Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

MẠC MẬU HỢP MƯU HẠI BỀ TÔI ĐỂ ĐOẠT VỢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.81 KB, 4 trang )

MẠC MẬU HỢP MƯU HẠI BỀ TÔI ĐỂ ĐOẠT VỢ
Mạc Mậu Hợp mưu giết bề tôi để cướp vợ
Ở ngôi 30 năm (1562-1592), Mạc Mậu Hợp là người làm vua lâu nhất trong số
các vua Mạc thời hưng thịnh. Tuy nhiên cũng chính ông vua này khiến cho cơ
nghiệp của họ Mạc suy vong. Và một trong các nguyên nhân chính là thói
hoang dâm hiếu sắc của ông.
Nếu như trong lịch sử Trung Quốc có không ít chuyện các hôn quân, bạo chúa
cướp vợ của thần dân, con em hoàng tộc hoặc bề tôi của mình để thỏa mãn dục
vọng thì lịch sử Việt Nam chỉ duy nhất có vua Mạc Mậu Hợp là dám làm
chuyện như vậy. Ông đã lập kế định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ
khiến cho một bộ phận binh lực nhà Mạc đã theo viên tướng này về quy phục
vua Lê làm cho thế lực của Mạc Mậu Hợp ngày càng suy yếu. Sự việc này xảy
ra vào cuối năm Nhâm Thìn (1592). Sách Lê triều thông sử viết: “Vợ viên trấn
thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên, tức con gái
Nguyễn Quyện. Chị gái của Thị Niên là hoàng hậu của Mậu Hợp vì thế Thị
Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu
mến bèn ngầm tính kế giết Văn Khuê để cướp vợ y”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết rõ hơn: “Chúa Mạc là Mậu
Hợp ngày ngày say đắm tửu sắc. Nguyễn thị là con gái của Nguyễn Quyện và là
vợ Bùi Văn Khuê, nhân có em gái là vợ của Mạc Mậu Hợp, nên thường ra vào
trong cấm cung. Mậu Hợp ưng ý Nguyễn thị vì nàng có nhan sắc, nên muốn giết
Văn Khuê để chiếm lấy nàng. Văn Khuê biết chuyện, bèn đem quân bản bộ tự ý
rút về Gia Viễn, đóng binh một chỗ, không chịu vào chầu. Mậu Hợp sai quân
đến bức bách để bắt Văn Khuê sai con trai là Văn Nguyên chạy vào Thanh Hoa,
dâng lễ đầu hàng và xin cứu viện. Trịnh Tùng ưng nhận cho hàng và mừng rỡ
nói: Văn Khuê đầu hàng, thế là trời giúp cho ta được chóng thành công. Đất đai
bản triều có thể hẹn ngày khôi phục được”.
Vua Hàm Nghi hai lần làm lễ lên ngôi
Hàm Nghi là vị vua yêu nước thời Nguyễn, ông tên thật là Nguyễn Phúc Ưng
Lịch được triều thần đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi sau khi anh trai
của ông là vua Kiến Phúc đột ngột qua đời đầy bí ẩn.




Vua Hàm Nghi
Lễ đăng quang của vua Hàm Nghi diễn ra vào ngày 02/8/1884, triều đình Huế
không thông báo sự kiện này cho phía Pháp như theo thỏa luận trong Hòa ước
Giáp Thân (06.6.1884), do đó đại diện Pháp là Khâm sứ Trung kỳ Rheinart
không thừa nhận. Để gây sức ép buộc triều đình Huế phải tổ chức lễ đăng quang
lại với sự có mặt của đại diện Pháp, ngày 16/8/1884, Tổng chỉ huy lực lượng
viễn chinh Pháp lúc đó là tướng Millot đã sai đại tá Guerrier đem 600 lính và 2
cỗ pháo đến uy hiếp và hạn sau 12 tiếng đồng hồ phải tổ chức lại lễ đăng quang.
Dù phải nhượng bộ nhưng phải đến 9 giờ sáng 18/8/1884 triều đình Huế mới tổ
chức lại lễ lên ngôi cho Ưng Lịch với sự hiện diện của Rheinart, Guerrier, 25 sĩ
quan và 160 lính Pháp. Thay mặt Chính phủ Pháp, Guerrier đọc diễn văn (do
Rheinart soạn sáng sớm hôm đó) công nhận Ưng Lịch là hoàng đế của nước Đại
Nam.
Giản Định Đế bị bắt làm Thái thượng hoàng
Thái thượng hoàng là ngôi vị mang nghĩa "vua bề trên". Danh hiệu này được
dùng từ khi người đó nhường ngôi vua cho con trai, cháu trai, hoặc em trai, cho
đến khi qua đời. Tuy nhiên trong lịch sử nước ta, cũng có một số trường hợp tuy
không làm vua nhưng vẫn được tôn làm Thái thượng hoàng như Sùng Hiền Hầu
thời Lý, Trần Thừa thời Trần… Chế độ Thái thường hoàng có từ thời Lý, trải
qua các triều Trần, Hồ, Hậu Trần, Mạc, Lê Trung Hưng có tổng cộng 17 người


