Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ CHO QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.93 KB, 30 trang )

Nhóm 5. Lớp CQ50/16.01.LT2
1.Nguyễn Thị Hương
2.Hồ Thị Loan
3.Nguyễn Thị Mến
4.Nguyễn Thị Lê Na
5.Lê Thị Hồng Ngân
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN : THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA
CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
PHỤC VỤ CHO QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CHO CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.

Nội dung
Chương I: Cơ sở lí luận chung
Chương II :Phần nội dung
I.Cập nhật các văn bản pháp lí liên quan.
II.Các phương pháp định giá doanh nghiệp
III.Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
IV.Thực trạng áp dụng các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để
phục vụ cổ phần hóa nhà nước.
V.Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao,hoàn thiện các phương pháp xác
định giá trị doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.


Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.Giá trị doanh nghiệp và nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng,có tài sản,có trụ sở giao dịch ổn
định,được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện môt
hoặc một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình đầu tư,từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi
Giá trị doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mà doanh
nghiệp mang lại cho nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh.



Nhu cầu xác định giá trị DN
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị đối với loại
hàng hóa này là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô
cũng như trong hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về GTDN.
GTDN là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên quan, giắn bó
trực tiếp đến GTDN được xuất phát chủ yếu từ các yêu cầu quản lý và các giao
dịch:
Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán, sáp nhập,
hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có tính chất
thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đàu tư trục
tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng
các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi trường tự do
cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên phạm vi
rộng lớn các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó GTDN là một yếu tố có
tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong
tiến trình giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ doanh nghiệp.
GTDN là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị phân tích, đánh giá trước
khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp
được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài chính doanh nghiệp, xét cho cùng
là phải tăng được giá trị doanh nghiệp. GTDN là sự phản ánh năng lực tổng hợp,
khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà
QTKD có thể thấy dược khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình và các doanh


nghiệp khác. Do vậy GTDN làm một căn cứ thích hợp, cơ sở để đưa ra cac quyết
định về kinh doanh, tài chính… một cách đúng đắn.
Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, người cung cấp, thông tin về GTDN cho
người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh doanh, khả năng tài chính và vị
thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc tiếp tục

cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
GTDN là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô: Giá cả các loại
chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của doanh nghiệp có chứng khoán
được trao đổi mua bán trên thị trường. Vì vậy trên phương diện quản lý vĩ mô,
thông tin về GTDN là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách,
các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị
trường, nhận dạng hiện tượng đàu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm quyền kiểm
soát doanh nghiệp… để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều tiết phù hợp. Ngoài
ra, trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định GTDN còn là một
bước đi quan trọng để cải cách các DNNN như: cổ phần hóa, sáp nhập, hợp nhất
hay giao, bán và cho thuê.
Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông thường trong
cơ chế thị trường đã đặt ra những yêu cầu cần thiết phải xác định GTDN. Đó có thể
là những yêu cầu có tính chất tình huống, cũng có thể là đòi hỏi thường nhật trong
hoạt động SXKD. Chúng là mối quan tâm của 3 loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư
và nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy định giá doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yêu
đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường.
Theo quy định hiện hành của Nhà nước thì có 03 phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp, đó là: phương pháp tài sản; phương pháp dòng tiền chiết khấu và
phương pháp khác. Tuy nhiên, trong thực tế phương pháp khác là phương pháp gì
và chưa có doanh nghiệp nào xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp
khác. Trong 02 phương pháp còn lại thì phương pháp tài sản là phương pháp gốc,
nghĩa là khi xác định theo phương pháp dòng tiền chiết khấu thì giá trị doanh
nghiệp cũng không được thấp hơn phương pháp tài sản.

