Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

vai trò của vốn con người đối với sự phát triển sản xuất và tiêu thụ đào cảnh tại các hộ nông dân ở thị trấn cổ lễ huyện trực ninh tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.69 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
------   ------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Vai trò của vốn con người đối với sự phát triển sản xuất và tiêu
thụ đào cảnh tại các hộ nông dân ở thị trấn Cổ Lễ huyện Trực
Ninh tỉnh Nam Định

Tên sinh viên

: Nguyễn Thị Thu Hằng

Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp
Lớp

: KN51

Niên khoá

: 2006 - 2010

Giảng viên hướng dẫn

: Th.S Nguyễn Minh Đức

HÀ NỘI - 2010


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những số liệu trong bài báo cáo này hoàn toàn trung
thực và kết quả nghiên cứu chưa từng sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho quá trình báo cáo đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong báo cáo được ghi rõ nguồn gốc

Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Hằng


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tôi đã
được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều tập thể và cá nhân. Nhần đây tôi xin
bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến;
Tập thể quý thầy cô giáo trong khoa kinh tế và phát triển nông thôn đã
tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến thầy giáo Th.S Nguyễn Minh Đức,
người đã tận tình hưỡng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn UBND thị trấn Cổ Lễ đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho
tôi trong quá trình nghiên cứu tại cơ sở, bà con tại 3 đội sản xuất đã giúp đỡ
tôi trong quá trình thu thập thông tin để nghiên cứu và hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bề đã chia sẻ, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của
mìn.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu của các
tập thể, cá nhân đã giành cho tôi.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Hằng



TÓM TẮT
- Phát triển bền vững nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ đặc biệt
quan với các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy vậy, hiện nay, nông
nghiệp Việt Nam với chủ thể chủ yếu là kinh tế hộ nông dân vẫn chưa phát
triển. Chúng ta cũng biết, hành vi của con người là yếu tố ảnh hưởng có tính
chất quyết định tới hiệu quả của hoạt động. Nhưng hành vi của con người lại
bị điều khiển bởi vốn con người hay lượng kiến thức và các kỹ năng mà con
người có được. Vậy, có phải, nông nghiệp ta rơi vào tình trạng chưa phát
triển là do việc đầu tư vốn con người vào sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm
nông nghiệp của ta còn nhiều bất cập? Trong những năm qua, việc sản xuất
và tiêu thụ đào cảnh tại các hộ nông dân ở thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh
tỉnh Nam Định có nhiều thay đổi tích cực, đi cùng đó là sự tích luỹ nhiều về
lượng kiến thức mới, về kinh nghiệm, kỹ năng trồng và bán đào của hộ.
=> Đề tài: “Vai trò của vốn con người đối với sự phát triển sản xuất và
tiêu thụ đào cảnh tại các hộ nông dân ở thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh
tỉnh Nam Định”
- Đề tài có mục tiêu: Tìm hiểu vai trò của vốn con người đối với sự
phát triển sản xuất và tiêu thụ đào cảnh tại thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh
tỉnh Nam Định, phát hiện các yếu tố ảnh hưởng và đưa ra biện pháp nhằm
nâng cao vốn con người, làm phát triển sản xuất, tiêu thụ đào cảnh và kinh tế
nông hộ địa phương một cách bền vững.
- Đề tài thực hiện trong khoảng thời gian từ 23/01/2009 đến
25/5/2010, nhưng thu thập các thông tin trong khoảng thời gian từ 2007 đến
2009
- Về phương pháp nghiên cứu:


+ Dựa vào đặc điểm địa phương, có đội 3 trồng đào lâu nhất sau đó
đến đội 7 và cuối cùng là đội 1. Về số lượng, trong tổng hộ trồng đào, tỷ lệ

