Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA ,VŨ TRỌNG PHỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.75 KB, 16 trang )

TÁC GIẢ Vũ Trong Phụng VÀ TÁC PHẨM ''SỐ ĐỎ''
1/ Vài nét về nhà văn Vũ Trong Phụng (1912-1939) :
- Vũ Trong Phụng quê ở Hà Nội, là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của văn học
Việt Nam trước CMT8. Ông xuất thân trong một gia đình “nghèo gia truyền” ( cách nói của nhà văn Ngô
Tất Tố). Cuộc sống của ông chật vật, bấp bênh bằng nghề viết văn , làm báo .
- Sống ở đất Hà Thành, Vũ Trong Phụng tận mắt chứng kiến sinh họat của những tầng lớp thượng lưu
chạy theo văn minh âu hóa  ông tỏ thái độ căm ghét và bất mãn với xã hội đương thời.
- Vũ Trong Phụng là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào.Tác phẩm của ông đa dạng về thể loại , đặc biệt
ông thành công ở thể loại phóng sự  được mệnh danh là “Vua phóng sự đất Bắc”.
2/ Tiểu thuyết “Số đỏ”:
a/Hòan cảnh sáng tác : Tác phẩm được ra đời vào năm 1936, năm đầu của Mặt trận dân chủ Đông Dương,
không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi.Chế độ kiểm duyệt sách báo khắt khe của chính quyền thực dân tạm
thời được bãi bỏ.Bối cảnh ấy đã tạo điều kiện cho các nhà văn công khai, mạnh mẽ vạch trần thực chất thối
nát , giả dối, bịp bợm của các phong trào Âu hóa, Thể thao, Vui vẻ trẻ trung…được bọn thống trị khuyến
khích và lợi dụng đã từng lên cơn sốt vào những năm 30 của thế kỷ XX.
b.Cốt truyện :
Xuân là một đứa trẻ mồ côi lang thang kiếm sống bằng nhiều nghề :trèo me, hái sấu, nhặt banh , quảng
cáo, bán thuốc lậu. Nhờ số đỏ, tình cờ Xuân lọt vào mắt xanh của bà Phó Đoan- một mụ me Tây dâm
đãng.Từ đó Xuân từng bước nhập cuộc vào thế giới thượng lưu của cái gia đình đại tư sản thối nát của cụ cố
Hồng với một đám con cháu như :Vợ chồng ông Văn Minh, Vợ chồng cô Hòang Hôn, Cô Tuyết, cậu Tú
Tân …và các nhân vật của thế giới Âu hóa như : Tuyt PN, Sư tăng Phú …Thế rồi, Xuân đã dần trở thành
danh y và anh hùng cưu quốc, làm cho cả xã hội phải kính nể.
c/ Gía trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
- Về nội dung :
+ Tác phẩm là một bức tranh hiện thực về XH nửa Thực dân, nửa phong kiến đang chạy theo lối sống
Văn minh Âu hóa. + Từ đó, nhà văn đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống
nhố nhăng , đồi bại đương thời.
- Về nghệ thuật : Tác phẩm thể hiện nghệ thuật trào phúng hết sức đặc sắc của Vũ Trong Phụng : mỗi
chương là một màn hài kịch ; mỗi nhân vật là một chân dung biếm họa xuất sắc ( Xuân , bà phó Đoan, Cụ
Cố Hồng, Sư tăng Phú, Phán mọc sừng…)
3/ Đọan trích “Hạnh phúc của một tang gia”:


- Vị trí và nội dung : Đọan trích thuộc phần đầu của chương 15 trong tác phẩm.Nội dung đọan trích kể
lại cảnh cụ Tổ ( cha, ông ) trong gia đình cố Hồng qua đời và sự vui mừng , hạnh phúc của cả đám con cháu
trước cái chết của cụ.
- Ý nghĩa nhan đề đọan trích:
+ “Tang gia” mà lại “hạnh phúc”.Thật là oái oăm, ngược đời.Bởi lẽ, “hạnh phúc” là niềm vui của con
người khi đạt đến một ước nguyện nào đó trong cuộc sống; còn “tang gia” là lúc mọi người buồn đau, khôn
xiết khi người thân của mình ra đi vào cõi vĩnh hằng .Như vậy, một đằng là biểu tượng cho sự viên mãn,
hạnh phúc; một đằng là biểu tương cho sinh ly, tử biệt không thể bù đắp  lại song hành , gắn kết với
nhau, tạo nên sự bi hài, đáng cười, đáng suy gẫm.
=> Nhan đề đọan trích dự báo một màn bi hài kịch sắp diễn ra với nhiều cảnh nghịch lý, nhiều
pha cười ra nước mắt.Từ đó, hai trục của mâu thuẫn giữa hạnh phúc và tang gia được triển khai
suốt chương truyện thể hiện tư tưởng chủ đề của đọan trích.


Đề 1: )Phân tích đặc điểm nghệ thuật vàcách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết “Số Đỏ” của Vũ Trọng
Phụng?
Hướng dẫn trả lời
1/ Đặc điểm nghệ thuật,“Số đỏ” đã thể hiện một trình độ tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc
sảo.
Trước hết, nhà văn đã sử dụng vũ khí tiếng cười truyền thống trong văn học dân tộc và làm sắc bén thêm
bằng nghệ thuật cường điệu độc đáo của mình: cuộc đời Xuân tóc đỏ được kết nối bằng một chuỗi vận đỏ, rất
gần với truyện Trạng Lợn trong văn học dân gian.Khó ai có thể tin nhờ thuộc lòng bài quảng cáo thuốc lậu mà
Xuân được coi là một nhà thơ và được một thi sĩ lãng mạn bái phục.Hoặc là chuyện chưa hề có ông vua nào định
gây chiến tranh chỉ vì cầu thủ nước mình thua cầu thủ nước láng giềng…Nhưng khi đọc tác phẩm, không mấy ai
đặt câu hỏi thắc mắc, mà vẫn bị lôi cuốn một cách hào hứng.Bởi lẽ, mỗi chi tiết cường điệu gây cười đến vô lý ấy
đều có hạt nhân khách quan thực sự , đấy là bản chất của những kẻ thượng lưu và xã hội thượng lưu trước CMT8.
Bên cạnh đó, nhà văn còn xây dựng được nhiều tình tiết , chi tiết đối lập nhau gay gắt, nhưng lại cùng tồn tại
trong một đối tượng và sử dụng rộng rãi kiểu nói ngược của dân gian, vạch trần bản chất xấu xa của nhân vật, tạo
nên một tiếng cười sảng khoái.Chẳng hạn : Văn Minh chồng được mệnh danh là “nhà cách mạng” trong phong
trào “Âu hóa” ,“ Thể thao”, nhưng lại không biết đến thể dục, thể thao; vị sư Tăng Phú hết lòng “mộ đạo” nhưng

