Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.04 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ CÔNG THƯƠNG

VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

TRỊNH ANH TUẤN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM

Chuyên ngành: Thương mại
Mã số: 62.34.10.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội - 2015


CƠNG TRÌNH ĐƯỢC HỒN THÀNH TẠI
VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI - BỘ CÔNG THƯƠNG

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Lê Danh Vĩnh
2. TS. Trịnh Thị Thanh Thủy

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
Họp tại Viện Nghiên cứu Thương mại - Bộ Công Thương
Địa chỉ: 46 Ngô Quyền - Hà nội.
Vào hồi .... giờ .... ngày .... tháng ..... năm 201....


Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện quốc gia Hà nội
2. Thư viện Viện Nghiên cứu Thương mại


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Năm 2004, Quốc Hội đã ban hành Luật cạnh tranh. Tiếp theo đó, trong giai đoạn
2004-2009, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành luật
cạnh tranh. Thực tế cho thấy, Luật cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn đã bước đầu phát
huy vai trị tích cực trong việc phát triển mơi trường cạnh tranh lành mạnh, xử lý những
hành vi làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, số lượng vụ việc cạnh
tranh được điều tra, xử lý là chưa nhiều (08 vụ hạn chế cạnh tranh và 122 vụ cạnh tranh
không lành mạnh). Nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam
trong thời gian qua chưa được như kỳ vọng là do còn nhiều bất cập về quy định của pháp
luật cạnh tranh, bộ máy thực thi và nhận thức của cộng đồng.
Để có giải pháp hồn thiện pháp luật cạnh tranh và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật cạnh tranh trong tình hình mới, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án Tiến sĩ
kinh tế với mong muốn góp phần đưa pháp luật cạnh tranh đến gần hơn với cuộc sống.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước
Ở trong nước, các cơng trình nghiên cứu tập trung nghiên cứu tổng quan về pháp luật
cạnh tranh, vấn đề thực thi pháp luật cạnh tranh của một số nước để tập trung xây dựng Luật
cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn trong giai đoạn 2003-2006.Các cơng trình khoa học
trên chủ yếu nghiên cứu về lý luận chung, như sự cần thiết phải có những thay đổi căn bản
về vai trò của nhà nước khi chuyển đổi nền kinh tế, tính tất yếu của việc xây dựng pháp luật
và chính sách cạnh tranh để phù họp với quy luật của thị trường nhằm (i) kiểm soát độc
quyền; (ii) tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh; (iii) bảo vệ quyền và lợi ích của

doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Ở ngồi nước, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến chính sách và pháp luật cạnh
tranh vơ cùng phong phú và đa dạng, được thực hiện bởi các cá nhân, tổ chức khác nhau. Có
nhiều cơng trình nghiên cứu về các vấn đề cụ thể về chính sách cạnh tranh, chủ yếu là phân
tích về cách tiếp cận trong việc xây dựng chính sách cạnh tranh, các nguyên tắc xây dựng
chính sách cạnh tranh và các hành vi và đối tượng mà chính sách cạnh tranh điều chỉnh...
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các cơng trình khoa học đã cơng bố liên quan đến chủ đề nghiên cứu của
đề tài luận án, xác định những vấn đề đã được các nhà khoa học nghiên cứu, những vấn đề
chưa được nghiên cứu để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu.
- Đánh giá tổng quan pháp luật cạnh tranh, thực thi pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
- Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật cạnh tranh và hiệu quả thực thi pháp
luật cạnh tranh ở Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam từ khi
Luật cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực đến nay, từ đó rút ra những
bất cập cần được hoàn thiện.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật ở Việt Nam trong thời gian tới.


4

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của
cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
a. Về nội dung
- Nghiên cứu nội dung các văn bản pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam (bao gồm Luật
cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành), các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến quá trình
triển khai thực hiện pháp luật cạnh tranh.
- Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh ở
Việt Nam.
b. Về không gian
Hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm một
số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Australia, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc…
c. Về thời gian
- Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh từ năm 2005 - 2014.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam từ năm
2015 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Phương pháp phân tích và thống kê
Được sử dụng nhằm hệ thống hóa các cơng trình nghiên cứu, lý luận cơ bản về các
vấn đề liên quan trong Đề tài nghiên cứu của mình, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp
phân tích, thống kê để làm rõ các thuật ngữ, những lý luận sử dụng trong lĩnh vực cạnh
tranh, các kết quả nghiên cứu, những vấn đề đang tồn tại mà được các công trình khoa hoc
trước đây đã nghiên cứu.
5.2. Phương pháp so sánh
Nhằm kiểm chứng tính chính xác của thơng tin được thu thập, phương pháp so sánh
được sử dụng trong nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về xây dựng và thực thi pháp luật
cạnh tranh và trong phần phân tích đánh giá thực trạng theo khung lý thuyết.
5.3. Phương pháp khảo sát thực tế
Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chính sách cạnh tranh được trình
bày trong các đề tài khoa học, các cơng trình nghiên cứu, các ấn bản khoa học, phương pháp
khảo sát thực tế được sử dụng trong trao đổi với chuyên gia, điều tra mẫu một số doanh
nghiệp là đối tượng điều chỉnh của Luật. Phương pháp này cung cấp những số liệu, tài liệu

cho đánh giá thực trạng về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh
của Việt Nam, từ đó làm cơ sở đề xuất trong luận án.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬTCẠNH TRANH
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các hình thái cạnh tranh
a. Khái niệm cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh với tư cách là một hiện tượng kinh tế, xuất hiện và tồn tại như
là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, phản ánh năng lực phát triển của
kinh tế thị trường. Với cách tiếp cận này, Từ điển Luật học cũng giải thích “cạnh tranh là sự
đua tranh về kinh tế giữa các nhà kinh doanh có những lợi ích giống nhau trên cùng thị


5

trường bằng các phương thức khác nhau để giành được nhiều nhất về phía mình khách
hàng, thị trường và thị phần của một thị trường qua đó thu lợi nhuận nhiều hơn”.
1.1.2. Khái niệm và lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh
a. Khái niệm pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh, theo cách hiểu phổ biến nhất trong giới nghiên cứu về lĩnh vực
này trên thế giới, bao gồm tất cả các quy định của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến
hành vi kinh doanh của doanh nghiệp và cấu trúc thị trường.
b. Lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh của các nước ra đời đều bắt nguồn từ nhu cầu của nền kinh tế.
Cùng với quá trình phát triển, pháp luật cạnh tranh đã được liên tục sửa đổi để phù hợp với
thực tiễn. Luật Cạnh tranh có thể được gọi theo nhiều cách khác nhau (ví dụ: Luật cạnh
tranh - Competition Law của Anh, Luật chống độc quyền- Anti monopoly Act của Nhật
Bản, Luật thương mại lành mạnh – Fair Trade Law của Đài Loan…) nhưng tất cả đều có
một mục đích chung là duy trì và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, cho phép
các thực thể kinh tế có cơ hội bình đẳng cạnh tranh cũng như tiếp cận thị trường. Bảo vệ

người tiêu dùng thông qua việc khuyến khích hạ giá và cải thiện chất lượng sản phẩm được
xem như một hệ quả của cạnh tranh tự do và lành mạnh trên thị trường.
1.1.3. Khái niệm về thực thi pháp luật cạnh tranh
Thực thi pháp luật cạnh tranh được hiểu chung nhất là hoạt động thực hiện và thi
hành pháp luật cạnh tranh. Việc thực thi pháp luật pháp luật cạnh tranh chia làm 2 nhóm
hoạt động tương ứng với 2 nhóm đối tượng đó là cơ quan quản lý cạnh tranh (chủ thể quyền
lực) và cộng đồng doanh nghiệp (chủ thể là đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh).
1.1.4. Khái niệm hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
Theo từ điển luật học, hiệu quả của pháp luật là kết quả cụ thể của sự tác động pháp
luật đến các quan hệ xã hội so với yêu cầu đặt ra khi ban hành pháp luật. Hiệu quả của
pháp luật có thể được đánh giá theo từng cấp độ khác nhau: hiệu quả của quy phạm pháp
luật, của chế định pháp luật, của ngành luật, của toàn bộ hệ thống pháp luật. Những căn cứ
để đánh giá mức độ hiệu quả của pháp luật là mục tiêu yêu cầu đặt ra khi ban hành pháp
luật, chi phí cho việc thực hiện pháp luật và kết quả thực tế đạt được của việc thực hiện
pháp luật.
Theo quan niệm khác: hiệu quả của pháp luật là khả năng của pháp luật có thể tác
động được vào các quan hệ xã hội và ý thức xã hội để điều chỉnh các quan hệ đó với những
tổn thất vật chất và tinh thần ít nhất và mang lại kết quả theo hướng cần điều chỉnh và cần
được xác định của pháp luật.
1.2. Tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
1.2.1. Nhóm tiêu chí bên trong
Nhóm tiêu chí bên trong thể hiện chất lượng của các văn bản pháp luật bao gồm (i)
Tính hợp pháp của văn bản pháp luật (văn bản đó có được ban hành hợp pháp hay khơng)
và (ii) Tính phù hợp của văn bản pháp luật (văn bản pháp luật đó có cịn phù hợp với thực
tiễn hay khơng).
1.2.2. Nhóm tiêu chí bên ngồi
Tiêu chí bên ngồi để xem xét mối quan hệ tương tác của văn bản pháp luật đó với xã
hội bao gồm (i) khả năng tổ chức thực thi của các cơ quan thi hành văn bản pháp luật, (ii)
khả năng tiếp cận và tuân thủ luật của đối tượng mà văn bản pháp luật hướng tới.