hộ trồng từ 4-8 năm chiếm nhiều nhất, tiếp đến hộ trồng 1-3 năm, còn tỷ lệ
hộ trồng từ 9-14 năm chiếm ít nhất. Nên chúng tôi tiến hành chọn mẫu như
sau: Chọn 60 hộ đại diện, trong số đó, gồm 10 hộ có kinh nghiệm 9-14 năm
ở đội III, 38 hộ có kinh nghiệm 4-8 năm ở đội VII, 12 hộ có kinh nghiệm 1-3
năm ở đội I. Các hộ trong mỗi nhóm có sự khác nhau về trình độ học vấn,
giới tính, tuổi tác, và mức độ tiếp cận với các nguồn thông tin.
+ Đề tài thu thập thông tin bằng bảng hỏi, nội dung liên quan đến
HQKT cây đào, sự hiểu biết và các quyết định trong sản xuất và tiêu thụ đào
của hộ.
+ Để xử lý thông tin, đề tài sử dụng phần mền excel, với mục đích
nhóm hộ theo các tiêu chí và tính HQTB của mỗi nhóm.
+ Để phân tích thông tin, đề tài sử dụng phương pháp thống kê mô tả
với mục đích thấy được tình hình chung về sự phát triển sản xuất và tiêu thụ
đào cảnh tại địa phương. Đồng thời sử dụng phương pháp so sánh nhằm so
sánh HQKTTB các nhóm hộ thu được khi có đầu tư vốn con người khác
nhau
- Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra được một số kết luận sau:
Một là: Trong những năm qua, tình hình sản xuất và tiêu thụ đào cảnh
tại thị trấn Cổ Lễ có nhiều sự phát triển, biểu hiện cụ thể: là sự tăng lên về
diện tích canh tác, sử dụng đa dạng hơn các loại giống, chất lượng sản phẩm
và giá cả được nâng cao, thị trường tiêu thụ và đối tượng khách hàng được
mở rộng…
Thứ hai: Khi phân nhóm mẫu nghiên cứu theo các yếu tố cấu thành
vốn con người ở các hộ trồng đào một cách độc lập hay phối hợp hai hoặc
nhiều yếu tố với nhau và so sánh HQKT giữa các nhóm thì một xu hướng


chung được đưa ra ở đây là: HQKT trung bình của các nhóm hộ đạt cao hơn
khi nhóm hộ đó có kết quả bình xét về tiêu chí đó cao hơn.
Thứ ba: Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến vốn con người của hộ

trồng đào như tuổi tác, giới tính, và sự chủ động tiếp cận các nguồn thông tin
của chủ hộ, sự cung cấp những kiến thức về sản xuất và tiêu thụ đào của các
cơ quan nông nghiệp địa phương tới hộ trồng đào và vai trò của cây đào đối
với nguồn thu nhập của hộ
Thứ tư: Để nâng cao vốn con người trong các hộ trồng đào trước hết,
bản thân hộ họ phải tự chủ động tiếp cận với các nguồn thông tin về sản
xuất, tiêu thụ đào song bên cạnh đó các cơ quan nông nghiệp địa phương
cũng cần tạo điều kiện giúp đỡ để người trồng đào được tiếp cận với những
nguồn thông tin về sản xuất và tiêu thụ này.


DANH MỤC VIẾT TẮT
CC: Cơ cấu
TTNT: Tiểu thủ công nghiệp
UBND: Uỷ ban nhân dân
D.tích: Diện tích
NTTS: Nuôi trồng thuỷ sản
BVTV: Bảo vệ thực vật
HQKT: Hiệu quả kinh tế


MỤC LỤC


PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nông nghiệp, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, cho dù đó là quốc gia đã hay đang
phát triển. Bởi đây là ngành sản xuất lương thực thực phẩm, cung cấp những

sản phẩm thiết yếu, cơ bản và không thể thiếu của sự sống con người, nó đáp
ứng phần lớn nhu cầu đầu vào cho ngành công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp chế biến. Nông nghiệp phát triển sẽ đảm bảo an toàn lương thực quốc
gia, ổn định xã hội cũng như sự phát triển các ngành công nghiệp khác.
Đối với các nước đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp
và hiện đại hoá như Việt Nam, khi mà phần đông dân số sống ở nông thôn
phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ còn
cần thêm nhiều sự hỗ trợ về nguồn lực của nông nghiệp như tiền vốn, thị
trường hay lao động… và để có thể phát triển ngành, quốc gia một cách
mạnh mẽ thì sự phát triển nông nghiệp nông thôn trong tiến trình đổi mới ở
các nước này là việc cần thiết và quan trọng hơn so phát triển nông nghiệp
nông thôn trong quá trình tiến lên của các nước đã bước vào thời kỳ công
nghiệp, hậu công nghiệp. Hay nói một cách khác, phát triển nông nghiệp là
vấn đề cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam, cũng như với các nước đang
phát triển nói chung.