lại ăn nói lỗ mãng, coi việc đi hát cô đầu là việc “di dưỡng tinh thần”.
“Số đỏ” có bút pháp hết sức biến hóa,linh họat .Tác giả dẫn người đọc đi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác;
mỗi chương lại chứa đựng một yếu tố nghệ thuật hài hước, trào lộng.Ai có thể ngờ rằng quãng đời quảng cáo
thuốc lậu và giới thiệu mốt quần áo lại thành cái cớ để Xuân làm người khác khiếp vía bởi cái kiến thức về y học
và tài hùng biện của mình? Hoặc từ trận đấu khẩu giữa lang Tì và lang Phế, đến đám ma cụ cố Tổ…đều có những
màn hài kịch xuất hiện thật bất ngờ, có giá trị phê phán sắc sảo…
2/ Cách xây dựng nhân vật ,thành công nổi trội của Vũ Trong Phụng là đã xây dựng được một loạt chân dung
biếm họa xuất sắc:
Trước hết, là nhân vật Xuân tóc đỏ.Hắn vốn là một thằng ma cà bông đã từng thổi kèn loa thuốc lậu, cầm cờ
chạy hiệu rạp hát…bỗng chốc nhờ cái dâm đãng của bà Phó Đoan mà được gia nhập thế giới thượng lưu .Nhờ sự
láu lỉnh, quen biến báo , Xuân đã đi từ vinh quang này đến chiến thắng khác một cách dễ dàng.Một thằng vô học,
vô lại, một thằng ma cà bông mà được phong tặng bao danh hiệu cao quý : nào là ‘sinh viên trường thuốc”, “nhà
thơ”, “nhà triết gia”, “giáo sư quần vợt”, “nhà cải cách”, thậm chí “anh hùng cứu quốc”…Bản chất xấu xa và quá
khứ đê tiện của Xuân không bị lộ tẩy bởi vì nó ngoi lên từ một xã hội rất cần đến những kẻ có tính cách như nó.
Vây quanh Xuân tóc đỏ là một loạt nhân vật biếm họa khác .Mỗi người một vẻ : Bà phó Đoan, mụ me Tây
dâm đãng dơ dáng thủ tiết với hai đời chồng, cuối cùng được tặng bằng khen “tiết hạnh khả phong”.Cô Gái mới
lãng mạn Hòang Hôn hư hỏng một cách có lý luận với hai mối tình ( một người là chồng và một người là tình
lang).Ông chủ hiệu may âu hóa Văn Minh gầy còm , luôn hô hào thể thao thể dục mà không hề tập thể dục bao
giờ…Rồi đó còn là những Typn , ông cố Hồng,ông Phán mọc sừng thuê tiền Xuân để tố giác mình là người
chồng bị mọc sừng …
Như vậy có thể nói , tác giả “ Số đỏ”đã bao quát hầu như tòan bộ xã hội thành thị thời trước và trong ống kính
được quan sát của mình.Đấy là một xã hội nhốn nháo, nhố nhăng, trong đó mỗi nhân vật là một vai hề không hơn
không kém.
=> Với nghệ thuật viết văn già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc sảo, xây dựng một loạt chân dung biếm
họa đa dạng, “Số đỏ” là một trong những tác phẩm hiện thực trào phúng xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện
đại.


Đề 2 Anh /chị hiểu gì về ý nghĩa nhan đề của đọan trích “Hạnh phúc của một tang gia”?
Trả lời

+ “Tang gia” mà lại “hạnh phúc”.Thật là oái oăm, ngược đời.Bởi lẽ, “hạnh phúc” là niềm vui của con người khi
đạt đến một ước nguyện nào đó trong cuộc sống; còn “tang gia” là lúc mọi người buồn đau, khôn xiết khi người
thân của mình ra đi vào cõi vĩnh hằng .Như vậy, một đằng là biểu tượng cho sự viên mãn, hạnh phúc; một đằng
là biểu tương cho sinh ly, tử biệt không thể bù đắp  lại song hành , gắn kết với nhau, tạo nên sự bi hài, đáng
cười, đáng suy gẫm.
=> Nhan đề đọan trích dự báo một màn bi hài kịch sắp diễn ra với nhiều cảnh nghịch lý, nhiều pha cười ra nước
mắt.Từ đó, hai trục của mâu thuẫn giữa hạnh phúc và tang gia được triển khai suốt chương truyện thể hiện tư
tưởng chủ đề của đọan trích.
Đề 3 : Phân tích chương ‘Hanh phúc của một tang gia” trong tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng
Mở bài :
- Vũ Trọng Phụng là một nhà văn hiện thức trào phúng vào bậc nhất của văn xuôi hiện đại Việt Nam trước
CMT8. Ông được mệnh danh là “Vua phóng sự đất Bắc”.
- Một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng đã phê phán kịch liệt cái xã hội tư sản thành
thị trước CMT8 là tiểu thuyết “Số đỏ”.
- Với lối văn châm biếm sắc sảo , các chương trong “Số đỏ” đều là những màn kịch đầy thú vị, đặc biệt là
chương XV – “Hạnh phúc của một tang gia”.
II/ Thân bài :
1/ Trước hết , ý nghĩa trào phúng phê phán được thể hiện ngay ở tiêu đề của đọan trích :“Tang gia” mà
lại “hạnh phúc”.Thật là oái oăm, ngược đời.Bởi lẽ, “hạnh phúc” là niềm vui của con người khi đạt đến một ước
nguyện nào đó trong cuộc sống; còn “tang gia” là lúc mọi người buồn đau, khôn xiết khi người thân của mình ra
đi vào cõi vĩnh hằng .Như vậy, một đằng là biểu tượng cho sự viên mãn, hạnh phúc; một đằng là biểu tương
cho sinh ly, tử biệt không thể bù đắp  lại song hành , gắn kết với nhau, tạo nên sự bi hài, đáng cười, đáng suy
gẫm.
=> Nhan đề đọan trích dự báo một màn bi hài kịch sắp diễn ra với nhiều cảnh nghịch lý, nhiều pha cười ra nước
mắt.Từ đó, hai trục của mâu thuẫn giữa hạnh phúc và tang gia được triển khai suốt chương truyện thể hiện tư
tưởng chủ đề của đọan trích.
, 2/ Tiếp theo sự trào phúng mang ý nghĩa phê phán còn thể hiện ở thái độ của đám con cháu trong gia đình
trước cái chết của cụ Tổ :
- Cụ Tổ chết , tuyệt nhiên trong gia đình không ai thương tiếc người quá cố.Mỗi thành viên đều thấy đây là một
dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện ý đồ riêng của mình:

+ Cố Hồng , một kẻ háo danh kỳ quặc ( chỉ năm mươi tuổi nhưng lại thích gọi là cụ cố” , thì muốn phô bày
“sự hiếu thaỏ” của một kẻ làm con bất hiếubằng cách : cha chết, nhưng ông ta chỉ nằm bên bàn đèn hút thuốc
phiện và “mơ màng đến lúc được mặc đồ xô gai…chống gậy lụ khụ vừa đi vừa ho khạc , khóc mếu” để thiên hạ
chỉ trỏ mà khen tặng “Úi kìa , con giai nhớn đã già đến kia kìa!” ; mở miệng ra chỉ nói mỗi một câu “Biết rồi,
khổ lắm nói mãi”( tới 1782 lần) . bức ký họa của một kẻ bất hiếu, háo danh .
+ Ông Văn Minh thì “phân vân”, “đăm đăm chiêu chiêu”, “vò đầu rứt tóc” nhưng không phải vì cái chết của
ông nội , mà ông ta nghĩ đến làm thế nào để cái chúc thư của ông nội “sớm đi vào thời kỳ thực hành .Đặc biệt
Văn Minh còn suy tính cách xử trí với Xuân tóc đỏ ra sao khi hắn cùng lúc lại có ‘hai cái tội nhỏ” và “một cái ơn
to” với gia đình ông và ông ta còn thầm cảm ơn Xuân tóc đỏ đã gây ra cái chết của một cụ già đáng chết.  bản
chất giả dối và bất nhân của một kẻ mang danh Âu hóa.
+ Ngoài ra , bà Văn Minh thì háo hức để được lăng xê mốt tang của cửa hiệu mình; cậu tú Tân cứ mãi sốt
ruột để được trổ tài chụp ảnh…. những kẻ vô tâm , đáng lên án.