ở trên ngôi vị này, trong số đó có duy nhất trường hợp của Giản Định Đế là bị
bắt phải làm Thái thượng hoàng.
Giản Định đế tên húy là Trần Ngỗi, còn có tên khác là Trần Quỹ, vị vua đầu tiên
của nhà Hậu Trần, được dựng lên trong thời kỳ đầu chống ách đô hộ của giặc
Minh xâm lược. Vì vua giết oan trung thần nên con Nguyễn Cảnh Chân là
Nguyễn Cảnh Dị, con Đặng Tất là Đặng Dung đều căm giận mới đem quân về

Thanh Hóa rước cháu của Giản Định đế là Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập
làm vua, lấy niên hiệu là Trùng Quang. Để thống nhất lực lượng kháng chiến,
vua Trùng Quang sai Thái phó Nguyễn Súy đem quân đánh thành Ngự Thiên
(nay thuộc Hưng Nhân, Thái Bình) bắt được Giản Định đế đưa về Nghệ An vào
ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1409), “tôn lên làm Thượng hoàng, cùng chung
sức đánh giặc” (Đại Việt sử ký toàn thư). Sự kiện này cũng được sách sử
phương Bắc chép, sách Nguyên sử viết: “Bấy giờ bọn Nguyễn Súy suy tôn Giản
Định làm Thái Thượng hoàng, lập riêng Trần Quý Khoáng làm vua, đặt niên
hiệu là Trùng Quang”.
Mặc dù bị bắt làm Thái thượng hoàng nhưng Giản Định đế cũng không có phản
ứng gì tiêu cực mà vẫn hăng hái đánh giặc cho đến khi bị chúng bắt được vào
tháng 7 năm Kỷ Sửu (1409) đưa về phương Bắc giết hại. Giản Định đế là vị
Thái Thượng hoàng duy nhất của thời Hậu Trần và ở ngôi ngắn nhất tronng lịch
sử (gần 4 tháng).
Lê Thế Tông xuất ngoại qua biên giới hội đàm
Quan hệ ngoại giao giữa các vương triều nước ta và các triều đại phong kiến
phương Bắc hầu hết đều thông qua các sứ thần, các đoàn sứ bộ, thế nhưng có
một trường hợp đặc biệt xảy ra thời Lê Thế Tông. Vị vua thứ 15 của nhà Hậu
Lê này đã đích thân xuất ngoại qua ải Nam Quan sang đất Trung Quốc hội đàm.
Khi ấy, tàn dư họ Mạc dựa thế của nhà Minh vẫn quấy rối, cát cứ ở đất Cao
Bằng. Một mặt nhằm hạn chế sự ủng hộ của nhà Minh với lực lượng của Mạc
Kính Dụng, mặt khác muốn nhà Minh phải thừa nhận danh nghĩa chính thống
của nhà Lê nên vua Lê Thế Tông đã thực hiện chuyến đi ngoại giao hiếm có
trong lịch sử vào năm Đinh Dậu (1597). Sách Lê triều thông sử cho biết: “Ngày
10 tháng 4, vua qua cửa trấn Nam Quan, cùng với quan đạo Tả Giang và quan
các phủ Tư Minh, Thái Bình thuộc Quảng Tây nhà Minh hội kiến, biện minh
các lẽ rõ ràng, làm tờ kết ước. Rồi vua sai Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Nhân
Thiệm làm sứ giả đi Yên Kinh dâng sản vật địa phương…”.
Đời vua Tự Đức từng có đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha
Thời Nguyễn, quan hệ ngoại giao của nước ta không chỉ bó hẹp với các quốc



gia láng giềng phương Đông mà với các quốc gia Tây phương quan hệ cũng
được mở rộng hơn so với thời Lê Trung Hưng.
Đã có những tiếp xúc giữa Đại Nam với các quốc gia Mỹ, Anh… nhưng do
những lý do khác nhau, quan hệ ngoại giao chưa được xác lập chính thức. Tuy
nhiên có một đại diện ngoại giao chính thức của phương Tây đã được đặt ở
nước ta, đó là đại diện của Tây Ban Nha. Ngày 9 tháng 7 năm 1881, Don
Tiburcio Rodriguez đặt chân đến thành G

Bấy giờ quân Pháp đang đẩy mạnh chiến tranh xâm lược nước ta, nhiều vùng
đất ở miền Đông và miền Tây Nam bộ

Ban Nha thời vua Tự Đức đã kết thúc nhanh chóng như vậy.
Lê Thái Dũng



×