Nếu so với nhiều quốc gia có nền nông nghiệp phát triển như Hàn
Quốc, Nhật Bản… và xét về các nguồn lực phục vụ sản xuất nông nghiệp,
thì ngoài trình độ của nông dân Việt Nam có nhiều bất cập còn lại các nguồn
lực khác như số lượng lao động, diện tích và chất lượng đất đai, cũng như
tình hình thời tiết khí hậu, thuỷ văn… là những yếu tố cực kỳ quan trọng để
phát triển tốt một nền nông nghiệp thì Việt Nam ta thuận lợi hơn các quốc
gia đó. Mặt khác nông nghiệp Việt Nam còn được Đảng và Nhà Nước rất
quan tâm, ban hành nhiều chính sách hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, khoa học công
nghệ,…nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp nhưng nền nông nghiệp Việt
Nam hiện nay với chủ thể sản xuất trực tiếp chủ yếu là kinh tế hộ vẫn chưa
phát triển. Cụ thể như, như đến năm 2007, ở nông thôn, cá biệt một số tỉnh
miền núi, tại những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, số
hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng cao: tại Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện

Biên 40,77%; Hà Giang 39,44% và Bắc Kạn 37,8%. Dù khu vực nông thôn
chiếm tới 90% số hộ thuộc diện nghèo của cả nước, nhưng tốc độ giảm
nghèo ở nông thôn vẫn chậm hơn thành thị tới 20%.
Như chúng ta đã biết, con người, thông qua hành vi của mình sẽ là
chủ thể thực hiện và là yếu tố ảnh hưởng có tính chất quyết định tới hiệu quả
đạt được của các hoạt động. Vốn con người cũng như lượng kiến thức mỗi
người có được sẽ điều kiển hành vi của chính người đó. Vậy có tình trạng
nêu trên là do trình độ của nông dân ta thấp hay nông nghiệp ta còn yếu kém
là vì còn nhiều bất cập ở vốn con người trong sản xuất và tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp? Nếu đúng thì biểu hiện cụ thể của nó như thế nào? Và
làm thế nào để nâng cao vốn con người từ đó phát triển nông nghiệp và kinh
tế hộ nông dân một cách bền vững.
Trong những năm qua tình hình sản xuất và tiêu thụ đào cảnh tại các
hộ nông dân ở thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định có nhiều thay


đổi tích cực, song song với đó là sự tích luỹ nhiều về lượng kiến thức mới,
về kinh nghiệm trong quá trình sản xuất và tiêu thụ đào mà hộ có được từ
học tập và quá trình lao động thực tiễn.
Xuất phát từ những thắc mắc và lý do trên, chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài: “Vai trò của vốn con người đối với sự phát triển sản xuất và
tiêu thụ đào cảnh tại các hộ nông dân ở thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh
tỉnh Nam Định”
2.1 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu vai trò của vốn con người đối với sự phát triển sản xuất và
tiêu thụ đào cảnh tại thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định, phát
hiện các yếu tố ảnh hưởng và đưa ra biện pháp nhằm nâng cao vốn con
người, làm phát triển sản xuất, tiêu thụ đào cảnh và kinh tế nông hộ địa
phương một cách bền vững.

2.1.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn liên quan đến đề tài, cụ
thể là các vấn đề về vốn con người, sản xuất và tiêu thụ đào cảnh…
- Đánh giá vai trò của vốn con người đối với sự phát triển sản xuất và
tiêu thụ đào cảnh tại thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao vốn con người, nhằm phát
triển nhanh và bền vững hơn nữa vấn đề sản xuất và tiêu thụ đào tại địa
phương.
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu vai trò của vốn con người đối với sự phát triển sản xuất
và tiêu thụ đào cảnh
- Đối tượng phân tích: Cấp thị trấn


- Các chủ thể cung cấp thông tin: Hộ nông dân trồng đào, cán bộ cơ
sở địa phương, những người có thể cho biết những thông tin chung về các
điều kiện ảnh hưởng đến, cũng như tình hình của sản xuất và tiêu thụ đào
cảnh tại địa phương.
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về nội dung
- Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò
của những kiến thức hay sự hiểu biết, kỹ năng của chủ vườn đào đối với sự
phát triển trong việc sản xuất và tiêu thụ đào cảnh.
1.4.2 Phạm vi không gian
- Địa điểm nghiên cứu: thị trấn Cổ Lễ huyện Trực Ninh tỉnh Nam
Định
1.4.3 Phạm vi về thời gian
- Thời gian nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu trong khoảng thời gian từ
2007 – 2009.
- Thời gian thực hiện đề tài: Từ 23/1/2009 – 25/5/2010




PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Lý luận về nguồn lực con người, nguồn nhân lực, nguồn lao động
2.1.1.1 Nguồn lực con người
Trước khi bàn về khái niệm “nguồn lực con người”, cần tìm hiểu khái
niệm “nguồn lực”. Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có tài liệu nào chính
thức định nghĩa khái niệm “nguồn lực”. Qua tìm hiểu các nhà khoa học thấy,
dưới dạng tổng quát, khái niệm “nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các yếu tố
cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang, và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và
trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của
một quốc gia, dân tộc. Nghĩa là, khái niệm nguồn lực có phạm vi bao quát
rất rộng, nó hàm chứa không chỉ yếu tố đã và đang tạo nên sức mạnh trên
thực tế, mà cả những yếu tố mới ở dạng tiềm năng, không chỉ nói lên sức
mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức
mạnh, phản ánh không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng, đồng thời nói lên
sự biến đổi không ngừng của các yếu tố đó.
Khái niệm “nguồn lực con người” được sử dụng từ những năm 60 của
thế kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và một số nước châu Á, và giờ đây khá
thịnh hành trên thế giới dựa trên quan niệm mới về vai trò và vị trí của con
người trong sự phát triển. Ở nước ta, khái niệm này được sử dụng tương đối
rộng rãi kề từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay. Tuy nhiên, cho đến
thời điểm này chưa có tài liệu nào chính thức đưa ra định nghĩa về khái niệm
“nguồn lực con người”, mặc dù các bài viết về nguồn lực con người, về
nguồn nhân lực, về tài nguyên con người không phải ít



Tìm hiểu các nghiên cứu gần đây, chúng tôi thấy khái niệm về nguồn
lực con người rất đa dạng, được đề cập đến từ những góc độ khác nhau.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản
xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát
triển của lực lượng sản xuất và do đó, nó quyết định năng suất lao động và
tiến bộ xã hội. Con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao động cơ
bản của xã hội. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được nhìn
nhận như một phương diện chủ yếu đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và
dịch vụ. Trong lý luận về vốn, con người được đề cập như một loại vốn (vốn
người, “tư bản người”), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất và
kinh doanh. Với cách tiếp cận này, ngân hàng thế giới cho rằng, nguồn lực
con người được hiểu là toàn bộ vốn người (thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề
nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được
coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công
nghệ, tài nguyên thiên nhiên…
Liên hợp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự khi cho rằng nguồn lực
con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có
quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Quan niệm này xem xét nguồn lực
con người chủ yếu ở phương diện chất lượng con người và vai trò, sức mạnh
của nó đối với sự phát triển xã hội.
Ở nước ta, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội mang mã số KX-07 do GS, TSKH Phạm Minh
Hạc làm chủ nhiệm, cho rằng nguồn lực con người được hiểu là số dân và
chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất. Còn gần đây, trong dịp gặp gỡ các nhà doanh
nghiệp, các nhà khoa học – công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc, khi đề
cập đến vấn đề tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà


khoa học – công nghệ và các cơ quan chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức

cạnh tranh của nền kinh tế, trong lời phát biểu của mình thủ tưởng Phan Văn
Khải cũng đã khẳng định “Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động,
trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta”
Từ một số cách tiếp cận và với những nội dung nêu trên, ta có thể nói
rằng nguồn lực con người không chỉ là lực lượng lao động hay nguồn lao
động mà là tập hợp các yếu tố. Dưới dạng tổng quát, chúng tôi cho rằng
“nguồn lực con người” là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất
lượng con người với tất cả các đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát
triển của xã hội. Với cách hiểu như vậy, khái niệm “nguồn lực con người”
có nội dung rộng lớn, nó bao gồm những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, lịch sử loài người trước hết là lịch sử lao động sản xuất, vì
vậy khái niệm “nguồn lực con người” trước hết cũng được biểu hiện ra là
người lao động, là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động), là nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có
trong tương lai gần).
Thứ hai, khái niệm “nguồn lực con người” phản ánh khía cạnh cơ cấu
dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã
qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế, cơ cấu trình độ lao động,
cơ cấu độ tuổi lao động trong lĩnh vực lao động, cơ cấu nguồn lao động dự
trữ…Cơ cấu dân cư và lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức
mạnh của nguồn lực con người
Thứ ba, khái niệm “nguồn lực con người” chủ yếu phản ánh phương
diện chất lượng dân số, đặc biệt là chất lượng của lượng lao động trong hiện
tại và trong tương lai gần (dưới dạng tiềm năng), thể hiện qua hàng loạt yếu
tố đó là: Sức khoẻ cơ thể và sức khỏe tâm thần, mức sống, tuổi thọ, trình độ
giáo dục và đào tạo về văn hoá và chuyên môn nghề nghiệp, trình độ học


vấn, trình độ phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, kỹ
năng lao động… trong đó trí lực, thể lực, đạo đức là những yếu tố quan