+ Nhất là Phán mọc sừng thì sung sướng vì không ngờ cái “sừng” trên đầu mình lại có giá trị đến thế và
mừng thầm vì được cha vợ nói nhỏ vào tai “rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”.
.Điều đáng cười là một gã đàn ông bị vợ “cắm sừng” mà không thể làm gì, không biết nhục, không thấy xấu hổ,
trái lại còn tự hào về “giá trị của đôi sừng hươu vô hình trên đầu”… Chân dung biếm họa của một kẻ trục lợi,
vô lương tâm, không biết liêm sỉ.
=> Như vậy, cụ Tổ chết, tuyệt nhiên không ai đau buồn.Đám tang không một giọt nước mắt.Tình người trong
một gia đình thượng lưu đại từ sản đã hòan tòan thiếu vắng .Nhà văn vừa mỉa mai, vừa châm biếm vùa lên án sự
suy đồi về đạo đức và tình người của con người trong xã hội thượng lưu PK.
3/ Sự suy đồi về đạo đức của đám con cháu trong gia đình cố Hồng còn lan sang cả những người ngoài tang
quyến :
- Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang lúc thất nghiệp thì được thuê giữ trật tự cho đám tang , đã “sung
sướng cực điểm”.Thật đáng cười (cảnh sát mà lại thích thú khi được thuê giữ trật tự cho đám ma).
- Những ông bạn thân của cố Hồng , là những vị “tai to mặt lớn”, đến viếng tang mà trên ngực áo đeo đầy
huân chương ‘Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao mên bội tinh, Vạn tượng bội tinh…” ; và trên mép và và cằm
họ xuất hiện đủ mọi kiểu râu : “hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung , hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn
quăn…”, đám tang mà như lễ báo công để trưng bày huân chương và như là một hội thi râu.--> Lố bịch, kệch

cỡm.
- Bạn của các bà, các cô , tòan “giai thanh gái lịch”, vẻ ngoài ai nấy ra vẻ buồn rầu, nhưng họ lại tranh thủ để
“chim nhau, cười tình với nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…” Gỉa tạo , thiếu văn hóa.
4/ Tính phê phán còn thể hiện ở cảnh tổ chức đám tang và cảnh đưa tang :
- Cách tổ chức đám tang lộn xộn, ô hợp phô trương theo lối “ta , Tàu, Tây…” ; có vài ba trăm câu đối, vài ba
trăm người đi đưa; đám đi đấn đâu thì huyên náo lên tới đó … đua đòi , chạy theo lối sống văn minh rởm.
- Cách phục trang : các bà , các cô thi nhau mặc đồ xô gai tân thời …( Cô Tuyết mặc ý phục ngây thơ bằng
ren , hở nách …”  đám ma mà như một sàn diễn thời trang.
- Cảnh đưa tang và cảnh hạ huyệt : nhốn nháo, giả tạo ( cố Hồng cũng ho, khóc , mếu, khạc…; Tú Tân và các
bạb thi nhau chụp ảnh như ở hội chợ; Phán mọc sừng thì oặt người, khóc Hứt! Hứt ! những vẫn không quên làm
ăn bí mật với Xuân…)
=> Tất cả đều phơi bày rõ nét sự suy đồi về đạo đức của một bọn người thượng lưu nhưng thực hất là cặn bã của
xã hội.
5/ Nhân vật Xuân tóc đỏ xuất hiện giữa lúc đám tang đang di chuyển, làm cho cảnh đưa đám thêm lố lăng.Hắn
bộc lộ cáci tinh quái , láu lỉnh bên cạnh tính đểu cáng và dâm đãng vốn có .Hắn biết tự quảng cáo mình đúng lúc ,
đáp ứng đúng ý thích của những người mà hắn cần lấy lòng như bà Văn Minh, như cô tuyết
III/ Kết bài :
- Bằng ngòi bút trao phúng trào phúng bậc thầy, qua đọan trích, VTP đã vạch mặt bọn trưởng giả chạy theo
đồng tiền, đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại thời đó.
- Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một nhà văn hiện thực hàng đầu trong nền văn xuôi trước C/m


Đề bài 4: Phân tích nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong "Hạnh phúc của một tang gia"
Mỗi dòng văn đều có cảm hứng riêng cho nó. Đối với văn học hiện thực, nhìn chung cảm hứng của nó là sự phủ nhận và phê
phán thực tại xã hội thông qua những nhân vật điển hình và đặc sắc. Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm tố cáo hiện thực xã
hội độc đáo bằng tiếng cười ào ạt, bằng một hình tượng “kì dị” mà nổi bật và đại diện trong tác phẩm là nhân vật Xuân Tóc Đỏ.
Thông qua Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng cho thấy cái xã hội lúc bấy giờ là “tấn kịch thực sự của con người giữa những sự
giả dối buồn cười”. Đó là một tên cơ hội, tiến được trong xã hội nhờ trò “gian trá bịp bợm”. Xuân Tóc Đỏ thực chất chỉ là một
đứa lưu manh, vô học với lí lịch tối đen như mực: “Thằng Xuân lấy đầu hè, xó cửa làm nhà; lấy sấu các phố, cá hồ Hoàn Kiếm
làm vui. Nó đã bán phá xa, bán nhật trình, bán cao đơn hoàn tán trên xe lửa, chạy rạp hát, và với ba nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh

nắng mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây. Cảnh ngộ đó tạo nên nó một đứa hoàn toàn vô giáo dục, nhưng tính nó quái lắm,
thạo đời lắm”... Cuộc sống đầu đường xó chợ, những bài học ở vỉa hè, tạo ra một thằng Xuân bụi đời, lưu manh, tinh quái. Xuân
lang thang tự kiếm sống với nhiều nghề nghiệp “rẻ tiền” nên về lâu càng trở nên ranh mãnh hơn. Nhưng cũng nhờ vào những
hoàn cảnh đặc biệt đó, Xuân đã nhập vào thế giới thương lưu, những kẻ giàu có, từ ông bà Văn Minh, bà phó Đoan, cô Tuyết...
nói chung cái xã hội thương lưu đó là môi trường rất tốt để nuôi dưỡng những loại người như Xuân Tóc Đỏ. Con đường tiến lên
của Xuân hoàn toàn là do những cơ may. Có những điều mà đến chính Xuân cũng không ngờ được. Do bản tính nhanh nhẹn, láu
cá, hắn tạo được chỗ đứng trong gia đình ông bà Văn Minh. Để từ một anh nhặt banh ở sân quần, một gã thổi loa kén quảng cáo
thuốc lậu trở thành sinh viên trường thuốc, một quan đốc- tờ Xuân, một cây hi vọng của giứo quân vợt Bắc kì, một vĩ nhan cứu
quốc, một bậc thượng lưu của xã hội... Tất cả tuy có được nhà văn phóng đại, nhưng cái điều cốt yếu vẫn là sự tố cáo chân thực
hiện thực xã hội. Thực vậy Xuân chỉ là một tên vô lại bằng những ngôn từ thấp hèn cửa miệng: “Mẹ kiếp”, “Nước mẹ gì”... Do
biết một tí về nghề thuốc, trong thời gian quảng cáo thuốc lậu, hắn được Văn Minh giới thiệu là “sinh viên trừng thuốc” và hắn
chữa khỏi bệnh cho cụ cố Tổ: Bước đầu hắn đã gặp được vận đỏ: Chẳng những được tiếng mà còn được tình. Người đầu tiên mê
phục Xuân là cô Tuyết (tình nguyện trực đêm với “quan đốc - tờ”) và một loạt người khác dần dần chú ý và cũng thấy mê nó. Sự
tình cờ màu nhiệm càng làm thanh thế của Xuân to lên trong gia đình của Văn Minh, từ đó “sự ngu độn của nó được người ta
cho là nhũn nhặn, là sự khiêm tốn, nên nó càng được yêu mến hơn”. Bà phó Đoan cũng đã có tình với nó và cho nó là người có
học thức, ông phán mọc sừng cũng xem nó là ngư đứng đắn... Cuộc đời Xuân Tóc Đỏ hết gặp vận may này đến vận may khác. Sự
“huyên thuyên” của hắn khi chữa bệnh cho cụ cố làm mọi người kinh ngạc, nhưng hắn đã chinh phục được họ. Ở nhân vật này
xuất hiện nhiều điều bất ngờ nhưng lại phù hợp với lô – gíc nội tại. Tính cách luôn có những mặt trước sau không hể thay đổi.
Bản chất của một tên lưu manh, mở miệng ả là cứ “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”. Sự khôn ranh không phải do học hành mà do sự bắt