Chương II: Nội dung
I.CÁC VĂN BẢN PHÁP LÝ LIÊN QUAN:


Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính Phủ về chuyển doanh

nghiệp 100% vốn Nhà Nước thành công ty cổ phần,có hiệu lực từ ngày 05 tháng 9
năm 2011,được sửa đổi,bổ sung bởi:
Nghị định số 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ sửa đổi,bổ sung
một số điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần,có hiệu lực kể từ
ngày 15 tháng 01 năm 2014.
Thông tư 202/2011/TT-BTC hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh
nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ
phần theo quy định tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP do Bộ Tài chính ban hành
Thông tư 127/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện
và quy trình thủ tục công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh
nghiệp.
Luật Doanh Nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005
Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001
Luật Chứng khoán ngày 29 tháng 6 năm 2006
Xét đề nghị,hướng dẫn thi hành của Bộ Tài Chính.
II.Các phương pháp định giá doanh nghiệp
A.PHƯƠNG PHÁP TÀI SẢN
1.Nội dung của phương pháp tài sản
Phương pháp tài sản là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở đánh
giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm xác định
giá trị doanh nghiệp.
Đối tượng áp dụng:Là các doanh nghiệp cổ phần hóa,trừ các doanh nghiệp thuộc
đối tượng phải áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu
2. Công thức tính:
Giá trị thị trường của doanh nghiệp được tính toán dựa trên bảng cân đối tài
sản của doanh nghiệp và giá trị của vốn chủ sở hữu được tính như sau:


VE = VA – VD

Trong đó: VE: Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu
VA: Giá trị thị trường của toàn bộ tài sản
VD: Giá trị thị trường của nợ
2.1 Giá trị thị trường của toàn bộ tài sản (VA) gồm có:
2.1.1. Tài sản hữu hình
2.1.1.1 Tài sản là hiện vật:
- Tài sản cố định (kể cả tài sản cố định cho thuê)
Giá trị thực tế của tài sản cố định = Nguyên giá tính theo giá thị trường x
Chất lượng còn lại của tài sản cố định tại thời điểm định giá.
+ Đối với những tài sản có giao dịch phổ biến trên thị trường thì căn cứ vào
giá thị trường và áp dụng phương pháp so sánh giá bán để ước tính nguyên giá.
+ Đối những tài sản không có giao dịch phổ biến trên thị trường thì áp dụng
các phương pháp thẩm định giá bất động sản, máy thiết bị phù hợp khác để ước
tính giá.
- Hàng hoá, vật tư, thành phẩm:
+ Đối với những hàng hoá, vật tư, thành phẩm có giá trên thị trường thì xác
định theo giá thị trường:
Giá trị thực tế của hàng hoá, vật tư, thành phẩm = Số lượng hàng hoá, vật tư,
thành phẩm * Đơn giá hàng hoá, vật tư, thành phẩm tính theo giá thị trường tại thời
điểm định giá * Chất lượng còn lại của hàng hoá, vật tư, thành phẩm
+ Đối với những hàng hoá, vật tư, thành phẩm không có giá trên thị trường
thì xác định theo nguyên giá ghi trên sổ sách kế toán * Chât lượng còn lại
2.1.1.2. Tài sản bằng tiền gồm tiền mặt, tiền gửi và các giấy tờ có giá (tín
phiếu, trái phiếu,...) của doanh nghiệp vào thời điểm thẩm định giá được tính như
sau:
a. Tiền mặt được xác định theo biên bản kiểm quỹ.
b. Tiền gửi được xác định theo số dư đã đối chiếu xác nhận với ngân hàng.
c. Các giấy tờ có giá thì xác định theo giá giao dịch trên thị trường. Nếu
không có giao dịch thì xác định theo mệnh giá của giấy tờ.
2.1.1.3. Giá trị tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn được xác định

theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã được đối chiếu xác nhận vào thời điểm thẩm
định giá.