6

1.3. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của một số nước và
bài học đối với Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
a. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh
Luật chống độc quyền của Nhật Bản có tên chính thức là “Luật về chống độc quyền
tư nhân và đảm bảo giao dịch công bằng” (AMA), được ban hành vào năm 1947 dưới sự
chiếm đóng của quân Đồng minh sau Chiến tranh thế giới thứ hai như một luật vĩnh cửu
(không giới hạn thời gian hiệu lực) nhằm tạo lập trật tự mang tính dân chủ cho nền kinh tế
Nhật Bản.
Kể từ năm 1947 đến nay, Luật AMA đã được Ủy Ban Thương mại lành mạnh
(JFTC) đề xuất sửa đổi nhiều lần cụ thể qua các năm:
- 1991 sửa đổi Luật Chống độc quyền theo hướng tăng mức phạt tiền hành vi vi
phạm.
-1992: sửa đổi Luật Chống độc quyền trong đó đưa các quy định về áp dụng các chế tài
hình sự vào các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh như phạt tù đói với lãnh đạo các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
- 2005 Sửa đổi Luật Chống độc quyền (AMA) theo hướng: Tăng mức phạt tiền; Áp
dụng cơ chế khoan dung; Áp dụng các biện pháp bắt buộc đối với buộc tội Hình sự; Sửa đổi
Thủ tục tiến hành phiên điều trần;
b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan cạnh tranh
Uỷ ban thương mại lành mạnh Nhật Bản (JFTC, sau đây gọi là Ủy ban) được thành
lập như là một cơ quan quản lý của Chính phủ để đạt được mục tiêu của Luật Chống độc
quyền. Bên cạnh Luật Chống độc quyền, Uỷ ban còn thi hành Luật chống tặng phẩm phi lý
và trưng bày gây nhầm lẫn, Luật chống thanh tốn chậm trong hợp đồng gia cơng phụ đối
với người sản xuất phụ, đây là những luật đặc biệt bổ sung cho Luật Chống độc quyền. Uỷ
ban có vị trí như là một cơ quan cấp bộ thuộc trực thuộc Chính phủ.
c. Thực tiễn cơng tác tổ chức điều tra và xử lý các hành vi vi phạm

Luật Chống độc quyền Nhật Bản cấm các đối tượng hoạt động kinh doanh độc quyền
mang tính cá nhân, các hành vi hạn chế giao dịch không hợp lý, sử dụng các phương pháp
giao dịch không công bằng, JFTC điều tra cân nhắc những thông tin thu nhận được từ công
chúng, hoặc do chính JFTC phát hiện ra. Khi xét thấy xảy ra sự kiện vi phạm quy định cấm,
sẽ tiến hành điều tra cần thiết đối với vụ việc bị nghi ngờ.
Số lần xử lý hành vi thông thầu trong giai đoạn 2001-2004 trung bình là 25 vụ/năm
do đây là những hành vi khá phổ biến và được xem là “vấn nạn quốc gia” của Nhật Bản,
nhưng nhờ cơ chế phát hiện vi phạm hiệu quả nên đã phát hiện và xử lý nhiều vụ, dần cải
thiện mơi trường và thói quen kinh doanh của doanh nghiệp. Do sự nỗ lực của cơ quan cạnh
tranh và sự cải thiện trong chính sách nên đến giai đoạn 2005-2012 thì số vụ bị xử lý đã
giảm xuống 10-11 vụ/năm, tuy nhiên vẫn ở mức cao so với các hành vi khác.
d. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
- Áp dụng thủ tục khám xét tại chỗ
Khám xét hiện trường (On-spot inspection) cụ thể là khám xét cơ sở kinh doanh của
doanh nghiệp bị tình nghi vi phạm, kiểm tra sổ sách giấy tờ đồng thời ra lệnh nộp sổ sách
giấy tờ và sau đó lưu giữ sổ sách giấy tờ nhằm thu thập vật chứng cần thiết để chứng minh
sự thật vi phạm.
- Áp dụng chương trình khoan dung (Leniency)
Để giúp cơ quan điều tra có thêm nguồn cung cấp chứng cứ, qua đó tăng cường hiệu
quả thực thi luật, đặc biệt là các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, JFTC đã ban hành
và áp dụng chính sách khoan hồng. Chính sách khoan hồng được áp dụng đối với các chủ
thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chủ động đến khai báo với cơ quan quản lý cạnh


7

tranh về hành vi của mình, đồng thời cung cấp cho cơ quan cạnh tranh các tài liệu chứng cứ
có giá trị chứng minh thỏa thuận đó.
Chính sách khoan hồng của Nhật Bản được đưa vào áp dụng từ tháng 04/2006. Tuy
mới được áp dụng nhưng đến tháng 5 năm 2007, cơ quan cạnh tranh của Nhật Bản đã nhận

được sự khai báo của tổng cộng 105 công ty trong đó có tập đồn cơng nghiệp nặng
Mitsubishi. Trong năm tài chính 2009, có 85 vụ JFTC nhận được thơng báo đúng sự thật về
hành vi vi phạm, và đến cuối tháng 3 năm 2010 là 349 vụ.
- Đẩy mạnh các hoạt động quan hệ công chúng đạt hiệu quả cao
Trong suốt quá trình từ khi thành lập đến nay, JFTC đã luôn đề cao và đẩy mạnh hoạt
động tuyên truyền về chính sách và Luật Chống độc quyền, quan hệ cơng chúng, kêu gọi sự
đồng thuận của tồn xã hội. Đây là hoạt động hồn tồn khơng mang tính hình thức như
hoạt động tuyên truyền, đào tạo thông thường mà là hoạt động đi vào thực chất, chi tiết
nhằm đảm bảo tính minh bạch trong thi thành pháp luật, cung cấp thơng tin về chính sách,
nắm bắt quan điểm của người dân và tạo sự đồng thuận trong xã hội, từ những người dân
bình thường đến các doanh nghiệp, đến cơ quan nhà nước khác, đến cả những nhà lãnh đạo
để hiểu rõ bản chất, vai trò của Luật và tạo ý chí quyết tâm thực thi Luật.
1.3.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
a. Về phát triển và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh
Có thể nói, Hoa Kỳ là quê hương của Luật chống độc quyền hay pháp luật và chính
sách cạnh tranh. Các quy định chống độc quyền của Hoa Kỳ đầu tiên là Đạo luật Sherman
được thông qua năm 1890 và Đạo luật Clayton có hiệu lực vào ngày 15 tháng 10 năm 1914.
Đây được coi là hai đạo luật cơ bản cho chính sách chống độc quyền của Hoa Kỳ.
Khơng dừng lại ở đó, năm 1936, Luật Robinson- Patman được ban hành với những
quy định nghiêm khắc hơn trong việc xử lý các hành vi phân biệt đối xử. Ngoài ra, đạo luật
Celler-Kefauver được ban hành năm 1950, bổ sung thêm các quy định trong đạo Luật Clayton
1914, được coi là Đạo luật Chống sáp nhập. Đạo luật Celler-Kefauver là cơng cụ giúp Chính
phủ ngăn chặn cả các vụ sáp nhập theo chiều dọc và sáp nhập hỗn hợp có tác động hạn chế
cạnh tranh.
Năm 1976, Đạo luật cải tiến lĩnh vực chống độc quyền (Hart-Scott-Rodino Antitrust
Improvement Act) được ban hành là một tập hợp các sửa đổi, bổ sung cho các luật chống
độc quyền của Hoa Kỳ, mà chủ yếu là Đạo luật Clayton. Đạo luật này bổ sung thêm các quy
định về thông báo tập trung kinh tế trước khi tiến hành sáp nhập hoặc mua lại.
b. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan cạnh tranh
Các cơ quan tham gia xử lý vụ việc cạnh tranh ở Hoa Kỳ bao gồm Uỷ ban thương

mại Liên bang Hoa Kỳ (viết tắt là US-FTC) và Cục Chống độc quyền thuộc Bộ Tư Pháp
Hoa Kỳ (viết tắt là US-DOJ).
- USFTC xử lý các vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế của phần lớn người Mỹ.
Trên thực tế, cơ quan đã có một truyền thống về duy trì một mơi trường cạnh tranh cho cả
người tiêu dùng và cho các hoạt động kinh doanh. FTC là một cơ quan độc lập báo cáo trực
tiếp cho Quốc hội. Ủy ban hoạt động dưới sự chỉ đạo của 5 Ủy viên có nhiệm kỳ 7 năm,
được bổ nhiệm bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng nghị viện. Tổng thống chỉ
định một Ủy viên đảm trách Chủ tọa. Không quá 3 Ủy viên là thành viên của 1 Đảng.
- Về Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp: Chiểu theo Mục 2 của Luật Sherman, Cục
Chống độc quyền của Bộ TP chủ yếu tiến hành điều tra dân sự liên quan đến việc sử dụng
Lệnh điều tra dân sự (CID), một loại công cụ điều tra tiền khởi tố.
c. Thực tiễn công tác điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh
Các cơ quan cạnh tranh của Hoa Kỳ, đặc biệt là Cục chống độc quyền, Bộ Tư pháp
Hoa Kỳ đã chứng minh được hiệu quả trong thực thi pháp luật cạnh tranh, chống độc quyền.


8

Giai đoạn từ năm 2004 đến 2013, Vụ chống độc quyền đã khởi xướng điều tra hơn 1575 vụ
việc cạnh tranh, trung bình trên 157 vụ năm.
Số lượng các vụ tập trung kinh tế được khởi xướng điều tra chiếm ưu thế hơn, với
842 vụ trong vòng 10 năm. Đồng thời, các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh được thụ lý có số lượng tương đối đáng kể, chiếm trung bình trên 60 vụ mỗi năm
trong giai đoạn 2004 – 2013. Khi pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ đã có thời gian dài phát
triển, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị
trường đã ý thức rất rõ về các đạo luật chống độc quyền. Số lượng các vụ việc về lạm dụng
vị trí thống lĩnh/độc quyền thị trường chiếm không đáng kể so với tổng số vụ việc cạnh
tranh được điều tra, chỉ có 23 vụ trong 10 năm.
d. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi luật
- Khám xét để thu thập chứng cứ

Một điểm nổi bật và then chốt trong kinh nghiệm điều tra các vụ việc cạnh tranh của
Hoa Kỳ thể hiện ở chỗ, giống như Nhật Bản, pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ cho phép các
cơ quan cạnh tranh được áp dụng quyền khám xét. Theo đó, các cơ quan cạnh tranh được
quyền điều, khám xét và thu giữ tang vật có liên quan đến các doanh nghiệp là đối tượng
điều tra. Với quyền hạn như vậy, Ủy ban Thương mại Liên bang và Cục Chống độc quyền,
Bộ Tư pháp trong quá trình điều tra sẽ dễ dàng điều động điều tra viên tiến hành khám xét
đúng lúc, đúng thời điểm nhằm thu giữ được những chứng cứ quan trọng, xác thực.
- Áp dụng Chương trình khoan dung
Hoa Kỳ là nước đầu tiên trên thế giới đưa ra chính sách khoan dung và áp dụng trong
cùng năm 1978. Chính sách này cũng được tiến hành sửa đổi một số nội dung quan trọng
vào năm 1993 cho phù hợp với thực tiễn. Theo đó, thay vì theo chương trình cũ thì doanh
nghiệp chỉ được hưởng khoan dung trong trường hợp Bộ Tư pháp chưa hề có thơng tin về
vụ thông đồng hay thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và chưa tiến hành điều tra vụ việc nhưng ở
chương trình mới, doanh nghiệp vẫn có thể hưởng khoan dung nếu Bộ Tư pháp đã tiến hành
điều tra vụ việc nhưng vẫn chưa thu thập được đầy đủ các chứng cứ cần thiết buộc doanh
nghiệp đã nộp đơn phải tự thú về hành vi thơng đồng của mình. Mặt khác, theo chương trình
mới, doanh nghiệp nộp đơn được hưởng cơ chế khoan dung tự động, trong trường hợp Bộ Tư
pháp chưa có thơng tin gì về vụ thơng đồng, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thay vì phải đáp
ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết như trước kia.
- Áp dụng mức phạt mang tính răn đe
Tháng 6 năm 2004, đạo luật Sherman (15 U.S.C. § 1) của Hoa Kỳ đã bổ sung tăng
mức phạt đối với các hành vi phản cạnh tranh vi phạm Luật chống độc quyền:
+Mức phạt tối đa đối với doanh nghiệp tăng từ 10 triệu lên 100 triệu đô la Mỹ;
+ Mức mức phạt tối đa đối với cá nhân tăng từ 350 nghìn lên 1 triệu đơ la Mỹ;
+ Hình sự: thời hạn phạt tù tối đa tăng từ 3 năm lên 10 năm.
- Hoạt động vận động chính sách cạnh tranh (competition advocacy)
Trong những năm qua, Cục Chống độc quyền, Bộ Tư pháp cũng như Ủy ban Thương
mại Liên bang đã và đang tăng cường các nỗ lực vận động chính sách cạnh tranh thơng qua
việc thực hiện các chương trình khác nhau và các sáng kiến hướng tới củng cố thị trường và
bảo tồn phát triển kinh tế tự do và công bằng. Thực tế, thúc đẩy các nguyên tắc cạnh tranh