chước, che đậy, đối phó với mọi tình huống. Nào hắn có biết làm thơ đâu mà cũng được tôn là “Xuân Tóc Đỏ thi sĩ”, thực chất
hắn chỉ thuộc bài thơ “thuốc cảm, nhức đầu” của những tiệm thuốc giao cho hắn đi bán dạo! Trên sân khấu cuộc đời xô bồ hỗn
độn hắn sắm rất nhiều vai hài kịch. “Nhưng đôi khi, giữa lúc đang múa may khóc cười trên sân khấu, hắn bỗng nhớ đến thân
phận hèn mọn của mình và gần như sững đi trong chốc lát, trong cái giây phút quan trọng đó, hắn hiện nguyên hình là một thằng
Xuân hạ lưu, vô học” (Phan Cự Đệ). Chẳng hạn lúc Xuân Tóc Đỏ “ưỡn ngực” nói to trước vợ chồng ông Phán và trước mặt cả
nhà Văn Minh: “Thưa ngài, ngài là người chồng mọc sừng!”. Tình cảnh bi đát xảy ra: Ông Phán dây thép ôm lấy ngực ngã quỵ
xuống đất, cụ Tổ cũng nấc một cái to, ngã xuống giường”... Trong lúc bối rối nguy ngập này, Xuân Tóc Đỏ thú tội và chỉ biết
chạy thẳng một mạch như kẻ cắp: “Thưa cụ, quả con vô học, xưa nay nhặt banh quần hạ lưu, không biết thuốc ạ!”. Nhưng rõ là
số hắn quá đỏ: hắn không bị xem thường mà còn được trọng vọng! Cái chết của cụ Tổ càng làm người ta nể phục hắn. Đám tang

cụ cố trước đó không hề có mặt hắn, nhưng trên đường mai táng rộn rịp bỗng có sự xuất hiện lạ lùng của chiếc xe tang mà trên
đó có Xuân và mấy vị sư chùa bà Đanh ngồi chễm chệ. Chính sự xuất hiện này đã làm cho đám tang ngày càng sang trọng,
thượng lưu. Thân chủ của cụ Tổ càng thấy khâm phục Xuân bởi Xuân đã góp phần làm lừng danh “đám tang lớn nhất từ trước
đến nay”. Nhưng đó là một sự thật mỉa mai, lố bịch, phũ phàng, tàn nhẫn :Bởi chính nó đã gây ra cái chết cho cụ Tổ.Tình cảm gì
cái thằng Xuân, sự xuất hiện của nó một lần nữa tô đậm con người đểu cáng, vô lương tâm của Xuân, và của cả cái xã hội văn
minh “chó đểu”. Đó là hiện thực, hiện thực toát lên bằng cái nhìn châm biếm và tiếng cười ồ ạt. Nó không phải là tiếng khóc, là
nước mắt như “Đám tang lão Gôriô” ( Lão Gôriô – Ban Zắc). Xuân Tóc đỏ thấy rõ vị trí của mình trong xã hội, hắn ngày càng
nhận rõ muốn tạo được thanh thế và uy tín thì phải xem thường mọi người ! Hắn càng làm bộ, giả dối bao nhiêu thì lại được kính
trọng bấy nhiêu... Dù làm ra vẻ kiểu cách nhưng bản chất của nhân vật này vẫn là lố bịch, kệch cỡm. Thái độ của hắn mỗi lần
được tiếp xúc với mọi người chỉ là sự đòi hỏi kiểu cách : “Rất hân hạnh”...và hết sức lố bịch khi hắn đứng trước quần chúng :
“Hỡi quần chúng, mi không hiểu gì, mi oán ta. Ta vẫn yêu quý mi, mặc lòng mi chẳng rõ lòng ta. Thôi giản tán đi !”. Thực chất
của Xuân Tóc Đỏ là như vậy. Tác giả xây dựng thành công nhân vật này bằng bút pháp châm biếm sâu sắc, bằng tiếng cười tung
hê vào mặt xã hội “Âu hoá” kệch cỡm. Xuân Tóc Đỏ không chỉ là tính cách của một cá nhân mà là sự tổng hợp các loại người
trong xã hội thối tha ấy. Những kẻ luôn vỗ ngực tự coi mình là văn minh là những cải cách thực chất bọn họ là những bầy hề
sống thượng lưu, thác loạn. Chỉ trong xã hội thực dân thì những kẻ như Xuân Tóc Đỏ mới có “vai trò quan trọng” đứng trên
thiên hạ làm xã hội điên đảo, mục nát.
Xuân Tóc Đỏ là hình tượng độc đáo trong tiểu thuyết hoạt kê đọc nhất vô nhị của văn học hiện thực 1930 – 1945. Thông
qua những chuỗi cười mà Vũ Trọng Phụng lên án gay gắt cái xã hội đồi bại đê tiện thời ông sống. Tiếng cười ấy đồng thời cũng
là tiếng chửi thẳng vào bọn người học đòi làm quý tộc, làm tư sản nhưng ngu độn, chỉ biết sống vì đồng tiền mà quên đi nhân


phẩm.

Đề 5 NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
A. Mở bài
“Số đỏ” (1936) là một kiệt tác lừng danh của nhà văn hiện thực trào phúng kiệt xuất Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939).
Toàn bộ tác phẩm là một chuỗi cười châm biếm giòn giã, sảng khoái, nhưng cay độc, ném thẳng vào bộ mặt xã hội thượng lưu,
trưởng giả thành thị chạy theo “mốt”, “văn minh”, “Âu hóa”, “Cải cách xã hội” hết sức nhố nhăng, đồi bại và bịp bợm đương thời.
Tiếng cười trào phúng đặc sắc và đầy tài năng ấy của Vũ Trọng Phụng dường như được kết tinh ở “Hạnh phúc của một tang gia”,
một chương sách có giá trị hiện thực vừa rộng lớn, vừa sâu sắc.

B. Thân bài
I. Nêu ý nghĩa
“Nói đến nghệ thuật trào phúng là nói đến nghệ thuật gây tiếng cười mang ý nghĩa phê phán, lên án, đả kích xã hội. Trước hết, nó
đòi hỏi phải vạch ra được mâu thuẫn đáng cười của đối tượng, rồi dùng biện pháp phóng đại (cường điệu) để tô đậm làm nổi bật
mâu thuẫn đó, khiến cho đối tượng càng trở nên đáng cười. Nhà văn trào phúng tài năng là nhà văn giỏi phát hiện ra những mâu
thuẫn trào phúng, tạo nên những tình huống trào phúng, dựng lên được những chân dung trào phúng”
II. Hiểu như vậy, chúng ta thấy mâu thuẫn trào phúng trước hết được thể hiện ngay ở nhan đề giật gân, đầy tính chất mỉa
mai, châm biếm: “Hạnh phúc của một tang gia”.
1. Xưa nay, theo đạo lí thông thường mà cũng là phù hợp với quy luật tình cảm của con người thì không một gia đình nào lại
vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc trước cái chết của người thân. Ấy vậy mà ở đây cả gia đình nhà cố Hồng lại nhất loạt phấn khởi,
vui mừng trước cái chết đột ngột của cụ Tổ - người đã từng là cha, là ông của chúng. Vì “cái chết của ông cụ đáng chết” này đã
trở thành một dịp may đặc biệt để mỗi người trong gia quyến, thỏa mãn được một nguyện vọng xấu xa nào đó, nên ai cũng rất
hạnh phúc.
2. Điều thú vị là mọi người nhờ cái chết của cụ Tổ mà ai cũng được hưởng hạnh phúc, song lí do và những biểu hiện của nó lại
khác nhau, không ai giống ai, thật là đa dạng, sinh động và hấp dẫn (phân tích ngắn gọn từng nhân vật với vẻ bề ngoài phù hợp
với nhà có đám tang, nhưng trong bụng thì đang khấp khởi mừng thầm vì mỗi người đều đạt được những tham vọng của bản thân:
Cụ Cố Hồng, Văn Minh chồng, Phán mọc sừng, cậu Tú Tân, Tuyết…).
3. Mỉa mai hơn nữa là hạnh phúc của gia đình có đám tang này rất lớn, lớn đến nỗi tràn cả ra để những người ngoài gia đình
cũng được hưởng (sự mâu thuẫn giữa những hình thức và nội dung của những chân dung trào phúng, đã được ngòi bút của Vũ