trọng nhất, quyết định chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người.
Nghĩa là nói đến nguồn lực con người là phải nói đến sức lao động (thể lực
và trí lực) của con người, nói đến chất lượng con người, bao gồm cả thể chất
và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong
cách làm việc… Nói cách khác, đó là toàn bộ những năng lực và phẩm chất
sinh lý - tâm lý - xã hội của con người tạo nên nhân cách trong mỗi cá nhân.
Phát huy nguồn lực con người chính là nuôi dưỡng và khai thác có hiệu quả
những năng lực phẩm chất đó.
Thứ tư, khái niệm “nguồn lực con người” còn hàm chứa cả sự liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại trong nó, sự ảnh hưởng qua
lại giữa nguồn lực con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội,
giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác. Mặt khác, nó cũng nói lên
sự biến đổi và xu hướng của sự tiến bộ về số lượng, chất lượng,cơ cấu dân
cư và lực lượng lao động.
Thứ năm, khái niệm “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng con người
được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong
hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một nguồn lực, cũng như
các nguồn lực khác (tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ…), con người
tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của một
quốc gia, dân tộc. Song, nguồn lực con người khác các nguồn lực khác ở
chỗ, có nó, các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích
cực đối với sự phát triển xã hội, vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Mặt khác, nó không chỉ là chủ thể quyết định sự vận động và phát triển của xã
hội, mà còn là khách thể của các quá trình kinh tế - xã hội, là đối tượng mà
chính sự phát triển xã hội phải hướng vào phục vụ. Nghĩa là, nếu các nguồn


lực khác chỉ la phương tiện của sự phát triển xã hội, thì nguồn lực con người
lại vừa là phương tiện (phương tiện đặc biệt) vừa là mục tiêu của chính sự
phát triển xã hội.

Như vậy khi nói đến nguồn lực con người và vai trò của nó phải xem
xét con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quá trình
kinh tế - xã hội. Là chủ thể con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác
hiện có, đồng thời qua đó góp phần tạo ra các nguồn lực mới, đề duy trì sự
tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối tượng
được khai thác cả về thể lực và trí lực cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Dĩ nhiên, hai tư cách này tồn tại không tách rời nhau vì lẽ khi khai thác các
nguồn lực khác con người tất yếu phải sử dụng trí lực và thể lực của mình để
quyết định mục tiêu, cách thức, nội dung và hiệu quả khai thác các nguồn
lực.
2.1.1.2 Nguồn nhân lực
Là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của
pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được thể hiện trên
2 mặt đó là chất lượng (trình độ chuyên môn và sức khoẻ của người lao
động) và số lượng (số người và thời gian làm việc có thể huy động)
2.1.1.3 Nguồn lao động (hay lực lượng lao động)
Là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao
động (đang có việc làm) và những người chưa có việc làm nhưng đang tích
cực tìm việc làm. Cũng như nguồn nhân lực, nguồn lao động được thể hiện ở
2 mặt chất lượng và số lượng.
2.1.2 Lý luận về vốn con người
2.1.2.1 Khái niệm
Trong văn phong kinh tế người ta nói nhiều tới vốn con người cũng
như ảnh hưởng to lớn của nó đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp


và sự phát triển của quốc gia. Vậy vốn con người là gì và tầm quan trọng thế
nào là vấn đề cần phải làm rõ.
Trong từ điển kinh tế, vốn (capital) được định nghĩa là giá trị của tư
bản hay hàng hoá đầu tư được sử dụng vào kinh doanh mang lại lợi ích.

Theo định nghĩa này vốn là vốn hữu hình nhưng vốn con người theo Mincer
Jacob (1974) cũng giống như vốn hữu hình, vốn con người thì con người
phải đầu tư để tích luỹ thông qua giáo dục rèn luyện trong lao động và thuộc
về mỗi người và nó đem lại cho người sở hữu nó khoản thu nhập. Theo
Nguyễn Văn Ngọc (2006) thì vốn con người là khái niệm để chỉ toàn bộ sự
hiểu biết của con người về phương thức tiến hành các hoạt động kinh tế xã
hội. Như vậy về mặt nội dung thì không có gì khác nhau vì những hiểu biết
và kinh nghiệm được hình thành và tích luỹ trong quá trình học tập và lao
động.
Theo tạp chí của Đảng cộng sản Việt Nam thì Vốn con người là “mặt
chất” của nguồn nhân lực, cũng như là “mặt chất” của nguồn lao động. Vốn
con người bao gồm năng lực, tri thức và kỹ năng của con người. Phần lớn
vốn con người thông qua giáo dục đào tạo để hình thành tri thức và các kỹ
năng xã hội của con người.
Như vậy, vốn con người là những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
tích luỹ trong mỗi con người nhờ quá trình học tập, rèn luyện và lao động.
Vốn con người cũng hao mòn và tốn chi phí để đầu tư hình thành. Nguồn
vốn này được khai thác sử dụng trong quá trình người lao động tham gia vào
sản xuất và được phản ánh thông qua năng suất lao động và hiệu quả công
việc của họ. Cùng với vốn hữu hình nó tạo ra tài sản của nền kinh tế, nhưng
vốn con người là phần cấu thành quan trọng nhất trong đó, góp phần vào
tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế của mỗi nước.
2.1.2.2 Phân biệt vốn con người và vốn hữu hình