2.1.1.4. Giá trị các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: về nguyên tắc
phải đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với doanh nghiệp hiện đang sử dụng
các khoản đầu tư đó. Tuy nhiên nếu các khoản đầu tư này không lớn thì căn cứ vào
số liệu của bên đối tác đầu tư để xác định.
2.1.1.5. Đối với các khoản phải thu: do khả năng đòi nợ các khoản này có
nhiều mức độ khác nhau; nên thông qua việc đối chiếu công nợ, đánh giá tính pháp
lý, khả năng thu hồi nợ của từng khoản nợ cụ thể, từ đó loại ra những khoản nợ mà
doanh nghiệp không thể đòi được, để xác định giá trị thực tế của các khoản phải
thu.
2.1.1.6. Đối với quyền thuê bất động sản tính theo thu nhập thực tế trên thị
trường hoặc theo phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.
- Nếudoanh nghiệp đã trả tiền thuê một lần cho nhiều năm thì tính lại theo
giá thị trường vào thời điểm thẩm định giá.
2.1.1.7. Giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp: theo phương pháp này,
người ta chỉ thừa nhận giá trị các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán
(số dư trên sổ kế toán vào thời điểm thẩm định giá) hoặc lợi thế về quyền thuê tài
sản và thường không tính đến lợi thế thương mại của doanh nghiệp.
Giá trị lợi thế thương mại của doanh nghiệp (nếu có) sẽ được xác định
trên cơ sở lấy giá trị doanh nghiệp tính theo phương pháp so sánh thị
trường, hoặc theo phương pháp thu nhập trừ cho giá trị doanh nghiệp tính theo
phương pháp tài sản
2.2. Giá trị thị trường của nợ (VD):được xác định theo số dư thực tế trên sổ kế toán
vào thời điểm thẩm định giá.
3.ƯU ĐIỂM VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG
+Đơn giản, dễ thực hiện, không đòi hỏi những kỹ năng tính toán phức tạp.
+Phương pháp giá trị tài sản thuần đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể cấu

thành giá trị doanh nghiệp
+Phương pháp xác định giá trị thị trường của số tài sản có thể bán rời tại thời điểm
đánh giá.Như vậy,nó chỉ ra rằng có 1 khoản thu nhập tối thiểu mà người sở hữu sẽ
nhận được.Đó cũng là mức giá thấp nhất,là cơ sở đàu tiên để các bên có liên quan
đưa ra trong quá trình giao dịch và đàm phán về giá bán của doanh nghiệp.
4.NHƯỢC ĐIỂM
+Doanh nghiệp không được coi như 1 thực thể,1 tổ chức đang tồn tại và còn có thể
điều chỉnh,phát triển trong tương lai.Vì vậy mà nó không phù hợp với 1 tầm nhìn
chiến lược về doanh nghiệp


+Phương pháp giá trị tài sản thuần đã không cung cấp và xây dựng được những cơ
sở thông tin cần thiết để các bên có liên quan đánh giá về triển vọng sinh lời của
doanh nghiệp.
+Phương pháp giá trị tài sản thuần đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật chất
nhưng lại có giá trị thực sự.Đó có thể là những doanh nghiệp có tài sản không đáng
kể nhưng triển vọng sinh lời lại khá cao.
+Trong nhiều trường hợp,xác định giá trị tài sản thuần lại trở nên quá phức tạp
+ Phát sinh một số chi phí do phải thuê chuyên gia đánh giá tài sản; Không thể loại
bỏ hoàn toàn tính chủ quan khi tính giá trị doanh nghiệp; Việc định giá doanh
nghiệp dựa vào giá trị trên sổ sách kế toán, chưa tính được giá trị tiềm năng như
thương hiệu, sự phát triển tương lai của doanh nghiệp.

B. Phương pháp dòng tiền chiết khấu.
Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) là phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp dựa trên cơ sở khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai.