Trọng Phụng điểm qua nhưng rất chân thực, sinh động và đầy ấn tượng và có ý nghĩa châm biếm, đả kích rất sâu sắc: Xuân Tóc
Đỏ, chủ tiệm Âu Hóa, sư Tăng Phú, cảnh sát Min Đơ, Min Toa, đám trưởng giả, bạn thân cụ Cố…
III. Mâu thuẫn xuyên suốt cảnh tượng đám tang: Đây là một đám ma rất to, rất đông được tiến hành trọng thể, nhưng kì
thực đó là một đám rước đám hội hóa trang rất linh đình và vui vẻ. Ở đây một lần nữa bộc lộ tài trào phúng bậc thầy của
Vũ Trọng Phụng.
1. Cái đám tang của cụ Tổ quả thật “rất gương mẫu”, to tát “danh giá nhất tất cả”, có đủ mọi thứ nghi thức sang trọng. Nhưng
cái đám tang “vui vẻ” ấy đã phơi bày bản chất khoa trương, rởm hợm, vô văn hóa. Cái đám tang của nhà cụ Tổ có đủ mọi thứ rất
“to tát” có thể làm cho “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng” ấy lại thiếu một yếu tố quan trọng để
thành một đám ma bình thường. Đó là tình người, nỗi đau buồn đối với người đã khuất (thái độ, tình cảm của người đi đưa tang,

những mẩu đối thoại vụn vặt, lộn xộn đã nói được bản chất đồi bại, không đạo lí, tình nghĩa của những kẻ mang danh “tân
thời”…).
2. Cảnh tượng đám tang nói trên được kết thúc bằng một chi tiết có ý nghĩa đả kích thâm thúy sâu cay (chi tiết vừa khóc rống
lên ra dáng một cháu rể quý hóa, vừa giữ bí mật “dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp tư” để “giữ chữ tín làm
đầu” và chuẩn bị hợp tác với hắn một cuộc kinh doanh mới mà ông Phán đã trù tính). Ông Phán quả là một diễn viên kịch xuất sắc
là đây là đỉnh cao của sự trào phúng trong màn hài kịch “Đám ma gương mẫu”.
IV. Nghệ thuật trào phúng còn được thể hiện trong việc tác giả sử dụng nhiều hình ảnh, câu văn, từ ngữ…bất ngờ, mang
ý nghĩa châm biếm (dẫn chứng).
C. Kết luận
- Chương sách là một màn hài kịch được tạo nên bởi một chuỗi cười trào phúng giòn giã.
- Thông qua đó, tác giả đã lật tấy bộ mặt thật vô văn hóa, thối nát, bịp bợm, lố bịch của bọn thượng lưu bấy giờ.
- Sử dụng thủ pháp phóng đại, nhưng người đọc vẫn cho là thật, vì tất cả đều có hạt nhân khách quan hợp lí.
- Liên hệ với đoạn trích “Đám tang lão Gorio” để làm nổi rõ tầm khái quát của ngòi bút Vũ Trọng Phụng.


Đề bài 6: Phân tích cảnh đám tang "gương mẫu" trong "Hạnh phúc của một tang gia"
Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội
trời chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc
được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật,
lại“nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!
Chương 15 – HP của một tang gia là một trong những màn hài kịch đặc sắc nhất của tiểu thuyết “Số đỏ” của VTP.
Để dàn dựng một màn hài kịch cười, trước hết phải phát hiện ra một mâu thuẫn trào phúng. Tiếng cười có muôn hình vạn
trạng, tuy nhiên bao giờ nó cũng bật ra trước một mâu thuẫn trào phúng được phóng đại lên. Mâu thuẫn trào phúng trong chương
15 được gợi lên ngay từ cái nhan đề của nó. Tang gia mà lại hạnh phúc! Nhà có người chết mà lại vui! Tang gia quả có bối rối
nhưng đó là cái bối rối sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám rước, một ngày hội. Người chết là cụ cố tổ. Cụ mất đi
để lại một gia tài lớn. Nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: chỉ chia gia tài cho con cháu khi cụ đã qua đời. Thật là sốt
ruột, vì cụ cứ sống mãi. Con cái, dâu rể đều chờ đợi cái chết của cụ như chờ đợi một hạnh phúc vậy.
Và hạnh phúc đã đến.
Đặc sắc của đoạn trích là đã diễn tả được chung quanh hạnh phúc chung của tang gia, mỗi thành viên trong gia đình lại có một
hạnh phúc riêng không ai giống ai, gắn liền với tính cách riêng của mỗi người và mỗi nhân vật lại có một mâu thuẫn trào phúng.

Chẳng hạn, cụ cố Hồng. Vì là cụ cố nên luôn đóng vai già yếu, tuy tuổi cụ mới ngoài 50. Xưa nay, cụ mới đóng trò già yếu trong
nhà, nay nhờ có đám tang cụ được diễn trò già yếu trước hàng nghìn người. “Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mà mơ màng đến
lúc cụ mặc đồ xô gai. Lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi chà! Trông kìa! Con trai lớn
đã già đến thế kia kìa!” Vợ chồng Văn Minh thì chắc chắn sẽ được chia một gia tài kha khá, chỉ còn phải lo mời luật sư đến
chứng kiến cái chết của cụ cố tổ để cái chúc thư kia đi vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa.
Đây cũng là dịp để tiệm may âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mốt trang phục táp bạo nhất có thể ban cho những ai có
tang đương đau đớn, vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Cô Tuyết thì sung sướng vì được mặc bộ y phục Ngây
thơ hở cả nách và nửa vú viền đen, đội cái mũ mấn xinh xinh…. Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ
buồn lãng mạn rất đúng mốt. Ông Phán mọc sừng lại hả hê vì đã được cụ cố Hồng hứa chia thêm cho vài nghìn đồng. Chính cụ
cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu lại to đến như thế. Cậu Tú Tân mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà vẫn
chưa được dùng đến. Xuân Tóc Đỏ càng được vênh vang hơn vì nhờ nó mà cụ Cố mới lăn đùng ra chết. (Nó tố cáo ngay trước
mặt cụ tội ngoại tình của cô Hoàng Hôn, cháu gái của cụ, và cắm sừng vào đầu ông Phán, cháu rể cụ) Là cố vấn của báo Gõ Mõ,


Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám tang vì đã bổ sung vào sự long trọng sáu chiếc xe chở sư cụ chùa bà Banh, đại diện
hội Phật Giáo, báo Gõ Mõ cùng với những vòng hoa đồ sộ… Hạnh phúc còn lan ra cả ngoài gia đình người chết. Cảnh sát Min
Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ cố Hồng được dịp khoe khoang sự oai vệ và
danh giá của mình, những bội tinh và râu ria… Hàng phố thì vui quá vì mấy khi được xem đám ma to như thể là hội chợ. Một
trong những nét đặc sắc của chương truyện là tả đám đông ồn ào. Láo nháo, nhặng xị. Dường như có ý thức khi vận dụng kĩ thuật
điện ảnh, tác giả lùi xa quay toàn cảnh đám tang đang nghiêm chỉnh đi theo quan tài người chết đến tận huyệt với cái điệp khúc
đám cứ đi…. Có khi lại dí sát ống kính quay cận cảnh để thấy đây không phải là một đám ma mà là một đám rước, đám hội hết
sức vui vẻ. Đám cứ đi nhưng không ai nghĩ đến việc đưa đám. Đến đây không phải để khoe những bộ ngực đầy huân, huy chương
và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về những chuyện vợ con, chuyện sắm một cái áo, cái tủ…. Còn bọn
thanh niên thì chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa
đám ma. Màn kịch kết thúc bằng chi tiết hài hước chó đểu. Ông Phán mọc sừng dúi vào tay Xuân 5 đồng thanh toán tiền thuê
Xuân tố cáo cái nhục mọc sừng của ông ta.
Số Đỏ là một cuốn tiểu thuyết dùng hình thức giễu nhại, lật tẩy tính chất bịp bợm của những tầng lớp gọi là thượng lưu, trí
thức của Hà Nội xưa.
Tất cả là một cuộc diễn trò lớn: MỘT CUỘC BÁO HIẾU LINH ĐÌNH NHẤT CỦA MỘT GIA ĐÌNH ĐẠI BẤT HIẾU
1. Giá trị châm biếm và đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản xấu xa, đồi bại và thối nát.