thông qua nỗ lực vận động chính sách và tiếp cận các nhà quản lý vẫn là một trong những
ưu tiên cao nhất của các cơ quan cạnh tranh Hoa Kỳ. Những nỗ lực này bao gồm việc mở
rộng quan hệ hợp tác sâu rộng và phối hợp hoạt động cùng với các cơ quan liên bang như
Ủy ban Truyền thông Liên bang, Bộ Nông nghiệp và Bộ Giao thông vận tải, Văn phòng
quản lý thương hiệu và bằng sáng chế, Cục Dự trữ liên bang cũng như với Quốc hội, các cơ
quan lập pháp và các cơ quan nhà nước. Đồng thời, Cục Chống độc quyền cũng đệ trình các
bản giải trình tóm tắt lên Tịa án tối cao Liên bang và các Tòa phúc thẩm, phát hành các báo
cáo chi tiết tác động cạnh tranh nhằm giải thích lập luận và phân tích cạnh tranh.


9

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
a. Về nội dung pháp luật cạnh tranh
Theo quy định pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới, việc ban hành
pháp luật cạnh tranh phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch và không phân biệt đối
xử. Đặc biệt, trong phạm vi áp dụng luật cạnh tranh không được miễn trừ áp dung đối với
bất kỳ đối tượng nào bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó, pháp luật cạnh tranh của các nước thường quy định và điều chỉnh về
các nhóm hành vi sau đây:
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (hành vi thông thầu, ấn định giá...).
- Các hành vi mua bán sáp nhập doanh nghiệp có tác động tới mơi trường kinh
doanh.
b. Về vị trí, chức năng, nhiệm và và quyền hạn của cơ quan cạnh tranh
Theo kinh nghiệm của các nước, nguyên tắc quan trọng hàng đầu đối với cơ quan
cạnh tranh là bảo đảm tính độc lập cho nó. Điều này có nghĩa là, tổ chức, hoạt động của
thiết chế này phải được thiết kế làm sao để bảo đảm không để can thiệp hoặc bị chi phối từ
các cơ quan khác (lập pháp, hành pháp, tư pháp). Độc lập là yếu tố tiên quyết để có sự cơng
bằng trong việc xử lý các vụ việc, điều mà các bên đương sự ln chờ đợi ở cơ quan này.

Tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và hoạt động luôn luôn là mục
tiêu hàng đầu mà các nước này hướng tới xây dựng. Đây là nội dung rất quan trọng đảm bảo
cho những cơ quan này có thể thực hiện chức năng xử lý một cách cơng minh, vì mục tiêu
bảo vệ trật tự cơng cộng – cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước kể cả cơ quan cạnh tranh đang
là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đối với các cơ quan cạnh tranh thì đây lại là
u cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều này xuất phát chính từ vai trị trong việc duy
trì trật tự cạnh tranh rõ ràng, lành mạnh. Thông tin trong thị trường phải được thơng suốt.
Tính minh bạch sẽ nâng cao thêm uy tín của chính các cơ quan này.
Nhiệm vụ chính của cơ quan quản lý cạnh tranh là bảo đảm thực thi Luật cạnh tranh.
Có thể nói, luật cạnh tranh được thực thi nghiêm chỉnh đến đâu là phụ thuộc vào hiệu quả
hoạt động của chính cơ quan này. Qua nghiên cứu mơ hình cơ quan cạnh tranh của một số
nước, một số chức năng, nhiệm vụ chính của cơ quan cạnh tranh như sau:
- Điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
- Chống độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- Kiểm sốt q trình sát nhập hợp nhất doanh nghiệp.
- Điều tra, xử lý các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
- Thực hiện các hoạt động khác nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn trên, hầu hết các cơ quan cạnh tranh đều có hai thẩm
quyền cơ bản:
- Phát hiện và kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách làm cản trở đến
môi trường cạnh tranh.
- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thơng tin, chứng cứ trong quá
trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh.
c. Về xây dựng và phát triển các công cụ nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
- Về chức năng tiến hành khám xét thu thập chứng cứ
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trong nhiều trường hợp việc thu thập
thông tin chứng cứ bằng các công cụ thông thường như yêu cầu cung cấp thông tin một cách
chính thống từ cơ quan cạnh tranh với các đối tượng liên không đem lại hiệu quả. Lý do là
vì các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm thường có xu thế che dấu hoặc thậm chí là tiêu



10

hủy các tài liệu liên quan tới hành vi vi phạm. Do đó, để kịp thời thu thập các thơng tin,
chứng cứ và ngăn chặn nguy cơ chứng về hành vi vi phạm bị tiêu hủy, cơ quan cạnh tranh
cần phải được trang bị một cơng cụ đặc biệt đó là có thẩm quyền tiến hành việc khám xét trụ
sở và nơi làm việc của các tổ chức, cá nhân liên quan.
- Về chương trình khoan dung
Thực tiễn và lý luận đã chứng minh chính sách khoan dung thực sự là một công cụ
hữu hiệu của cơ quan quản lý cạnh tranh trong cuộc chiến chống lại các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh. Việt Nam cũng là một trong số các quốc gia đã ban hành Luật cạnh
tranh trong đó có những quy định về cấm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy
nhiên, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung về tình
tiết giảm nhẹ (bên cạnh tình tiết tăng nặng) trong xử lý vi phạm các quy định về kiểm soát
hành vi hạn chế cạnh tranh. Các quy định này chưa thể hiện đúng được tinh thần chính sách
khoan dung dành cho các thành viên tham gia các thỏa thuận này. Do đó, để đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn điều tra và xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cần thiết
phải có sự nghiên cứu và bổ sung một cách hợp lý chính sách này vào pháp luật cạnh tranh
của Việt Nam trong thời gian tới.
Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CỦA
VIỆT NAM TỪ NĂM 2005 ĐẾN 2014
2.1. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Ngay từ những năm 2000, Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội và Chính phủ đưa vào
chương trình xây dựng pháp luật. Sau 4 năm soạn thảo và lấy ý kiến đóng góp của các
chun gia trong và ngồi nước, Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua ngày 03
tháng 12 năm 2004, bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2005.
Luật cạnh tranh được ban hành có mục tiêu nhằm:
- Kiểm sốt độc quyền

- Tạo lập và duy trì mơi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng;
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Luật cạnh tranh quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh khơng
lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật
về cạnh tranh.
2.2. Thực trạng hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam từ năm 2005
đến năm 2014
2.2.1. Thực trạng vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan thực thi
pháp luật cạnh tranh Việt Nam
a. Cục Quản lý cạnh tranh
- Chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ Cơng Thương có chức năng giúp Bộ
trưởng Bộ Cơng Thương thực hiện:
+ Quản lý nhà nước về cạnh tranh (thực thi Luật cạnh tranh)
+ Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự
vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (thực thi 03 Pháp lệnh về chống bán phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ);
+ Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (thực thi Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng);
+ Phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó các vụ kiện
trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ.


11

- Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay được quy định theo Quyết định
số 848/QĐ-BCT ngày 05 tháng 02 năm 2013 của Bộ Cơng Thương.
Hình 1. Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh
Văn phòng Cục

Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh
Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh
Phòng Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh
Phịng Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Phịng Kiểm sốt hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh nghiệp
trong nước
Phòng Xử lý các vụ kiện phịng vệ thương mại của nước ngồi
Phịng Hợp tác quốc tế
Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng
Văn phịng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm Thông tin cạnh tranh
Trung tâm Đào tạo điều tra viên

- Về nguồn lực hoạt động
Ngân sách hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh có xu hướng tăng dần trong các
năm cụ thể: năm 2007 khi mới thành lập ngân sách hoạt động của Cục là 7 tỷ đồng, năm
2009 tăng lên 16.5 tỷ đồng và năm 2014 tăng lên khoảng 23.4 tỷ đồng.
b. Hội đồng cạnh tranh
Hội đồng cạnh tranh gồm 01 Chủ tịch, giúp việc cho Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh sẽ
có 02 Phó Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh.
Để giúp việc cho Hội đồng, ngày 28 tháng 8 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Thương mại
đã có Quyết định số 1378/QĐ-BTM thành lập Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh. Ban Thư
ký Hội đồng cạnh tranh gồm từ 7-9 người làm việc chuyên trách.
2.2.2. Thực trạng công tác điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh
2.2.2.1. Các vụ việc hạn chế cạnh tranh
So với nhiều quốc gia trên thế giới, Luật Cạnh tranh và Cơ quan quản lý cạnh tranh
Việt Nam còn rất non trẻ. Đến nay, Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam đã tổ chức điều
tra 8 vụ việc hạn chế cạnh tranh, trong đó đã chuyển 5 hồ sơ vụ việc sang Hội đồng Cạnh
tranh để xử lý theo quy định của pháp luật. Trong số 8 vụ việc đó, có 3/8 vụ việc xuất phát

từ đơn khiếu nại của doanh nghiệp và 5/8 vụ việc do Cơ quan QLCT tự khởi xướng điều tra
theo quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật Cạnh tranh.
Trong 5 vụ việc đã được xử lý, có 3 vụ việc tiếp tục được đưa ra xét xử tại hệ thống
Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính, gồm vụ bia Tân Hiệp Phát, vụ Vinapco và vụ 19
doanh nghiệp bảo hiểm. Mặc dù có những vụ việc được đưa ra xét xử ở cấp phúc thẩm,
nhưng đến nay Tịa án các cấp đều cơng nhận các quyết định giải quyết khiếu nại đối với
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh do Hội đồng cạnh tranh ban hành. Mặc dù số lượng vụ
việc hạn chế cạnh tranh đã được điều tra và xử lý còn khiêm tốn, nhưng xét trong bối cảnh
Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam còn non trẻ với nguồn lực hạn chế thì đó chính là sự
khởi đầu cho thấy Luật Cạnh tranh đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng.
2.2.2.2. Về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh


12

-

-

-

Trong gần 10 năm thực thi quy định của Luật Cạnh tranh về chống các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, Cơ quan QLCT đã tiếp nhận 298 khiếu nại, tiến hành điều tra 144
vụ việc và ra quyết định xử phạt 122 vụ.
2.2.2.3. Kiểm sốt tập trung kinh tế
Tính đến tháng 8 năm 2014, Cơ quan QLCT đã thụ lý 23 vụ việc thông báo TTKT và
rất nhiều vụ việc tham vấn về TTKT trước và trong quá trình các doanh nghiệp thực hiện
TTKT.
Qua nghiên cứu về tình hình điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh của Việt nam trong thời gian qua, chúng ta có thể rút ra mấy vấn đề quan trọng để

phân tích và đi sâu hơn trong chương 2 của đề tài:
Trong giai đoạn 2006-2014, Cơ quan tranh tranh đã tiến hành điều tra tiền tố tụng 77 vụ
việc. Tuy nhiên, số vụ việc đi đến quyết định điều tra chính thức chỉ là 5 vụ việc (chiếm hơn
6%). Trong 5 vụ việc có quyết định điều tra chính thức, cơ quan cạnh tranh chỉ chuyển hồ
sơ cho Hội đồng cạnh tranh có 3 vụ việc cịn lại 2 vụ là đình chỉ điều tra. Như vậy số vụ
việc hạn chế cạnh tranh được xử lý chính thức chỉ có 2 vụ việc.
Cơng tác điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh đạt được nhiều kết quả
như mong đợi. Trong giai đoạn 2006-2013, trung bình hàng năm cơ quan cạnh tranh đã tiến
hành điều tra và xử lý khoảng gần 20 vụ/1 năm. Tuy nhiên, năm 2012-2013 số vụ việc xử lý
có hướng giảm do sự xung đột giữa luật cạnh tranh và luật về xử lý vi phạm hành chính.
Một trong những kết quả của quá trình thực thi quy định của Luật Cạnh tranh về kiểm sốt
TTKT là số việc thơng báo TTKT và tham vấn TTKT đã dần tăng lên đáng kể do có sự
chuyển dịch về phương thức đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã lựa
chọn phương thức đầu tư thông mua hoạt động mua bán, sáp nhập nhằm tiết kiệm nguồn
lực, dễ dàng thâm nhập thị trường và giảm thiểu các rào cản gia nhập thị trường. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra ở đây là 100% các hồ sơ thông báo tập trung kinh tế đều được Cục chấp nhận,
khơng có hồ sơ xin được hưởng miễn trừ và Cục không tiến hành điều tra và xử lý bất kỳ vụ
việc tập trung kinh tế bị cấm nào theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
2.2.3. Thực trạng hoạt động tăng cường sự tiếp cận pháp luật cạnh tranh của cơ
quan thực thi
Một trong những mục tiêu quan trọng của công tác thực thi Luật Cạnh tranh là làm
sao để Luật thực sự đi vào “đời sống của doanh nghiệp và xã hội”, giúp doanh nghiệp hiểu
và lĩnh hội pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình trước
các hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh. Để làm được điều đó, trong bối cảnh doanh nghiệp
cịn chưa thực sự “mặn mà” với việc tự tìm hiểu Luật Cạnh tranh thì cơng tác tun truyền
phổ biến pháp luật cạnh tranh phải được đặc biệt ưu tiên, chú trọng. Trong thời gian qua,
theo báo cáo hoạt động thường niên của Cơ quan QLCT trong thời gian qua, Cơ quan
QLCT đã triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến về pháp luật cạnh tranh tới cộng
đồng doanh nghiệp và các đối tượng liên quan.
2.3. Đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam trong giai đoạn

2005 đến 2014
2.3.1. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên trong
2.3.1.1. Đánh giá về tính hợp pháp của pháp luật cạnh tranh
Tính hợp pháp của Luật Cạnh tranh được đánh giá dựa trên liệu các quy phạm Luật
Cạnh tranh có đảm bảo tính hợp pháp về mặt nội dung cũng như về mặt hình thức hay
khơng.
- Về hình thức, Luật Cạnh tranh được soạn thảo và ban hành theo đúng những trình
tự thủ tục do luật định, cụ thể là Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định. Luật
Cạnh tranh được Quốc hội, cơ quan lập pháp tối cao của Việt Nam ban hành. ngày


13

03/12/2004, tại kỳ họp thứ 6 khoá XI, Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thơng qua và đã
chính thức có hiệu lực vào ngày 01/07/2005.
- Về nội dung, các quy phạm Luật cạnh tranh là hoàn toàn hợp pháp, phù hợp với Hiến
pháp, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là với các hiệp định của Tổ chức
thương mại thế giới WTO và thống nhất với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp
luật của Việt Nam. Về cơ bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về
chính sách canh tranh của các nước thành viên WTO đưa ra và các nguyên tắc cơ bản theo
quy định của WTO, cụ thể như nguyên tắc không phân biệt đối xử và minh bạch trong hoạt
động thương mại, các nguyên tắc liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
2.3.1.2. Đánh giá về tính thực tiễn của pháp luật cạnh tranh
Xét về tổng thể, Luật Cạnh tranh được ban hành phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu
của xã hội thời điểm 2005-2006. Tuy nhiên, để có thể thực hiện một cách có hiệu quả các
quy phạm của Luật, các quy phạm này đòi hỏi cũng phải đáp ứng các yêu cầu về từng quy
phạm pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn.
Thực tế áp dụng các quy phạm Luật Cạnh tranh cho thấy, đến nay có những quy
phạm khơng cịn phù hợp với thực tiễn, gây cản trở hiệu quả thực thi của luật cạnh tranh và
các văn bản hướng dẫn.

- Các quy định về xác định thị trường liên quan
Ở Việt Nam, hai sản phẩm, dịch vụ được coi là có khả năng thay thế cho nhau tức là
phải thay thế được cho nhau cả về “đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả” và nếu một trong
ba tiêu chí khơng thể thay thế cho nhau thì có thể kết luận hai sản phẩm nằm trên thị trường
sản phẩm liên quan khác nhau. Việc đánh giá cả ba tiêu chí đối với bất cứ sản phẩm, dịch vụ
nào dẫn đến kết luận về khả năng thay thế cho nhau của các sản phẩm, dịch vụ không phản
ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường.
Nếu áp dụng cứng nhắc Khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP sẽ dẫn đến tình
trạng, mỗi sản phẩm, dịch vụ là một thị trường riêng biệt, không thể thay thế, và doanh
nghiệp sản xuất, hoặc cung ứng sản phẩm, dịch vụ đó sẽ ln là doanh nghiệp có vị trí độc
quyền hoặc thống lĩnh trên thị trường liên quan được xác định.
- Các quy định về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Theo Điều 58 của Luật Cạnh tranh, “Tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm do hành vi vi phạm của Luật Cạnh tranh” có quyền khiếu nại
đến cơ quan cạnh tranh. Tuy nhiên, trách nhiệm của người khiếu nại là phải cung cấp cho cơ
quan cạnh tranh chứng cứ về hành vi vi phạm, chịu trách nhiệm về tính trung thực của
chứng cứ đã cung cấp cho cơ quan cạnh tranh.
Tuy nhiên, chính những yêu cầu này lại gây ra những khó khăn và gánh nặng cho
bên khiếu nại khi hành vi có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh là có thật, nhưng khơng thể
thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh cho hành vi vi phạm. Những trở ngại này dẫn đến
việc bên khiếu nại dễ dàng bỏ qua hành vi vi phạm do những rườm rà trong thủ tục khiếu
nại.
- Về quy trình điều tra, xử lý vụ việc
Những vụ việc cạnh tranh thường mang tính chất phức tạp, đặc biệt vụ việc hạn chế
cạnh tranh, khơng chỉ địi hỏi những phân tích về quy định của pháp luật, mà cịn dựa trên
các phân tích kinh tế. Bằng chứng, thông tin trong một vụ việc khơng chỉ thu thập tại một
thời điểm mà cịn cả một quá trình, từ trong, trước và sau khi diễn ra hành vi vi phạm của
doanh nghiệp. Ngoài 30 ngày điều tra sơ bộ, 150 ngày (kể cả thời gian gia hạn) đối với vụ
việc cạnh tranh không lành mạnh và 300 ngày (kể cả 2 làn gia hạn) đối với vụ việc hành chế
cạnh tranh là khoảng thời gian quá ngắn để cơ quan cạnh tranh có thể thu thập tất cả các

thông tin cần thiết, và đưa ra kết luận chính xác.


14

Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý
vụ việc phải ra một trong các quyết định mở Phiên điều trần, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh. Trên thực tế, vụ việc lạm dụng vị trí
thống lĩnh/độc quyền là những vụ việc rất phức tạp, hồ sơ vụ việc có thể lên đến hàng nghìn
bút lục. Trong khi đó, các thành viên Hội đồng xử lý thường là những cán bộ kiêm nhiệm,
khơng chun trách, vì vậy, khoảng thời hạn 30 ngày để đưa ra quyết định xử lý vụ việc là
không hợp lý. Đối với một vụ việc được thu thập thông tin và chứng cứ trong khoảng thời
gian gần một năm, trong vòng 30 ngày, các thành viên của Hội đồng xử lý khó có thể hiểu
được một cách rõ ràng mọi thông tin vụ việc, điều này ảnh hưởng đến tính chính xác của
quyết định của Hội đồng xử lý đối với vụ việc.
Trong thực tế vụ việc thường có sự liên quan của hai hay nhiều doanh nghiệp. Hội
đồng cạnh tranh sau khi đã ra quyết định xử lý, các doanh nghiệp dù là bị đơn hay nguyên
đơn cũng đều có quyển khởi kiện khiếu nại về quyết định của Hội đồng cạnh tranh tới các
tòa án cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Vì vậy, khả năng có thể xảy ra là Hội
đồng cạnh tranh sẽ phải theo đuối vụ kiện với danh nghĩa là bị đơn ở rất nhiều nơi khi mà
các doanh nghiệp khiếu nại khởi kiện tại các địa phương khác nhau.
- Về biện pháp xử lý vi phạm
Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh ở Việt Nam được quy định và
hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 71/2014/NĐ-CP, bao gồm hình thức xử phạt chính là
phạt cảnh cáo và phạt tiền, hình thức xử phạt bổ sung và một số biện pháp khắc phục hậu
quả. Việc xử phạt các hành vi vi phạm vẫn cịn tồn tại một số khó khăn như sau:
Thứ nhất, mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu của năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý. Theo quy Luật cạnh tranh, mức phạt
tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh lên đến 10% tổng doanh thu của năm
tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Trên thực tế, hành vi vi phạm pháp luật cạnh