Giữa hai loại vốn này có một đặc điểm chung nhất đó là: Chúng tăng
lên nhờ hoạt động đầu tư của chủ thể và theo thời gian đều bị hao mòn. Hoạt
động đầu tư làm tăng vốn hữu hình nhờ mua sắm, trang bị thêm máy móc,
nhà xưởng … còn hoạt động đầu tư vào vốn con người nhờ đầu tư học hành.
Sự hao mòn của chúng ở đây cùng là hao mòn vô hình dưới sự ảnh hưởng

của tiến bộ khoa học công nghệ. Tiến bộ công nghệ làm tư bản hữu hình lạc
hậu và mất giá, còn những kiến thức tích luỹ được cũng bị lạc hậu trong qúa
trình đó nếu không được cập nhật thường xuyên thông qua quá trình đào tạo
lại hay tiếp tục tự học tập để bổ sung tự hoàn thiện.
Nhưng chúng cũng có những điểm khác nhau nhất định như: Thứ
nhất, vốn con người là vốn vô hình gắn với người sở hữu nó, và chỉ được sử
dụng khi người chủ của nó tham gia vào quá trình sản xuất. Loại vốn này
không thể mang cho vay hay thế chấp như vốn hữu hình. Thứ hai, vốn này
gắn với người sở hữu không chia sẻ và đầu tư dàn trải tránh rủi ro được. Thứ
ba, vốn con người dễ dịch chuyển hơn và động hơn.
2.1.2.3 Yếu tố cấu thành vốn con người
Vốn con người được cấu thành từ 3 nhân tố chính (1) năng lực ban
đầu, nhân tố này gắn liền với yếu tố năng khiếu và bẩm sinh ở mỗi người,
(2) những năng lực và kiến thức chuyên môn được hình thành và tích luỹ
thông qua quá trình đào tạo chính quy, (3) các kỹ năng, khả năng chuyên
môn, những kinh nghiệm tích luỹ được từ quá trình sống và làm việc. Năng
lực ban đầu nhận được từ cha mẹ và các điều kiện của gia đình và xã hội khi
chăm lo cho bà mẹ mang thai và sinh nở. Khi đi học để có năng lực thì
người ta phải bỏ ra chi phí học hành và cuối cùng những trải nghiệm trong
cuộc sống làm việc nhiều trường hợp người ta phải trả giá rất cao.
2.1.2.4 Vai trò của vốn con người


a, Vai trò của vốn con người thể hiện của thông qua nguồn lực con
người
Như chúng ta đã biết, xét đến cùng, yếu tố giữ vai trò chi phối quyết
định sự vận động và phát triển của xã hội chính là lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất hay nói cách khác,
gồm yếu tố người và yếu tố vật của quá trình sản xuất. Yếu tố vật ở đây tư
liệu lao động và đối tượng lao động trong đó tư liệu lao động là những yếu

tố mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động và phục vụ quá
trình sản xuất như công cụ lao động, phương tiện vận chuyển, nhà kho, nhà
xưởng,… Trong tư liệu lao động, công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất
vì nó trực tiếp dẫn truyền sự tác động của con người và đối tượng lao động
và nhờ đó mà con người “nối dài” cánh tay mình để tác động vào giới tự
nhiên. Tư liệu lao động phản ánh trình độ phát triển của sản xuất xã hội, nó
là cơ sở quyết định sự phát triển sản xuất, là thước đo khả năng chinh phục
tự nhiên của con người. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất, giữ vai trò quyết
định trong lực lượng sản xuất chính là con người. Về điều này, Ph. Ăngghen
đã từng nhấn mạnh rằng muốn nâng nền sản xuất lên thì một mình tư liệu
lao động, dù là tư liệu cơ giới hoá hay bất kỳ tư liệu nào khác, cũng không
đủ mà còn cần có những con người có năng lực tương xứng để sử dụng
những tư liệu đó. Sở dĩ như vậy là vì, thứ nhất, nếu không có con người với
thể lực, trí lực và những năng lực phẩm chất cần thiết khác thì dù tư liệu lao
động có sức mạnh đến đâu và đối tượng lao động có phong phú như thế nào
cũng không có tác dụng, quá trình sản xuất không được thực hiện. Thứ hai,
trừ đối tượng lao động gồm những loại có sẵn trong tự nhiên (thiên nhiên 1),
còn tất cả các yếu tố khác trong lực lượng sản xuất từ công cụ lao động,
phương tiện vận chuyển…đến đối tượng lao động đã qua chế biến (thiên
nhiên 2) đều do con người sáng tạo (dĩ nhiên là trên cơ sở thiên nhiên 1).