- Trong gia đình, ông chết, cha chết - một cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm. Cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt lại mơ
màng”… vì cụ chắc thiên hạ “ai cũng phải khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế!”. Ông phán mọc sừng sung sướng
vì ông ta không ngờ rằng “đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế” nên đã được cụ cố Hồng - bố vợ - hứa sẽ chia
thêm cho con gái và con rể thêm vài nghìn đồng… Văn Minh chồng rất hạnh phúc vì từ nay cái chúc thư chia gia tài “sẽ đi vào
thời kỳ thực hành”. Cậu tú Tân được dịp dùng đến mấy cái máy ảnh. Bà Văn Minh sung sướng vì cái mốt về những bộ đồ xô gai
tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen… sẽ đem đến cho những ai có tang “được hưởng chút hạnh phúc ở đời”. Ông Typn chờ mong
các báo chí phê bình “những chế tạo của mình” trong cuộc cải cách y phục của Âu hóa… Tuyết thì diện bộ đồ NGÂY THƠ để
cho thiên hạ biết rằng “mình chưa đánh mất cả chữ trinh”, v.v…
- Ở ngoài xã hội, hai viên cảnh sát MIN ĐƠ, MIN TOA., giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn như nhà buôn vỡ
nợ thì được có đám thuê nên “sung sướng cực điểm”. Các quan khách đến đưa mà, bạn của Tuyết, Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà
Phó Đoan, những giai thanh gái lịch được dịp “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau,
hẹn hò nhau…”. Banh thân của cụ cố Hồng đến đưa đám ma với cái ngực “đầy những huy chương…”, với bộ râu “hoặc dài hoặc


ngắn, hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”… đến để khoe tài, khoe đức, khoe của… Sư cụ Tăng
Phú thì sung sướng vênh váo, ngồi trên một chiếc xe vì đã “đánh đổ đượng Hội Phật giáo, và như thế là cuộc đắc thắng đầu tiên
của báo Gõ Mõ vậy”. Còn Xuân tóc Đỏ đến đưa đám với sự cố ý đến chậm, bằng 2 vòng hoa đồ sộ, 6 chiếc xe có cắm lọng,… hắn
đã làm cho Tuyết “liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám ơn”, làm cho cụ bà sung sướng thốt lên: “Ông Đốc Xuân đã không giận
mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả”. Và Xuân sao không sung sướng, chỉ một câu
nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” mà được ông phán-mọc-sừng trả công đến một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư
“dúi vào tay”…
Đúng là “hạnh phúc của một tang gia”, mặc dù lúc hạ huyệt có cụ cố Hồng mếu, ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”.
2. Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:
- Một đám ma được kể và tả như một đám rước xách với nhiều vai hề già có, trả có, đàn ông, đàn bà… của tầng lớp tư sản “Âu
hóa” rởm. Tác giả biểu lộ sự khinh bỉ, châm biếm sâu cay.
- Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng vận dụng sắc sảo tài tình:
+ Phóng đại: cụ cố Hồng sung sướng quá vì chuyện bố chết mà hút liền một chặp 60 điếu thuốc phiện, gắt 1872 lần câu: “Biết
rồi, khổ lắm, nói mãi!”.
+ Đặc tả những bộ râu của các ông bạn của cụ cố Hồng rất hài hước!
+ Phục bút: Xuân đến đưa đám muộn, lúc đầu làm cho Tuyết đau khổ “có thể muốn tự tử được”, lúc hắn đến, Tuyết liếc mắt đưa

tình cho hắn để tỏ ý cảm ơn. Và cụ bà thì thốt lên sung sướng “đám ma kể đã là danh giá nhất tất cả!”.
+ Những vai hề: cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng bắt bẻ từng người “hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong
lưng…” để chụp ảnh. Ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” nhưng lại bí mật giúi vào tay Xuân tờ giấy bạc 5 đồng gấp
tư… - Rất sòng phẳng trong việc mua bán “danh lợi”!
+ Sử dụng tương phản làm nổi bật cái hài, cái rởm, cái đồi bại, thối nát vô luân hãnh diện. Ví dụ, sư cụ Tăng Phú, v.v…
Đến đây, có thể kết luận rằng: Từ cái “chết thật” của “ông cụ già” đến đám ma giả của tang gia, và từ cái đám ma giả tang gia
đến niềm vui thật của bọn người hám danh, hám lợi, đạo đức giả được kể trong chương truyện này là cả một hành trình sáng tạo
của một tài năng lớn – tài năng trào phúng Vũ Trọng Phụng.


Hạnh phúc một tang gia
(Trích Tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng )
I/Tìm hiểu chung
1.Tác giả
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) quê nội ở Hưng Yên. Ông sống và viết văn tại Hà Nội. Sở trường về phóng sự, được các báo chí
thời bấy giờ gọi là “Ông vua phóng sự đất Bắc”.
Tác phẩm:
- Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937), v.v…
- Tiểu thuyết: Giông tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ đê (1936), Trúng số độc đắc (1938), v.v…
- Kịch: Không một tiếng vang (1931).
Vũ Trọng Phụng có tài châm biếm đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết sức bất công, tàn bạo, thối nát… Ông đã
sáng tạo ra những nhân vật điển hình bất hủ như Xuân Tóc Đỏ để chế giễu cái xã hội mà ông gọi là “khốn nạn”, “chó đẻ”.
2.Đoạn trích
- Xuất xứ: “Hạnh phúc của một tang gia”, trích toàn bộ chương 15 tiểu thuyết “Số đỏ”, một kiệt tác của Vũ Trọng Phụng, xuất
bản năm 1936.
II/Đọc hiểu văn bản
1.Giá trị châm biếm và đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản xấu xa, đồi bại và thối nát.
- Trong gia đình, ông chết, cha chết - một cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm. Cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt lại mơ
màng”… vì cụ chắc thiên hạ “ai cũng phải khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế!”. Ông phán mọc sừng sung sướng
vì ông ta không ngờ rằng “đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế” nên đã được cụ cố Hồng - bố vợ - hứa sẽ chia

thêm cho con gái và con rể thêm vài nghìn đồng… Văn Minh chồng rất hạnh phúc vì từ nay cái chúc thư chia gia tài “sẽ đi vào
thời kỳ thực hành”. Cậu tú Tân được dịp dùng đến mấy cái máy ảnh. Bà Văn Minh sung sướng vì cái mốt về những bộ đồ xô gai
tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen… sẽ đem đến cho những ai có tang “được hưởng chút hạnh phúc ở đời”. Ông Typn chờ mong
các báo chí phê bình “những chế tạo của mình” trong cuộc cải cách y phục của Âu hóa… Tuyết thì diện bộ đồ NGÂY THƠ để
cho thiên hạ biết rằng “mình chưa đánh mất cả chữ trinh”, v.v…
- Ở ngoài xã hội, hai viên cảnh sát MIN ĐƠ, MIN TOA., giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn như nhà buôn vỡ
nợ thì được có đám thuê nên “sung sướng cực điểm”. Các quan khách đến đưa mà, bạn của Tuyết, Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà


Phó Đoan, những giai thanh gái lịch được dịp “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau,
hẹn hò nhau…”. Banh thân của cụ cố Hồng đến đưa đám ma với cái ngực “đầy những huy chương…”, với bộ râu “hoặc dài hoặc
ngắn, hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”… đến để khoe tài, khoe đức, khoe của… Sư cụ Tăng
Phú thì sung sướng vênh váo, ngồi trên một chiếc xe vì đã “đánh đổ đượng Hội Phật giáo, và như thế là cuộc đắc thắng đầu tiên
của báo Gõ Mõ vậy”. Còn Xuân tóc Đỏ đến đưa đám với sự cố ý đến chậm, bằng 2 vòng hoa đồ sộ, 6 chiếc xe có cắm lọng,… hắn
đã làm cho Tuyết “liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám ơn”, làm cho cụ bà sung sướng thốt lên: “Ông Đốc Xuân đã không giận
mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả”. Và Xuân sao không sung sướng, chỉ một câu
nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” mà được ông phán-mọc-sừng trả công đến một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư
“dúi vào tay”…
Đúng là “hạnh phúc của một tang gia”, mặc dù lúc hạ huyệt có cụ cố Hồng mếu, ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”.
2. Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:
- Một đám ma được kể và tả như một đám rước xách với nhiều vai hề già có, trả có, đàn ông, đàn bà… của tầng lớp tư sản “Âu
hóa” rởm. Tác giả biểu lộ sự khinh bỉ, châm biếm sâu cay.
- Các thủ pháp nghệ thuật trào phúng vận dụng sắc sảo tài tình:
+ Phóng đại: cụ cố Hồng sung sướng quá vì chuyện bố chết mà hút liền một chặp 60 điếu thuốc phiện, gắt 1872 lần câu: “Biết rồi,
khổ lắm, nói mãi!”.
+ Đặc tả những bộ râu của các ông bạn của cụ cố Hồng rất hài hước!
+ Phục bút: Xuân đến đưa đám muộn, lúc đầu làm cho Tuyết đau khổ “có thể muốn tự tử được”, lúc hắn đến, Tuyết liếc mắt đưa
tình cho hắn để tỏ ý cảm ơn. Và cụ bà thì thốt lên sung sướng “đám ma kể đã là danh giá nhất tất cả!”.
+ Những vai hề: cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng bắt bẻ từng người “hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong
lưng…” để chụp ảnh. Ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” nhưng lại bí mật giúi vào tay Xuân tờ giấy bạc 5 đồng gấp