tranh của doanh nghiệp chỉ thực hiện và gây tác động tiêu cực trên một thị trường sản phẩm,
dịch vụ nhất định, trong khi một doanh nghiệp có thể thực hiện kinh doanh đối với nhiều
sản phẩm, dịch vụ khác nhau. Thậm chí trong một số vụ việc, doanh thu phát sinh từ việc
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có liên quan trực tiếp đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một
phần rất nhỏ trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. Vì vậy, mức phạt dựa trên căn cứ
“tổng doanh thu” của doanh nghiệp không phản ánh đúng mức độ tác động của hành vi vi
phạm và không tương xứng với thiệt hại trên thị trường do hành vi vi phạm gây ra.
Thứ hai, thiếu cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể đổi với các doanh nghiệp vi
phạm. Đối với hình thức phạt tiền, hiện nay pháp luật cạnh tranh quy định khung xử phạt từ
0 - 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Điều 4
Nghị định 71/NĐ-CP đã đưa ra các căn cứ để xác định mức độ xử lý đối với các hành vi vi
phạm, nhưng không quy định cụ thể việc sử dụng và đánh giá các căn cứ để xác định tỷ lệ
tính mức phạt như thế nào. Điều này gây khó khăn cho cơ quan cạnh tranh trong việc xác
định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp vi phạm, thậm chí gây tranh cãi trong
quyết định mức độ xử lý vi phạm, có thể dẫn đến việc tùy tiện trong quyết định mức phạt.
2.3.2. Đánh giá theo nhóm tiêu chí bên ngồi
2.3.2.1. Đánh giá về cơng tác tổ chức thực thi pháp luật cạnh tranh
Trong tám năm qua, công tác thực thi pháp luật cạnh tranh đã đạt được một số kết
quả nổi bật, cụ thể là:
Thứ nhất, xây dựng và trình Chính phủ ban hành và sửa đổi 05 Nghị định của Chính
phủ hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện bộ máy các cơ quan thực thi Luật cạnh tranh bao
gồm: Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.


15

Thứ ba, đã phối hợp chặt chẽ và tổ chức hợp tác với nhiều cơ quan, ngành và các cơ
quan điều tiết ngành trong việc triến khai, giám sát việc thực thi pháp luật cạnh tranh trong
mối quan hệ với các pháp luật chuyên ngành khác. Cụ thể, các cơ quan cạnh tranh đã có

nhiều mối hợp tác với các cơ quan quản lý chuyên ngành trong lĩnh vực dược phẩm, viễn
thông, giá, điện lực...Việc phối hợp này được thể hiện rõ nét nhất trong quá trình xây dựng
pháp luật chuyên ngành, chiến lược phát triển ngành, các cơ quan quản lý ngành đã chủ
động lấy và tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp của các cơ quan quản lý cạnh tranh.
Thứ tư, từ năm 2005 đến nay, sau khi hệ thống pháp luật về cạnh tranh được ban
hành, các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh đã thường xun tích cực thực hiện cơng
tác tun truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hội thảo, diễn đàn trao đối, các
khóa đào tạo... trong đó có một số chương trình được tổ chức quy mơ, nhận được nhiều sự
quan tâm của đông đảo các tổ chức, hiệp hội và doanh nghiệp.
2.3.2.2. Đánh giá về khả năng tiếp cận và tuân thủ pháp luật cạnh tranh của

cộng đồng doanh nghiệp
Theo kết quả khảo sát 500 DN tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh bao gồm các DN
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, như DN nhà nước, DN có vốn đầu tư nước ngồi
(FDI), DN liên doanh và DN tư nhân thì phần lớn các DN mới chỉ biết đến Luật Cạnh tranh
trong vòng 2 năm gần đây (197 DN, chiếm 39.4%), trong khi đó 169 DN biết đến Luật
Cạnh tranh sớm hơn một chút, khoảng từ 2-4 năm trước, chiếm tỷ lệ 33.8% trong số các DN
được hỏi. Số lượng các DN biết về Luật Cạnh tranh từ khi Luật mới ban hành chỉ gồm 134
DN, chiếm tỷ lệ ít hơn với 26.8%.

Bảng 1.

Thời điểm DN bắt đầu nhận thức về Luật Cạnh tranh
Phần trăm
Số lượng
Tỷ lệ
tích lũy
Mới biết trong vịng 2 năm gần đây
197 39.4%
39.4%

Biết từ 2-4 năm trước
169 33.8%
73.2%
Biết ngay từ khi Luật mới ban hành
134 26.8%
100.0%
100.0
Tổng
500
%

Nguồn: Kết quả khảo sát thực tế
DN phần lớn nhận biết về LCT thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (350 ý
kiến, chiếm 70% số DN được khảo sát). Bên cạnh đó, LCT cũng được DN tiếp cận thơng
qua việc tự tìm hiểu, nghiên cứu (50.4%), qua các Hội thảo, tập huấn mà cán bộ của DN
tham dự (16.8%) hoặc do chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn (9.4%).
2.3.3. Một số bất cập và nguyên nhân
2.3.3.1 Một số bất cập
Như đã phân tích ở phần trên, bên cạnh bất cập về một số quy định của pháp luật
cạnh tranh hiện khơng cịn phù hợp với thực tiễn còn một số bất cập sau đây cũng ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranhViệt Nam trong thời gian qua:
- Về vị trí cơ quan cạnh tranh
Về vị trí của cơ quan cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ
Công Thương không phải là cơ quan độc lập. Điều này cũng tạo ra một số bất cập trong quá
trình quản lý và thực thi pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan quyền lực nhà nước độc lập đảm nhận vai trò xét xử,
xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan đến vụ việc cạnh tranh. Hội
đồng cạnh tranh lại là tập hợp 15 thành viên đại diện của các Bộ: Bộ Công Thương, Bộ Tư
Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng,... do Thủ
tướng bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương. Khi mà các doanh nghiệp bị



16

điều tra và xử lý lại là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc các Bộ và Ngành mà thành viên
của Hội đồng cạnh tranh đại diện, thì việc đưa ra quyết định xử lý vụ việc rất khó được coi
là công bằng và khách quan.
Hơn nữa, thành viên của Hội đồng cạnh tranh không tham gia điều tra vụ việc ngay
từ thời điểm ban đầu, nên việc ra quyết định xử lý sẽ không được thấu đáo và chặt chẽ, thậm
chí làm kéo dài thêm thời gian xử lý vụ việc.
- Về nguồn nhân lực của cơ quan cạnh tranh
Biên chế hành chính được giao cho Cơ quan QLCT năm 2014 là 104 người, trong đó
số cán bộ làm trong lĩnh vực cạnh tranh chỉ khoảng 20 người (số còn lại thuộc các đơn vị
thực thi pháp luật về phòng vệ thương mại và bảo vệ người tiêu dùng).
Đến nay, Cơ quan cạnh tranh có 33 người đã được Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ
nhiệm làm điều tra viên theo quy định của Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, các điều tra viên
không chỉ tập trung làm việc tại các đơn vị phụ trách cạnh tranh mà lại công tác rải rác ở các
đơn vị khác trong Cục. Việc huy động các điều tra viên ở các đơn vị chuyên môn khác tham
gia, theo đuổi quá trình điều tra một vụ việc hạn chế cạnh tranh kéo dài từ nửa năm đến hơn
một năm là tương đối khó khăn. Đây cũng là một hạn chế đối với việc thực thi chính sách
cạnh tranh một cách hiệu quả.
2.3.3.2. Nguyên nhân của những bật cập
Nguyên nhân của những tồn tại nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan dẫn đến chưa sử dụng hiệu quả pháp luật cạnh tranh trong thời gian qua.
Nguyên nhân khách quan xuất phát từ trình độ phát triển của nền kinh tế cịn thấp, pháp luật
cạnh tranh là vấn đề mới chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do vậy, khi hội nhập kinh tế
quốc tế cần phải học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới để xây dựng và thực thi
hiệu quả pháp luật cạnh tranh trong quá trình vận hành nên kinh tế thị trường.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan cũng tồn tại khơng ít ngun nhân chủ quan, đó là:
- Thứ nhất: Chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của lãnh đạo các cấp với công

tác thực thi pháp luật cạnh tranh. Nhiều nhà lãnh đạo vẫn còn tư duy bảo hộ, bao bọc, chưa
hướng tới xây dựng môi trường cạnh tranh ở nước ta.
- Thứ hai, nhiều quy định của Luật cạnh tranh chưa tốt, khơng có tính thực tiễn nên
gây khó khăn cho cơng tác thực thi pháp luật cạnh tranh.
- Thứ ba, Cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh chưa đủ mạnh, chưa tương xứng
với nhiệm vụ được giao. Công tác thực thi pháp luật cạnh tranh và bảo vệ moi trường cạnh
tranh lanh mạnh bao chùm trong nhiều lĩnh vực liên quan đến nhiều Bộ, Ban ngành cả
Trung ương và địa phương, trong khi đơn vị thực thi chỉ là cấp Cục thuộc Bộ thì chưa đủ
mạnh, làm giảm hiệu quả cơng việc.
- Thứ tư: Nhận thức chung của cộng đồng xã hội với pháp luật cạnh tranh chưa tốt,
bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, cơ quan truyền thơng báo chí và
chính bản thân doanh nghiệp chưa nhận thức được hết lợi ích của pháp luật cạnh tranh trong
việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh
trên thị trường.
- Thứ năm: Chưa xây dựng được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý
cạnh tranh và các cơ quan điều tiết ngành.
- Thứ sáu: Các công cụ hỗ trợ thực thi pháp luật cạnh tranh cịn thiếu. Chính sách
khoan dung và các cơng cụ điều tra tại chỗ để phát hiện, bảo vệ chứng cứ chưa hoàn thiện
làm giảm số lượng vụ việc vi phạm pháp luật cạnh tranh trên thị trường.