Thứ ba, mọi sự biến đối và phát triển của lực lượng sản xuất đều do con
người. Do bản chất hoạt động của con người sáng tạo và để thoả mãn nhu
cầu hàng ngày càng cao, con người không ngừng cải tiến, sáng chế ra những
tư liệu lao động mới có năng suất và hiệu quả hơn, đồng thời liên tục mở
rộng phạm vi đối tượng lao động, tạo ra thiên nhiên thứ hai phong phú.
Cùng với điều đó, tri thức của người lao động (sự hiểu biết, năng lực sáng
tạo, khả năng thích nghi, kỹ năng lao động…) cũng không ngừng được nâng
cao.

Dưới góc độ công nghệ, con người cũng là thành tố giữ vai trò chi
phối, quyết định kết cấu, sự vận hành và hiệu quả của công nghệ. Thông
thường công nghệ được biểu hiện là sự kết hợp giữa “phần cứng” và “phần
mền” với một tỷ lệ nào đó. Tuy nhiên, khi xem xét dưới góc độ hệ thống của
các yếu tố cấu thành thì, công nghệ được coi là tổ hợp của bốn thành phần
có tác động qua lại với nhau và cùng thực hiện một quá trình sản xuất nào
đó. Bốn thành tố đó là: 1) máy móc, thiết bị, nhà xưởng, vật liệu; 2) con
người, thể hiện ở kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm có liên quan đến nghề
nghiệp; 3) thông tin liên quan đến bí quyết, quy trình, phương pháp dữ liệu,
thiết kế, sơ đồ, bản vẽ, công thức…; 4) tổ chức, quản lý, điều phối, tiếp thị…
Mỗi thành phần công nghệ nói trên có vai trò và chức năng riêng của
mình. Thành phần máy móc thiết bị là xương sống nhưng nó lại do con
người chế tạo ra, lắp đặt và vận hành. Thành phần thông tin là cơ sở hướng
dẫn người lao động đưa ra các quyết định vận hành thiết bị trong quá trình
sản xuất. Thành phần tổ chức có nhiệm vụ bố trí sắp xếp, điều phối, liên kết
các thành phần của công nghệ, kích thích người lao động để nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất. Phải nói rằng, thành phần nào cũng quan trọng và tất
yếu, song thành phần con người giữ vị trí quan trọng nhất và được ví như
chìa khoá của công nghệ. Bởi vì, các thành phần khác dù có hiện đại, phức


tạp, tinh vi đến đâu thì cũng đều do con người sáng tạo ra, vả lại, nếu không
có con người thì hết thảy chúng đều không có ý nghĩa. Thực tế, cho thấy
cùng một thiết bị nhập về nhưng ở các cơ sở sản xuất khác nhau thì lại cho
ra các sản phẩm với chất lượng khác nhau. Nói cách khác, để có một sản
phẩm đảm bảo chất lượng, được thị trường chấp nhận, thì việc có thiết bị,
máy móc tốt chưa đủ mà còn phải có con người có tay nghề phù hợp, nắm
được bí quyết, có một bộ máy quản lý năng động, đủ sức tổ chức sản xuất có
hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu thị trường… Điều này đòi hỏi một quan
điểm toàn diện, đồng bộ, đồng thời đặc biệt quan tâm yếu tố con người trong