tư… - Rất sòng phẳng trong việc mua bán “danh lợi”!
+ Sử dụng tương phản làm nổi bật cái hài, cái rởm, cái đồi bại, thối nát vô luân hãnh diện. Ví dụ, sư cụ Tăng Phú, v.v…
3.Nhân vật Xuân tóc đỏ
Mỗi dòng văn đều có cảm hứng riêng cho nó. Đối với văn học hiện thực, nhìn chung cảm hứng của nó là sự phủ nhận và phê phán
thực tại xã hội thông qua những nhân vật điển hình và đặc sắc. Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm tố cáo hiện thực xã hội độc
đáo bằng tiếng cười ào ạt, bằng một hình tượng “kì dị” mà nổi bật và đại diện trong tác phẩm là nhân vật Xuân Tóc Đỏ.
Thông qua Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng cho thấy cái xã hội lúc bấy giờ là “tấn kịch thực sự của con gnười giữa những sự giả


dối buồn cười”. Đó là một tên cơ hội, tiến được trong xã hội nhờ trò “gian trá bịp bợm”. Xuân Tóc Đỏ thực chất chỉ là một đứa
lưu manh, vô học với lí lịch tối đen như mực: “Thằng Xuân lấy đầu hè, xó cửa làm nhà; lấy sấu các phố, cá hồ Hoàn Kiếm làm
vui. Nó đã bán phá xa, bán nhật trình, bán cao đơn hoàn tán trên xe lửa, chạy rạp hát, và với ba nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh nắng
mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây. Cảnh ngộ đó tạo nên nó một đứa hoàn toàn vô giáo dục, nhưng tính nó quái lắm, thạo đời
lắm”...
Cuộc sống đầu đường xó chợ, những bài học ở vỉa hè, tạo ra một thằng Xuân bụi đời, lưu manh, tinh quái. Xuân lang thang tự
kiếm sống với nhiều nghề nghiệp “rẻ tiền” nên về lâu càng trở nên ranh mãnh hơn. Nhưng cũng nhờ vào những hoàn cảnh đặc
biệt đó, Xuân đã nhập vào thế giới thương lưu, những kẻ giàu có, từ ông bà Văn Minh, bà phó Đoan, cô Tuyết... nói chung cái xã
hội thương lưu đó là môi trường rất tốt để nuôi dưỡng những loại người như Xuân Tóc Đỏ. Con đường tiến lên của Xuân hoàn
toàn là do những cơ may. Có những điều mà đến chính Xuân cũng không ngờ được. Do bản tính nhanh nhẹn, láu cá, hắn tạo được
chỗ đứng trong gia đình ông bà Văn Minh. Để từ một anh nhặt banh ở sân quần, một gã thổi loa kén quảng cáo thuốc lậu trở thành
sinh viên trường thuốc, một quan đốc- tờ Xuân, một cây hi vọng của giứo quân vợt Bắc kì, một vĩ nhan cứu quốc, một bậc thượng
lưu của xã hội... Tất cả tuy có được nàh văn phóng đại, nhưng cái điều cốt yếu vânx là sự tố cáo chân thực hiện thực xã hội. Thực
vậy Xuân chỉ là một tên vô lại bằng những ngôn từ thấp hèn cửa miệng: “Mẹ kiếp”, “Nước mẹ gì”... Do biết một tí về nghề thuốc,
trong thời gian quảng cáo thuốc lậu, hắn được Văn Minh giới thiệu là “sinh viên trừng thuốc” và hắn chữa khỏi bệnh cho cụ cố
Tổ: Bước đầu hắn đã gặp được vận đỏ: Chẳng những được tiếng àm còn được tình. Người đầu tiên mê phcụ Xuân là cô Tuyết
( tình nguyện trực đêm với “quan đốc - tờ”) và một loạt người khác dần dần chú ý và cũng thấy mê nó. Sự tình cờ màu nhiệm
càng làm thanh thế của Xuân to lên trong gia đình của Văn Minh, từ đó “sự ngu độn của nso được người ta cho là nhũn nhặn, là
sự khiêm tốn, nên nó càng được yêu mến hơn”. Bà phó Đoan cũng đã có tình với nó và cho nso là người có học thức, ông phán
mọc sừng cũng xem nó alf ngươig đứng đắn...
Cuộc đời Xuân Tóc Đỏ hết gặp vận may này đến vận may khác. Sự “huyên thuyên” của hắn khi chữa bệnh cho cụ cố làm mọi

người kinh ngạc, nhưng hắn đã chinh phục được họ. Ở nhân vật này xuất hiện nhiều điều bất ngờ nhưng lại phù hợp với lô – gíc
nội tại. Tính cách luôn có những mặt trước sau không hể thay đổi. Bản chất của một tên lưu manh, mở miệng ả là cứ “mẹ kiếp”,
“nước mẹ gì”. Sự khôn ranh không phải do học hành mà do sự bắt chước, che đậy, đối phó với mọi tình huống. Nào hắn có biết
làm thơ đâu mà cũng được tôn là “Xuân Tóc Đỏ thi sĩ”, thực chất hắn chỉ thuộc bài thơ “thuốc cảm, nhức đầu” của những tiệm
thuốc giao cho hắn đi bán dạo! Trên sân khấu cuộc đời xô bồ hỗn độn hắn sắm rất nhiều vai hài kịch. “Nhưng đôi khi, giữa lúc
đang múa may khóc cười trên sân khấu, hắn bỗng nhớ đến thân phận hèn mọn của mình và gần như sững đi trong chốc lát, trong
cái giây phút quan trọng đó, hắn hiẹn nguyên hình alf một thàng Xuân hạ lưu, vô học” (Phan Cự Đệ). Chẳng hạn lúc Xuân Tóc Đỏ