17

Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
3.1.1. Bối cảnh trong nước
Trong thời gian tới, việc tiếp tục đẩy mạnh lộ trình tái cơ cấu nền kinh tế, tháo gỡ
khó khăn, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh... sẽ tác động không nhỏ tới môi trường

kinh doanh. Để loại bỏ các doanh nghiệp khó khăn về vốn, thị trường và kinh doanh không
hiệu quả, hoạt động sáp nhập và tập trung kinh tế sẽ diễn ra nhiều hơn đặc biệt trong một số
lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, sự can thiệp của nhà nước có xu hướng giảm dần, các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm quyền lợi người tiêu dùng sẽ ngày càng
phổ biến và tinh vi.
Cùng với đó, giai đoạn 2015-2020 cũng sẽ là giai đoạn có nhiều biến động trong
cơng tác hội nhập kinh tế quốc tế, năm 2015 thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN, nhiều
hiệp định song phương và đa phương như TPP, Việt Nam – EU, Liên minh Hải quan Nga –
Belarus - Kazactan… sẽ trực tiếp tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp, tập
đoàn kinh tế nước ngoài sẽ xuất hiện ngày càng nhiều, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài nước sẽ diễn ra gay gắt địi hỏi phải có một chính sách cạnh tranh đủ mạnh
để làm cơng cụ giúp Chính phủ điều tiết thị trường vận hành hiệu quả.
3.1.2. Bối cảnh quốc tế
Theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế, nền kinh tế thế giới năm 2015 và các năm tiếp
theo sẽ phục hồi mạnh hơn, tăng trưởng toàn cầu được dự báo năm 2015 là 4% tăng 0,6
phần trăm so với dự báo tăng trưởng năm 2014. Song bên cạnh đó tình hình chính trị vẫn
cịn nhiều biến động: cuộc khủng hoảng và cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo IS ở Trung
Đông, cấm vận của phương Tây với Nga... sẽ tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Tranh chấp
thương mại sẽ diễn ra nhiều hơn và phức tạp hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và việc tham gia các cam kết quốc tế
song phương và đa phương với yêu cầu cao hơn, tồn diện hơn địi hỏi năng lực của cơ quan
quản lý nhà nước phải hiệu quả hơn, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải cao hơn.
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
trong thời gian tới ở Việt Nam
3.2.1. Tạo lập một sân chơi bình đẳng cho cộng đồng doanh nghiệp
Q trình đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam trong những năm
gần đây đã thúc đẩy thị trường Việt Nam phát triển và trưởng thành với một tốc độ vượt bậc;
góp phần làm cải thiện diện mạo của nền kinh tế Việt Nam một cách đáng kể. Tuy nhiên, mặt
trái quá trình này đã bắt đầu bộc lộ. Môi trường cạnh tranh ngày càng gắt gao mang tính sống
cịn với doanh nghiệp, tâm lý chạy theo lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu vắng một khung pháp lý

hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động kinh tế, cũng như khe hở của các quy định pháp luật
hiện hành, v.v… đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh
khơng lành mạnh gây khó khăn, làm tổn hại đến nền kinh tế, đến hoạt động kinh doanh và lợi
ích kinh tế chính đáng của các doanh nghiệp và của người tiêu dùng. Do đó, chắc chắn trong
thời gian tới, số vụ kiện liên quan đến Luật cạnh tranh sẽ ngày càng tăng.
3.2.2. Đáp ứng được các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội
Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt là khi Việt
Nam hội nhập sâu, rộng hơn với nền kinh tế quốc tế, đã có nhiều thay đổi làm cho một số
nội dung của Luật Cạnh tranh không còn phù hợp, hoặc chưa bắt kịp với thực tiễn kinh
doanh của doanh nghiệp. Nhiều chiến lược cạnh tranh mới, trong đó có cả các hành vi phản


18

cạnh tranh đã “du nhập” và được các doanh nghiệp vận dụng trong hoạt động kinh doanh.
Các hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất tận thu (exploitative) hoặc đóng cửa thị
trường/loại bỏ đối thủ cạnh tranh (market foreclosure/exclusionnary) được thực hiện dưới
nhiều hình thức mới với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng cao hơn.
Trong khi đó các quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh còn mang tính kỹ thuật,
cứng nhắc chưa nhắm vào bản chất phản cạnh tranh của hành vi mà chỉ nhắm đến hình thức
biểu hiện bên ngồi của hành vi và vì vậy, chưa bắt kịp với điều kiện thực tiễn, gây khó
khăn cho q trình thực thi pháp luật. Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh cho thấy còn
nhiều dạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc
quyền và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần được bổ sung thêm vào các quy định
hiện hành để cơ quan cạnh tranh có cơ sở điều tra, xử lý.
3.2.3. Phù hợp với các cam kết mới của Việt Nam trong các Hiệp định song
phương và đa phương
Trong một số các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã và đang tham gia, ký kết
gần đây như: Hiệp định đối tác chiến lược Việt Nam- Nhật bản , Hiệp định tự do thương
mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Liên minh Châu Âu, Liên minh hải quan Nga-BelarusKazakhstan và Hiệp định đối tác xun Thái Bình Dương TPP, Việt Nam đã có nhiều các

cam kết mới liên quan tới chính sách cạnh tranh như: minh bạch hóa, các quy định về cơ
quan cạnh tranh và các quy định về phối hợp cùng hành động giữa các cơ quan cạnh tranh
trong khu vực… nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài. Để thực hiện tốt các cam kết mới này, trong thời gian tới, cần nhanh
chóng tiến hành rà sốt và hồn thiện pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cho phù hợp.
3.3. Quan điểm và định hướng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh trong
thời gian tới
3.3.1. Quan điểm
a. Việc thực thi pháp luật cạnh tranh phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các cam kết quốc
tế trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội và năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ Việt Nam.
b. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế
để xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành hiệu quả pháp luật cạnh tranh trong thời gian tới.
c. Việc sửa đổi, điều chỉnh chính sách, pháp luật về cạnh tranh phải đảm bảo nguyên
tắc không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, minh bạch và đảm bảo quyền tự do
cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
3.3.2. Định hướng
a. Phù hợp với quy định của Hiến pháp: Điều 51 Hiến pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định “Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Điều này đòi hỏi những sửa đổi pháp
luật cạnh tranh trong tương lai phải góp phần mơi trường thuận lợi cho các chủ thể thuộc
thành phần kinh tế phát triển.
b. Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Chính phủ trong tình
hình mới: Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch của doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là một trong những nội dung quan trọng đã được đề cập
đến trong Đại hội lần thứ XI của Đảng, nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, việc nâng cao hiệu quả pháp luật cạnh
tranh với vai trò được coi là trụ cột của pháp luật kinh tế công, là “Hiến pháp” của thị trường
như cách ví von của các nhà khoa học là yêu cầu cần thiết.
c. Tiếp thu và phát triển các ưu điểm đồng thời khắc phục các nhược điểm của hệ
thống pháp luật, thể chế hiện hành.

d. Hướng tới xây dựng một cơ quan canh tranh độc lập và chuyên nghiệp.


19

đ. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về luật và chính sách cạnh tranh trong nên
kinh tế thị trường.
3.4. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh
3.4.1. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật cạnh tranh
3.4.1.1. Xác định thị trường liên quan
Các quy định pháp luật về xác định thị trường liên quan cần phải điều chỉnh theo
hướng mở, áp dụng linh hoạt, không nên chỉ căn cứ về khả năng thay thế cho nhau của hàng
hóa, dịch vụ. Các tiêu chí “đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả” cần phải được đánh giá
một cách tổquy định một cách cụ thể, cứng nhắc, đặc biệt cách xem xét, đánh giá các tiêu
cng hòa, phù hợp với từng sản phẩm, dịch vụ, không nên tách bạch từng tiêu chí cũng như
cứng nhắc áp dụng tất cả các tiêu chí đối với tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ dẫn đến
những kết luận về thị trường liên quan sai lệch, xa rời thực tế.
Các đánh giá kinh tế, các phép thử thị trường cần phải được sử dụng, và là căn cứ
thiết yếu trước khi đưa ra kết luận về thị trường liên quan trong vụ việc hạn chế cạnh tranh.
Do đó, các quy định về các phép thử thị trường và ngưỡng của phép thử nhằm xác định thị
trường liên quan phải được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
3.4.1.2. Quy định về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Đối với cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại đối với hành vi vi phạm pháp luật
cạnh tranh cần phải có sự điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho bên khiếu nại tố cáo, thơng
báo hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật tới cơ quan cạnh tranh. Thay vì thủ tục khiếu nại
với nghĩa vụ chứng minh thuộc bên khiếu nại, cơ quan cạnh tranh cần phải có cơ chế tiếp
nhận tất cả các thông tin về các vấn đề của thị trường để từ đó ra quyết định can thiệp trong
trường hợp cần thiết.
3.4.1.3. Quy định về quy trình điều tra, xử lý vụ việc
- Về thời hạn điều tra, thời hạn ra quyết định xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, như

đã phân tích, mặt trái của việc quy định thời hạn đó là khơng có nhiều thời gian để điều tra
viên và thành viên Hội đồng cạnh tranh phân tích vụ việc một cách chính xác, tồn diện. Vì
vậy, Việt Nam cần học tập và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh
như Nhật Bản, Hoa Kỳ hay Châu Âu, theo đó thời hạn điều tra của các vụ việc cạnh tranh,
đặc biệt là liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh thường không quy định hay ràng buộc.
Tại các quốc gia này, có những vụ việc cạnh tranh kéo dài 2 năm thậm chí là 5 năm, phụ
thuộc vào tính chất phức tạp của vụ việc.
- Về khiếu nại quyết định của Hội đồng cạnh tranh, như đã phân tích các bất cập của
các quy định về khiếu nại vụ việc cạnh tranh, theo đó nếu doanh nghiệp nộp hồ sơ khiếu nại
tại Tòa án địa phương nào thì cơ quan cạnh tranh sẽ phải theo kiện tại địa phương đó. Quy
định như vậy gây khó khăn rất lớn cho cơ quan cạnh tranh trong bối cảnh nguồn lực có hạn
mà thời gian tố tụng lại dài. Chính vì vậy, việc giải quyết khiếu nại cho các doanh nghiệp về
quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh cần có quy định tập trung các đầu mối giải quyết
khiếu kiện các vụ án hành chính tại các trung tâm đầu não về kinh tế, chính trị đặt tại các địa
phương một cách hợp lý.
3.4.1.4. Quy định về biện pháp xử lý vi phạm
- Liên quan đến quy định về phạt tiền đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, như đã
phân tích, việc xác định mức phạt căn cứ trên tổng doanh thu của năm tài chính trước năm
thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý. Để điều chỉnh, cần xác định mức phạt dựa theo
doanh thu của doanh nghiệp trên thị trường liên quan hoặc trên thị trường bị ảnh hưởng bởi
hành vi vi phạm pháp luật (affected market).
- Cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể trong các vụ việc hạn chế cạnh tranh, để
đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động xử lý vi phạm, cần quy định cụ thể nguyên tắc xác
định mức xử phạt, cách thức áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ… trong tính tốn


20

mức phạt. Cụ thể cần quy định mức phạt cơ bản (basic fine) đối với các hành vi vi phạm và
quy định mức tăng, giảm tỷ lệ phạt tương ứng đối với các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng.