xây dựng và phát triển công nghệ ở thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hiện nay, khi công nghệ
thật sự trở thành nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường quốc tế, khi tỷ lệ “phần mềm” trong công nghệ ngày càng làm gia
tăng giá trị sản phẩm.
Xét dưới góc độ nguồn lực, trong quan hệ với các nguồn lực khác,
nguồn lực con người cũng tỏ rõ vai trò quyết định của mình. Điều này thể
hiện ở chỗ các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,
… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và ý
nghĩa khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý
thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có
chí tuệ và ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với
nhau, tạo thành sức mạnh tổng lực, cùng tác động vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo,
khai thác của con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích
của con người, nếu con người biết tác động và chi phối chúng.
Ai cũng biết rằng, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có vốn,
hơn thế nữa phải có lượng vốn rất lớn. Do đó, cả nhà nước lẫn mọi doanh


nghiệp đều bằng mọi biện pháp để thu hút vốn phục vụ cho quá trình sản
xuất và kinh doanh. Tuy nhiên, vốn chỉ phát huy tác dụng, trở thành nguồn
lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay những con
người có năng lực và phẩm chất, biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả
cao. Thiếu những năng lực và phẩm chất cần thiết thì dù có nhiều vốn cũng
không đem lại hiệu quả, thậm chí còn gây nên những tổn thất to lớn đến tài
sản của mỗi cá nhân, tập thể và tài sản quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là,
vốn chỉ có sức mạnh một khi thông qua trí tuệ và lao động của con người. Vì
thế, sẽ là sai lầm nếu chỉ biết kêu gọi vốn đầu tư, thu hút vốn bằng mọi giá
mà không quan tâm đào tạo những người có đủ năng lực tương xứng với

nguồn vốn đó
Tự nhiên là nơi mà con người và xã hội tồn tại. Giữa xã hội và tự
nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật chất được thực hiện trong quá
trình lao động sản xuất – như C. Mác đã chỉ ra. Do vậy, tài nguyên thiên
nhiên và vị trí địa lý của mỗi nước là những nguồn lực tự nhiên, quan trọng,
nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và mọi sinh hoạt nói chung, đến quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng
của những nguồn lực này còn tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất mà trước hết là ở khả năng khai thác và sử dụng chúng. Trí tuệ và
năng lực của con người càng phát triển, khả năng nhận thức và cải biến tự
nhiên của con người càng cao thì trình độ chinh phục tự nhiên của con người
càng lớn. Nói cách khác, nếu con người biết cách khai thác thì sự giàu có về
tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý sẽ là những nguồn lực
quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là trong
giai đoạn đầu của sự phát triển. Ngược lại, nếu con người chỉ biết khai thác
theo kiểu “tước đoạt tự nhiên”, không biết tái tạo tự nhiên thì sẽ làm cho tự
nhiên cạn kiệt, gây nên thảm hoạ về môi trường sinh thái và đến một lúc nào


đó, như Ph. Ăngghen nói, tự nhiên sẽ “trả thù” lại con người. Bởi vì, “…Nếu
canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một
cách có ý thức ... thì sẽ để lại sau nó đất hoang…”
Như vậy, các nguồn lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đều quan trọng, nhưng xét đến cùng, nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao
động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nệ vô nghĩa, thậm chí ngay cả
khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do để tồn tại. Sự khẳng định này
không chỉ nói lên vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quan hệ
so sánh với các nguồn lực khác, mà còn phản ánh một đặc điểm quan trọng
hàng đầu của nó, đó là: nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất mà nhờ
nó, các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực

đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với ý nghĩa đó, nguồn lực
con người là yếu tố tất yếu, không thể thay thế được.
b, Sức mạnh trí tuệ của vốn con người trong điều kiện hiện nay
Kể từ khi loài người ra đời, ở mọi quá giai đoạn lịch sử, trí tuệ luôn vó
vai trò to lớn đối với cuộc sống con người và sự phát triển xã hội. Để tồn tại
và phát triển, con người phải hoạt động, phải tác động vào tự nhiên, cải biến
tự nhiên thành của cải xã hội để thoả mãn chu cầu của mình, tức là phải lao
động. Trong quá trình lao động, hoạt động của con người luôn được chỉ đạo,
hướng dẫn, điều kiển bởi ý thức, đặc biệt là tri thức, vì tri thức là cái cốt lõi
của ý thức, là phương thức tồn tại của ý thức. Sức mạnh của tri thức, của trí
tuệ được phản ánh qua sự phát triển của lịch sử xã hội mà trước hết là ở sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ được vật chất hoá qua sự phát
triển không ngừng và mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Sự phát triển này là
kết quả của chính hoạt động có ý thức của con người được tích luỹ qua các
thế hệ. Nói cách khác, lực lượng sản xuất càng phát triển hiện đại bao nhiêu
thì càng nói lên sức mạnh kỳ diệu của trí tuệ con người bấy nhiêu, nghĩa là,


×