gian nghỉ giữa các tổ phải tương đối dài (3 - 5’) để toàn bộ năng lực
thành tích có thể hồi phục được. Tập luyện theo kế hoạch đề ra và các bài tập
có tác dụng nhất cần phải đặt ở đầu phần tập chính của buổi tập, sắp xếp
chính xác các lần nghỉ giữa các đợt trong bài tập.


×