- Về biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả, cần điều chỉnh, bổ sung các
biện pháp theo hướng tăng cường phổ biến, giáo dục nhận thức cho hiệp hội và cộng đồng
doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh, khôi phục lại các điều kiện cạnh tranh công bằng, thực
hiện các cam kết không vi phạm pháp luật cạnh tranh trong tương lai. Quan trọng hơn, do các
biện pháp này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xử lý vụ việc cạnh tranh, nên cần có cơ
chế cho phép cơ quan cạnh tranh phân tích, đánh giá và đề xuất các biện pháp khắc phục hậu
quả đối với từng vụ việc cụ thể.
3.4.1.5. Quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
- Nếu chỉ dùng phương pháp liệt kê hành vi như hiện nay sẽ không thể bao trùm hết
các loại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do đó, để đạt được hiệu quả, cho rằng cần
kết hợp hài hòa với phương pháp tiếp cận hợp lý. Nói cách khác, bên cạnh việc coi các hành
vi được liệt kê trong luật cũng như trong các văn bản hướng dẫn là hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, cần cho phép áp dụng quy định chung hay nói cách khác là một “điều khoản
quét” (basket clause) mô tả bản chất của hành vi, không nên chỉ quy định dựa theo các hình
thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc.
- Liên quan đến các quy định miễn trừ
Cần sửa đổi quy định hiện tại theo hướng cấm trong mọi trường hợp và không áp
dụng miễn trừ đối với nhóm hành vi thỏa thuận nghiêm trọng: (1) thỏa thuận ấn định giá;
(2) thỏa thuận phân chia thị trường; (3) thỏa thuận hạn chế sản lượng; và (4) thông đồng đấu
thầu này. Đối với các thỏa thuận khác, cần nghiên cứu áp dụng nguyên tắc hợp lý, theo đó
cơ quan cạnh tranh sẽ xem xét trên cơ sở đánh giá yếu “chi phí” và “lợi ích” của thỏa thuận.
Theo cách tiếp cận này, Việt Nam không cần phải ban hành các quy định về miễn trừ. Các
điều kiện xem xét miễn trừ quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh hiện nay có thể được đưa
vào bộ tiêu chí để đánh giá “chi phí” và “lợi ích” của hành vi thỏa thuận (ngoài hardcore
cartel). Miễn trừ, nếu có, có thể xem xét áp dụng trong trường hợp đặc thù ngành (block
exemptions), tuy nhiên việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh việc lạm dụng và làm
giảm thiểu vai trò, vị thế cũng như hiệu quả của Luật Cạnh tranh. Đồng thời, thời hạn miễn
trừ và các điều kiện gia hạn thời hạn được hưởng miễn trừ cũng cần được xem xét quy định.
- Liên quan đến chương trình khoan dung
Thực tiễn thực thi của một số nước tiên tiến như Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU cũng cho

thấy tác dụng rõ rệt của Chương trình khoan dung trong phát hiện và xử lý các hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh. Đồng thời, việc luật hóa và áp dụng Chương trình khoan dung đã trở
thành xu hướng chung, được rất nhiều cơ quan cạnh tranh trên thế giới thực hiện. Tuy nhiên,
Chương trình khoan dung ở các quốc gia được quy định khác nhau. Do đó, Việt Nam cũng nên
thiết kế một Chương trình khoan dung riêng, phù hợp với thực tiễn và tập quán kinh doanh,
thực thi pháp luật của các doanh nghiệp tại Việt Nam.
3.4.1.6. Quy định kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc
quyền trên thị trường
- Liên quan đến quy định về xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
Mặc dù ủng hộ việc quy định các tiêu chí đánh giá vị trí của doanh nghiệp trên thị
trường, tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh chỉ nên quy định các tiêu chí dưới dạng nguyên tắc
chung. Thay vì các quy định mang tính liệt kê cụ thể một cách cứng nhắc, Luật Cạnh tranh
cần đòi hỏi cơ quan thực thi pháp luật phải có các đánh giá, phân tích kinh tế chuyên sâu
hơn khi đánh giá vị trí/sức mạnh thị trường của doanh nghiệp. Ngồi ra, khi đánh giá vị
trí/sức mạnh thị trường của doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh cần đánh giá thực trạng trên
tthij trường, bối cảnh kinh tế… thay vì chỉ xem xét trong trạng thái tĩnh như hiện nay.
- Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng


21

Để giải quyết các hạn chế như hiện nay, cần thiết phải xây dựng hệ thống các tiêu chí
đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền, đồng thời phải có quy định bao quát
các hành vi lạm dụng có tác động hạn chế cạnh tranh có thể xảy ra. Các quy định của Luật
Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền có thể được sửa đổi theo hướng:
- Không nên phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị trí độc
quyền để điều chỉnh như hiện nay. Thay vào đó, cần tập trung vào bản chất của hành vi lạm
dụng sức mạnh thị trường của doanh nghiệp;
- Xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh. Các
tiêu chí cần tập trung vào bản chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của hành vi, không nên

căn cứ vào mơ tả về các biểu hiện bên ngồi của hành vi như hiện nay;
Bên cạnh việc liệt kê liệt kê một số hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh biết được theo
các tiêu chí hợp lý, Luật Cạnh tranh cần có điều khoản quét để bao quát hành vi có bản chất
chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh.
3.4.1.7. Quy định về tập trung kinh tế
- Về phạm vi và các hình thức TTKT phải kiểm sốt
Các giao dịch TTKT theo chiều dọc (đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia vụ việc
nằm ngay cạnh nhau trong chuỗi cung ứng/sản xuất) cũng có khả năng gây ra tác động hạn
chế cạnh tranh nhất định trên mỗi cấp độ thị trường là nơi hoạt động của các doanh nghiệp
tham gia TTKT ngay cả khi doanh nghiệp được hình thành sau TTKT khơng cần phải thực
hiện các hành vi phản cạnh tranh. Do đó, cần xem xét mở rộng việc điều chỉnh cả về hình
thức và hành vi của giao dịch TTKT. Cần xem xét kiểm soát cả các giao dịch TTKT được
thực hiện ngồi lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động gây hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể trên thị trường Việt Nam
Một vấn đề đặt ra là hiện tại Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ mới kiểm soát bằng hình
thức thơng báo hoặc cấm/miễn trừ đối với hoạt động TTKT thực hiện trên lãnh thổ Việt
Nam. Việc sáp nhập các cơng ty đa quốc gia hoạt động ngồi lãnh thổ Việt Nam nếu có tiềm
ẩn khả năng gây hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn từ cả phía
doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, cần có thêm các quy định tạo hành lang
pháp lý để Cơ quan cạnh tranh có thể xem xét các vụ việc này ngay từ giai đoạn đầu.
- Về bổ sung ngưỡng thông báo TTKT
Luật cạnh tranh Việt Nam kiểm soát vụ việc TTKT thơng qua tiêu chí thị phần. Việc
sử dụng tiêu chí thị phần để xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế sẽ giúp cơ quan
cạnh tranh có được đánh giá ban đầu chính xác hơn về khả năng gây hạn chế cạnh tranh của
vụ việc, từ đó gia tăng tỷ trọng các vụ việc thực sự có vấn đề về cạnh tranh trong tổng số
các vụ việc mà cơ quan cạnh tranh phải xem xét. Tuy nhiên, các tiếp cận sử dụng tiêu chí thị
phần trên thị trường liên quan cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong q
trình thực hiện thủ tục thơng báo TTKT như xác định thị trường liên quan, xác định thị phần
của mình trên thị trường liên quan. Chính vì vậy, bên cạnh tiêu chí thị phần, cần bổ sung
thêm các yếu tố dễ nhận biết khác như doanh thu trong năm tài chính, giá trị giao dịch tập

trung kinh tế… để xác định ngưỡng thông báo TTKT.
3.4.1.8. Quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Về bản chất, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định hiện nay bao
gồm: quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, chỉ dẫn gây nhầm lẫn,… là
các hành vi thương mại thông thường và nhiều hành vi đã được quy định tại các văn bản
pháp luật chuyên ngành như Luật Quảng cáo, Luật sở hữu trí tuệ… Do đó, cần nghiên cứu
loại bỏ các quy định này trong Luật cạnh tranh để đảm bảo tính thống nhất giữa pháp luật
cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác nếu
chưa được quy định ở các văn bản pháp luật chuyên ngành như bán hàng đa cấp bất chính,
gièm pha doanh nghiệp khác… thì nên xem xét ban hành một văn bản riêng điều chỉnh hành
vi này.


22

3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan cạnh tranh
3.4.2.1. Thành lập Ủy ban cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng
Căn cứ trên phân tích ở trên, để đảm bảo thực thi hiệu quả pháp luật cạnh tranh trong
thời gian tới, Việt Nam nên thành lập Ủy ban cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng độc lập
trực thuộc Chính phủ trên cơ sở nhập Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh hiện
nay vì các lý do sau đây.
Thứ nhất, việc thành lập một cơ quan cạnh tranh trực thuộc Chính phủ thể hiện quyết
tâm chính trị của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh thực thi pháp luật cạnh tranh hướng
tới xây dựng một nhà nước pháp quyền, hạn chế các can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính
của Chính phủ trong quá trình điều tiết nền kinh tế.
Thứ hai, hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh chủ yếu được thể hiện trong hoạt
động điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay khi mà các
doanh nghiệp nhà nước đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, do đó đối
tượng điều tra của cơ quan cạnh tranh có thể sẽ là các Tổng Công ty nhà nước, các tập đồn
kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu khơng có một vị thế đủ

mạnh thì cơ quan cạnh tranh sẽ khơng thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Đặc biệt,
nếu vẫn để cơ quan cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương như hiện nay sẽ dẫn tới việc
“vừa đá bóng vừa thổi cịi” vì hiện nay Bộ Cơng Thương đang quản lý nhiều tập đồn, tổng
cơng ty lớn có vị trí thống lĩnh thị trường trong các lĩnh vực như: bia, rượu, dầu khí, điện
lực, xăng dầu…
Thứ ba, việc thành lập một cơ quan cạnh tranh độc lập thuộc Chính phủ cũng sẽ tạo
điều kiện cho việc huy động nguồn thu ngân sách thông qua hoạt động một cách độc lập,
tăng thêm tính tự chủ của cơ quan cạnh tranh. Kinh nghiệm tách bộ, ngành, tái cơ cấu được
thực thi trong những năm gần đây cho thấy việc thiết lập một cơ quan ngang Bộ về mặt thể
chế, có cơ cấu gọn nhỏ trong giai đoạn đầu, có cơ chế huy động ngân sách hoạt động cụ thể
là khả thi. Đặc biệt khả năng phát triển ngày càng độc lập trong tương lai sẽ không bị giới
hạn trong một khn khổ nhất định nào.
Thứ tư, cần cân nhắc có nên đặt cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam tại Bộ Cơng
Thương hay khơng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về tính đa ngành cao của Luật Cạnh
tranh. Thậm chí, trên thực tế, Luật Cạnh tranh thường xuyên được đề cập tới như một luật
khung, hoặc nguyên tắc cơ bản phục vụ xây dựng các quy định chuyên ngành trong nền
kinh tế thị trường hiện đại.
Thứ năm, vị trí độc lập của một cơ quan trực thuộc Chính phủ giúp đảm bảo và thúc
đẩy việc tập trung chuyên mơn, tính cơng chính, minh bạch và khả năng chịu trách nhiệm và
giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân
sự, cũng như tự chủ về mặt ngân sách hoạt động đảm bảo cho cơ quan cạnh tranh có thực
quyền cao hơn. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới.
Thứ sáu, một trong những chức năng quan trọng khác của hầu hết các cơ quan cạnh
tranh trên thế giới là chức năng tham vấn. Tại Nghị định 06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006
cũng quy định Cục Quản lý cạnh tranh có quyền “phát hiện và kiến nghị cơ quan có liên
quan giải quyết theo thẩm quyền về những văn bản đã ban hành có nội dung không phù hợp
với quy định của pháp luật cạnh tranh”. Đây đã là một điểm khá tiến bộ theo hướng cho
phép cơ quan cạnh tranh được quyền loại bỏ tất cả các quy định đi ngược lại với các nguyên
tắc cạnh tranh. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi cơ quan cạnh tranh phải có vị trí đủ
mạnh.