“ưỡn ngực” nói to trước vợ chồng ông Phán và trước mặt cả nhà Văn Minh: “Thưa ngài, ngài là người chồng mọc sừng!”. Tình
cảnh bi đát xảy ra: Ông Phán dây thép ôm lấy ngực ngã quỵ xuống đất, cụ Tổ cũng nấc một cái to, ngã xuống giường”... Trong lúc
bối rối nguy ngập này, Xuân Tóc Đỏ thú tội và chỉ biết chạy thẳng một mạch như kẻ cắp: “Thưa cụ, quả con vô học, xưa nay nhặt
banh quần hạ lưu, không biết thuốc ạ!”. Nhưng rõ là số hắn quá đỏ: hắn không bị xem thường mà còn được trọng vọng! Cái chết
của cụ Tổ càng làm người ta nể phục hắn. Đám tang cụ cố trước đó không hề có mặt hắn, nhưng trên đường mai táng rộn rịp bỗng
có sự xuất hiện lạ lùng của chiếc xe tang mà trên đó có Xuân và mấy vị sư chùa bà Đanh ngồi chễm chệ. Chính sự xuất hiện này
đã làm cho đám tang ngày càng sang trọng, thượng lưu. Thân chủ của cụ Tổ càng thấy khâm phục Xuân bởi Xuân đã góp phần
làm lừng danh “đám tang lớn nhất từ trước đến nay”. Nhưng đó là một sự thật mỉa mai, lố bịch, phũ phàng, tàn nhẫn :Bởi chính nó
đã gây ra cái chết cho cụ Tổ.Tình cảm gì cái thằng Xuân, sự xuất hiện của nó một lần nữa tô đậm con người đểu cáng, vô lương
tâm của Xuân, và của cả cái xã hội văn minh “chó đểu”. Đó là hiện thực, hiện thực toát lên bằng cái nhìn châm biếm và tiếng cười
ồ ạt. Nó không phải là tiếng khóc, là nước mắt như “Đám tang lão Gôriô” ( Lão Gôriô – Ban Zắc )
Xuân Tóc đỏ thấy rõ vị trí của mình trong xã hội, hắn ngày càng nhận rõ muốn tạo được thanh thế và uy tín thì phải xem thường
mọi người ! Hắn càng làm bộ, giả dối bao nhiêu thì lại được kính trọng bấy nhiêu... Dù làm ra vẻ kiểu cách nhưng bản chất của
nhân vật này vẫn là lố bịch, kệch cỡm. Thái độ của hắn mỗi lần được tiếp xúc với mọi người chỉ là sự đòi hỏi kiểu cách : “Rất hân
hạnh”...và hết sức lố bịch khi hắn đứng trước quần chúng : “Hỡi quần chúng, mi không hiểu gì, mi oán ta. Ta vẫn yêu quý mi,
mặc lòng mi chẳng rõ lòng ta. Thôi giản tán đi !”. Thực chất của Xuân Tóc Đỏ là như vậy
Tác giả xây dựng thành công nhân vật này bằng bút pháp châm biếm sâu sắc, bằng tiếng cười tung hê vào mặt xã hội “Âu
hoá” kệch cỡm. Xuân Tóc Đỏ không chỉ là tính cách chủa một cá nhân mà là sự tổng hợp các loại người trong xã hội thối tha ấy.
Những kẻ luôn vỗ ngực tự coi mình là văn minh là những cải cách thực chất bọn họ là những bầy hề sống thượng lưu, thác loạn.
Chỉ trong xã hội thực dân thì những kẻ như Xuân Tóc Đỏ mới có “vai trò quan trọng” đứng trên thiên hạ làm xã hội điên đảo, mục
nát.

Xuân Tóc Đỏ là hình tượng độc đáo trong tiểu thuyết hoạt kê đọc nhất vô nhị của văn học hiện thực 1930 – 1945. Thông qua
những chuỗi cười mà Vũ Trọng Phụng lên án gay gắt cái xã hội đồi bại đê tiện thời ông sống. Tiếng cười ấy đồng thời cũng


Đề 7 Tác phẩm "Số đỏ" và quan niệm văn chương của Vũ Trọng Phụng
1. Văn chương là sự thực ở đời.
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời
(…). Các ông muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái
gì đúng sự thực, thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất lòng” (Để đáp lời báo Ngày nay).
2. Văn chương mổ xẻ nỗi đau, cải tạo xã hội.
“Văn chương chỉ là một món tiêu khiển nếu nó than mây khóc gió. Tôi quan niệm văn chương là một phương tiện tranh đấu
của những người cầm bút muốn loại khỏi xã hội con người những bất công, nhen lên trong lòng người nỗi xót thương đối
với kẻ bị chà đạp lên nhân phẩm, kẻ yếu, kẻ bị đày đoạ vào cảnh ngu tối, kẻ bị bóc lột, mỗi ngày kiếm ra đủ ăn bữa tối để
nhịn sáng hôm sau. Tôi sẽ cố gắng nhìn vào những nỗi đau của xã hội, may ra tìm được những thuốc khiến những cái ung
đó có thể hàn miệng, lên da” (Quan niệm của tôi về phóng sự và tiểu thuyết).
“Hắc ám, có! Vì tôi vốn là người bi quan, căm hờn cũng có, vì tôi cho rằng cái xã hội nước nhà mà không đáng căm hờn,
mà lại cứ “vui vẻ trẻ trung, trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ…” như các ông chủ trương thì một là không muốn cải cách
gì xã hội, hai là ích kỷ một cách đáng sỉ nhục” (Để đáp lời báo Ngày nay).

Về “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng
Số đỏ là tiểu thuyết trào phúng được viết theo cảm hứng hiện thực phê phán. Đây là hiện thực phê phán quyết liệt theo kiểu
Vũ Trọng Phụng. Đây là sự kết hợp có cơ sở. Đặc điểm của trào phúng là thường cười nhạo những thói xấu, tật xấu của
đối tượng. Đặc điểm của hiện thực phê phán là phát hiện bản chất xấu xa của xã hội và con người để phê phán.
Có nhiều lối trào phúng được sử dụng trong truyền thống. Vũ Trọng Phụng hầu như đã vận dụng tất cả. (truyền thống có ba
lối trào phúng: tạo mâu thuẫn, nói quá, xây dựng cái ngờ nghệch – ngu dốt). Đặc biệt là ở tiểu thuyết này, Vũ Trọng Phụng
đã xây dựng thành công những tình huống trào phúng, nhân vật trào phúng và ngôn ngữ trào phúng. Vũ Trọng Phụng đã
phát triển ở một tầm vóc chưa từng thấy nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi. Trước đây, trào phúng chỉ được thể hiện
trong một dung lượng nhỏ: truyện cười, ngụ ngôn, ca dao, truyện ngắn. Số đỏ là quyển tiểu thuyết trào phúng thành công
duy nhất. Trào phúng trước đây ở cấp độ nhân vật, tình tiết, trào phúng của Vũ Trọng Phụng ở cấp độ tình huống, cốt
truyện, hệ thống nhân vật.

Cái khó của xây dựng một tiểu thuyết trào phúng, nói như Nguyễn Đăng Mạnh, là mâu thuẫn giữa bản chất phóng đại của
trào phúng và tinh thần của khuynh hướng hiện thực. Để phê phán, thủ pháp của trào phúng là tô đậm nó lên, nhưng cũng
để phê phán, nó phải có cơ sở từ hiện thực. Vì nếu không, người đọc sẽ không biết nó phê phán cái gì. Chính vì thế,
trong Số đỏ, có sự đan xen giữa yếu tố thực và yếu tố phóng đại. Bề nổi là yếu tố phóng đại, bề sâu là những yếu tố thực,
là bản chất của sự thực. Tài nghệ của tác giả là gia giảm liều lượng cho những yếu tố này.
Số đỏ là chuỗi cười dài về một thế giới “vô nghĩa lí”. Vô nghĩa lí, theo Vũ Trọng Phụng là không có ý nghĩa gì, là không có
cơ sở thực tế gì, là đi ngược lại với luân lí và đạo đức, là không thể hiểu được và không thể chấp nhận được. Đây là một
quan niệm mang tính triết lí. Ứng vào xã hội, thì đó là một xã hội mà cái bịp bợp, sự giả dối, trọng hình thức, trọng vật chất
lên ngôi. Đó là xã hội mà mọi giá trị đều đảo lộn, một xã hội “Tây Tàu nhố nhăng”, Âu hoá nửa vời. Ứng vào con người thì
đó là những con người bỉ ổi, vị kỉ, giả dối, bịp bợp, vô nghĩa… đến cùng cực. Những con người là bất cứ cái gì, quyết
không phải là con người theo nghĩa viết hoa của nó. Vô nghĩa lí còn là ngẫu nhiên, không thể hiểu được, không thể chấp
nhận được. Nó phản ánh cái quan niệm về cuộc đời ngẫu nhiên, bất tất, có tính chất định mệnh của Vũ Trọng Phụng.
Số đỏ là một chuỗi cười không đơn giản chỉ là cười. Vì càng đào sâu vào bản chất xấu xa của con người bằng cái cười trào
phúng, tác phẩm càng chỉ ra một sự thực đáng buồn, con người đã đánh mất đi bản chất người của mình. Số đỏ, như vậy
là một cuộc hành trình đi tìm bản chất của con người, theo cái cách của Vũ Trọng Phụng, là từ mặt trái, và theo cái kiểu của
riêng ông, kiểu cười. Đúng như ông đã viết, “Tôi sẽ cố gắng nhìn vào những nỗi đau của xã hội, may ra tìm được những
thuốc khiến cho những cái ung đó có thể hàn miệng, lên da”.



×