Thứ bảy, để đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng của hội nhập kinh tế quốc tế, số vụ kiện
về các hành vi vi phạm pháp Luật cạnh tranh chắc chắn sẽ tăng lên một cách đáng kể. Điều
này đòi hỏi quy mô của cơ quan cạnh tranh phải được mở rộng nhằm đảm bảo nguồn tài
chính, nhân lực để thực thi hiệu quả các công việc được giao.


23

Theo kinh nghiệm của hầu hết các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, EU,
Đức..., trong giai đoạn tới, Việt Nam nên nhập Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh
tranh thành một cơ quan trực thuộc Chính phủ.
3.4.2.2. Tiếp tục xây dựng đội ngũ điều tra viên
Để xây dựng đội ngũ điều tra viên chuyên nghiệp, Việt Nam cần thực thi một chiến
lược phát triển nguồn nhân lực hợp lý.
- Xây dựng chương trình đào tạo tồn diện cho nhóm các điều tra viên cạnh tranh.
- Phối hợp với các tổ chức quốc tế, các cơ quan cạnh tranh nước ngồi tổ chức các
khố đào tạo ngắn hạn về kỹ năng điều tra cho các điều tra viên của Việt Nam
- Tích cực và tạo điều kiện cử các cán bộ của mình ra nước ngồi tham gia các khoá
đào tạo ngắn và dài hạn.
- Phối hợp với các cơ quan đào tạo nghiệp vụ điều tra trong nước như: Bộ cơng an,
Viện kiểm sốt cũng như các Trường đại học để bồi dưỡng nâng cao các kiến thức về kinh
tế, tài chính, luật và kỹ năng điều tra cho các điều tra viên.
- Hàng năm, tổ chức các lớp tấp huấn, nâng cao nghiệp vụ cho các điều tra viên.
- Nên đưa các nội dung, kiến thức của pháp luật cạnh tranh vào trong công tác nghiên
cứu, giảng dạy tại các trường đại học chuyên ngành luật, tài chính, kinh tế... hoặc các Viện
nghiên cứu. Đây chính là nơi đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu và chuyên nghiệp
về lĩnh vực này cho cơ quan quản lý cạnh tranh và các cơ quan hữu quan sau này.
3.4.3. Nâng cao nhận thức của các cơ quan liên quan và cộng đồng doanh nghiệp
về pháp luật cạnh tranh
3.4.3.1. Tăng cường công tác tham vấn với cơ quan điều tiết ngành

Để nâng cao nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về pháp luật
cạnh tranh cần triển khai các hoạt động sau:
- Xây dựng cơ chế phối hợp, chia sẻ thơng tin, chính sách giữa cơ quan cạnh tranh
với các cơ quan điều tiết ngành.
- Xây dựng cơ chế cho phép Cơ quan cạnh tranh được tham vấn các chính sách ngành
trước khi ban hành để đảm bảo các chính sách này phù hợp với các nguyên tắc cạnh tranh.
- Cơ quan cạnh tranh phải tích cực tham gia góp ý vào q trình soạn thảo các văn
bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách cạnh tranh và các
chính sách khác của Nhà nước.
- Thường xuyên tiến hành rà soát rà soát pháp luật cạnh tranh với pháp luật chuyên
ngành để chỉ ra những quy định không phù hợp với chính sách và pháp luật cạnh tranh.
3.4.3.2. Tăng cường nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp
Các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh vừa đã đạt được những kết
quả và chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nếu căn cứ trên mức độ nhận thức của cộng đồng
doanh nghiệp thì hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh cịn nhiều hạn chế.
Do đó, trong thời gian tới, Cơ quan cạnh tranh cần đa dạng hóa các hình thức tun truyền,
phổ biến. Bên cạnh các hình thức truyền thống như hội nghị, hội thảo, cần có các hoạt động
tuyên truyền trực tiếp, trực quan, sáng tạo đến doanh nghiệp và các đối tượng khác của Luật
Cạnh tranh.
Ngồi ra, các cơ quan truyền thơng báo chí cũng có vai trị rất quan trọng trong việc
chuyển tải chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến với doanh nghiệp. Cơ quan quản
lý cạnh tranh cần quan hệ chặt chẽ với các cơ quan truyền thông để kịp thời phản ánh, giới
thiệu cho doanh nghiệp biết các hành vi vi phạm bị xử lý, đặc biệt là các hành vi vi phạm có
quy mơ lớn, ảnh hưởng tới nhiều người tiêu dùng để tạo tiếng vang và sự đồng thuận cho
các hoạt động của cơ quan cạnh tranh.


24

3.4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế

Cơ quan cạnh tranh Việt Nam chính thức được thành lập được khoảng 10 năm. So
với hơn 100 cơ quan cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới, cơ quan cạnh tranh Việt
Nam nằm trong nhóm cơ quan cạnh tranh “non trẻ”. Do đó, để học tập kinh nghiệm của các
nước, Cơ quan cạnh tranh cần tăng cường mối quan hệ hợp tác với nhiều cơ quan cạnh tranh
quốc tế và tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế về pháp luật và chính sách cạnh tranh
như ASEAN, ICN, APEC v.v… Bên cạnh đó, cần có giải pháp hợp tác với các cơ quan
cạnh tranh trong khu vực để giải quyết các hành vi phản cạnh tranh có quy mơ xun biên
giới thông qua việc ký kết các biên bản ghi nhớ, biên bản hợp tác với các cơ quan cạnh
tranh nước ngồi.
Theo thống kê hiện nay, nội dung về chính sách cạnh tranh có rất ít các trường đại
học đưa vào nội dung đào tạo. Do đó, các sinh viên là nguồn lực đầu vào cho cơ quan cạnh
tranh hầu hết chưa có khái niệm về pháp luật cạnh tranh nên nhu cầu đào tạo là rất lớn. Đặc
biệt, các bộ làm cơng tác cạnh tranh phải có nhiều kỹ năng điều tra cơ bản như: kỹ năng
phỏng vấn lấy lời khai, kỹ năng thu thập và phần tích chứng chức, kỹ năng phân tích và
đánh giá tác động kinh tế… Vì vậy, việc hợp tác quốc tế với các cơ quan cạnh tranh nước
ngồi thơng qua các hình thức đào tạo, thực tập tại chỗ là rất cần thiết cho cơ quan cạnh
tranh Việt Nam.


25

KẾT LUẬN
Hiệu quả thực thi của một quy phạm ngày nay được coi là tiêu chí quyết định chất
lượng của một quy phạm pháp luật. Chất lượng của một quy phạm pháp luật quyết định chất
lượng của một văn bản luật và xa hơn là của cả một hệ thống luật pháp của một quốc gia.
Chính vì vậy, đây là một vấn đề cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc.
Không thể soạn thảo và ban hành một văn bản quy phạm pháp luật mà khơng tính đến hiệu
quả thực sự của nó khi áp dụng vào thực tiễn.
Thực trạng ở Việt Nam cho thấy có rất nhiều văn bản luật có chất lượng, và được thực
thi có hiệu quả. Nhưng cùng có khơng ít những quy phạm không được áp dụng trong cuộc

sống, không đáp ứng được những mục tiêu mà các nhà lập pháp đề ra khi ban hành. Luật
Cạnh tranh là một ví đụ tiêu biểu cho tình trạng này. Dù được ban hành từ năm 2005, việc áp
dụng Luật Cạnh tranh trong thực tế còn rất hạn chế. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh dường như
không làm thay đổi các quan hệ xã hội mà Luật hướng tới để điều chỉnh. Các chủ thể, đối
tượng điều chỉnh của Luật, ngoại trừ các cơ quan thực thi Luật, duờng như không biết đến sự
tồn tại của Luật, hoặc dù có biết cũng khơng muốn thực thi các quy định của Luật. Tình trạng
này dẫn đến sự tồn tại trên văn bản của Luật Cạnh tranh mà chưa được thực hiện trong thực
tiễn cuộc sống.
Hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh dường như cần phải xem xét lại. Vấn đề đặt ra
là việc hạn chế này có ngun do từ chính bản thân quy phạm đó hay từ việc triển khai áp
dụng các quy phạm này bởi các cơ quan thực thi hay do những yếu tố này ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
hiện nay, khi mà các hoạt động kinh tế vượt ra ngồi khn khổ của một quốc gia, các quy
phạm của Luật Cạnh tranh càng cần phải được xem xét, để đánh giá lại.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, Luận án đã đạt được một số kết quả sau:
1. Về cơ sở lý luận: Luận án đã phân tích nguồn gốc của cạnh tranh, pháp luật cạnh
tranh đồng thời phân tích sâu hơn lý luận về hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh. Từ đó,
Luận án đã chỉ ra một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh là (i)
đánh giá chất lượng của các quy định pháp luật cạnh tranh thơng qua phân tích về tính hợp
pháp và tính thực tiễn của pháp luật cạnh tranh; (ii) đánh giá về công tác tổ chức thực thi
pháp luật cạnh tranh bao gồm việc đánh giá hoạt động của cơ quan thực thi và các hoạt động
hỗ trợ việc tiếp cận sử dụng pháp luật cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp.
2. Về kinh nghiệm của các nước: Phân tích kinh nghiệm để rút ra bài học là một
trong những nội dung chủ yếu của luận án. Nghiên cứu đã phân tích cụ thể kinh nghiệm các
nước từ nội dung pháp luật, cơ quan thực thi, các biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi của
từng nước để tìm ra các nội dung và bài học có thể áp dụng ở Việt Nam. Các bài học kinh
nghiệm rút ra cho thấy:
- Nội dung của pháp luật cạnh tranh phỉa bao gồm việc điều chỉnh các nhóm hành vi:
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường vị trí độc quyền, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và các
hành vi về mua bán sáp nhập doanh nghiệp.

- Về hoạt động của cơ quan cạnh tranh: nguyên tắc quan trọng hàng đầu của cơ quan
cạnh tranh là bảo đảm tính độc lập. Độc lập về vị trí và độc lập khi ra quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh. Bên cạnh đó, để vận hành tốt, cơ quan cạnh tranh phải có một số quyền lực
cơ bản bao gồm:
+ Phát hiện và loại bỏ các chính sách liên quan làm cản trở môi trường cạnh tranh.
+ Yêu cầu các cơ quan tổ chức cung cấp thông tin chứng cứ phục vụ quá trình điều
tra vụ việc cạnh tranh.


×