Cơ sở lý luận
Theo quan điểm của nhà đầu tư đa số: bỏ vốn đầu tư nhằm thâu tóm

quyền kiểm soát DN. Với nhà đầu tư đa số, mua DN như là đổi lấy một cơ
hội hoặc một dự án đầu tư đang được triển khai. Với nhà đầu tư đa số,
quá trình SX-KD là một quá trình phát sinh các dòng tiền vào và dòng tiền
ra, vì vậy cần phải xem xét: Lượng vốn phải tiếp tục bỏ ra trong tương lai
Độ lớn của các khoản thu nhập có thể đạt được Thời điểm phát sinh các
dòng tiền
⇒ giá trị hiện tại của dòng tiền thuần đem lại cho nhà đầu tư đa số, từ việc
đầu tư vào DN ở thời điểm hiện tại và tương lai, được xem là tiêu chuẩn
thích hợp để xác định giá trị DN.
Phương pháp xác định
- Các khoản thu trong tương lai được thay thế bằng dòng tiền thuần của
dự án đầu tư vào DN. Dòng tiền thuần = Dòng tiền vào – Dòng tiền ra
trong đó:
+ Dòng tiền vào: các khoản thu nhập ñem lại cho DN (khấu hao TSCĐ, lợi
nhuận thuần hàng năm, vốn thu được khi dự án kết thúc,…)
+ Dòng tiền ra: các khoản đầu tư vào DN (vốn ñầu tư vào TSCĐ và TSLĐ
thường xuyên trong tương lai )

Vo=()+
Trong đó :
+V0 : giá trị DN
+CFt : thu nhập thuần năm t
+Vn : giá trị của DN cuối chu kỳ ñầu tư (năm thứ n)
+ i : tỷ suất hiện tại hóa


Các bước cơ bản xác định giá trị doanh nghiệp
Bước 1: dự báo dài hạn về các dòng tiền vào và ra có thể phát sinh trong
tương lai. Dự báo doanh thu, chi phí vận hành, khoản vốn bổ sung và rút
ra khỏi quá trình luân chuyển hàng năm. Dự báo chu kỳ đầu tư (n) và giá

trị DN cuối chu kỳ đó (Vn)
Bước 2: Xác định tỷ suất chiết khấu dòng tiền, thường dựa trên chi phí sử
dụng vốn bình quân (phản ánh chi phí cơ hội ñầu tư vốn vào DN).
Bước 3: Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền thuần theo tỷ suất chiết
khấu trên để tìm ra giá trị của DN
Ghi chú
Dòng tiền vào = LN thuần + Khấu hao + Lãi vay
Dòng tiền thuần = Dòng tiền vào - Đầu tư bổ sung vào TSCĐ ± Chênh
lệch về vốn lưu động thường xuyên
Thừa số hiện tại hóa (10%) được tính theo công thức: f (i, n )=
Giá trị cuối cùng (ñến hạn) được tính bằng cách chiết khấu dòng tiền thuần
ở năm thứ 5 (năm cuối của chu kỳ ñầu tư) theo lãi suất 10% với thời hạn
không xác ñịnh.
Ưu điểm :
- Phương pháp này tiếp cận vấn đề xác định giá trị DN theo cách nhìn của
nhà đầu tư đa số:
+Xem xét DN như một dự án đầu tư ⇒ giá trị DN phải ñược xác định dựa
trên các tiêu chuẩn hiệu quả của đầu tư.
+Giá trị DN tính theo phương pháp này sẽ là mức giá cao nhất mà nhà đầu
tư đa số có thể trả (nếu tham gia ñấu thầu thì ñây là giới hạn ñể bỏ thầu)


+“Vì sao DN này lại có giá trị cao hơn DN kia?”. Mỗi nhà đầu tư luôn có
những dự định riêng khi họ có thể kiểm soát ñược DN. Theo những dự
định riêng đó, mỗi nhà ñầu tư sẽ trả DN với giá khác nhau.
+ Đây là phương pháp ñiển hình tính giá trị DN trong trạng thái động.
+Tránh vấn đề phức tạp là phải điều chỉnh số liệu kế toán sao cho có thể
phản ánh đúng thời điểm phát sinh các khoản tiền.
Hạn chế :
+ Vấn đề về tỷ suất hiện tại hóa (i) và chu kỳ đầu tư (n).

+Khó khăn trong dự báo dòng tiền vào và dòng tiền ra.
+ Không thích hợp với các DN nhỏ không có chiến lược kinh doanh hoặc
có chiến lược nhưng không rõ ràng.
+ Người đánh giá dự án phải có năng lực giỏi về lãnh vực thẩm ñịnh dự
án đầu tư.
+ Mức ñộ tin cậy của thông tin đánh giá các yếu tố tác động đến DN còn
thấp.

III. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp ở Việt
Nam.
1.Khái niệm Cổ phần hóa , công ty cổ phần và tình hình các DNNN trước khi Cổ
phần hóa.

* Công ty cổ phần:
Là loại hình doanh nghiệp được thành lập do nhiều người bỏ vốn ra.Tiền vốn
được chia thành các cổ phần bằng nhau, người hùn vốn với tư cách là các cổ đông
sẽ mua một số cổ phần đó.
* Cổ phần hóa:


Là biện pháp chuyển Doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở
hữu nhiều thành phần và chuyển hình thức hoạt động của Doanh nghiệp từ loại
hình DNNN thành Công ty Cổ phần.
* Tình hình các DNNN trước khi Cổ phần hóa :
Trước khi Cổ phần hóa tình hình hoạt động kinh doanh của các DNNN cũng
có những điều đáng chú ý. Trước khi có luật Công ty năm 1990, đa số các DNNN
rơi vào tình trạng thua lỗ kéo dài, bộ máy tổ chức kém, các chi phí cho hoạt động
bộ máy là rất lớn. Trước tình hình đó chúng ta cũng đã có chủ trương giao quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh cho các Doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể chủ động
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tự hoạch toán lỗ lãi… Với chủ trương này doanh

nghiệp nào tổ chức tốt sẽ nhanh chóng thích nghi, chuyển đổi nhạy bén nắm bắt
các ưu thế của DNNN nâng cao sức mạnh và khả năng cạnh tranh, ngược lại nếu
doanh nghiệp tổ chức kém sẽ không đứng vững trên thị trường, mất khả năng cạnh
tranh và tự loại ra cuộc chơi. Nhiều người cho rằng các DNNN làm ăn thua lỗ là do
trình độ quản lý kém trong khi đó quy mô các DNNN lớn song không thực tế phải
hoàn toàn như vậy đa số các DNNN thời kì này là doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, có
0,4% doanh nghiệp vốn trên 100 tỷ đồng; 3,7% doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ
đồng; 72% doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ đồng; không phát huy được nội lực trong
nội bộ doanh nghiệp,nhà nước phải bao cấp, trên 50% DNNN bị thua lỗ, một số ít
có lãi nhưng lãi giả lỗ thật,nguồn vốn đầu tư cho các DNNN là vay nợ nước
ngoài,viện trợ phát triển,…
Từ những vấn đề đó cho thấy DNNN thời kì này không thể giữ vai trò chủ chốt
trong nền kinh tế quốc dân. Nếu xóa bỏ các doanh nghiệp này thì nhà nước sẽ khó
có thể điều tiết nỗi nền tài chính đất nước, vì thế thực hiện Cổ phần hóa là một lối
thoát.
2.Thực trạng Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước trong năm qua.


Năm 2014, có sự thay đổi rõ rệt và mạnh mẽ trong động thái cổ phần hóa
DNNN. Với cách tiếp cận phải đặt quá trình tái cơ cấu trên nền tảng các nguyên
tắc cơ bản của kinh tế thị trường (cạnh tranh tự do, bình đẳng và hệ thống giá được
thiết lập trên cơ sở chủ yếu là cung - cầu thị trường và cạnh tranh), Chính phủ đã tỏ
ra quyết liệt hơn trong việc đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa DNNN, coi đây là
hướng ưu tiên trong 3 trục chính của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Chính phủ
đặt ra nhiệm vụ trong 2 năm 2014-2015, phải cổ phần hóa được 532 DNNN (sau
khi rà soát, bổ sung danh mục DN phải CPH theo tiêu chí phân loại DNNN mới
được ban hành thì số DNNN phải cổ phần hóa, thoái vốn tăng thêm 100 so với 432
DN như kế hoạch trước đó, ở mức 532 DN), tức là căn bản hoàn thành toàn bộ
chương trình cổ phần hóa DNNN trước năm 2016. So với tốc độ cổ phần hóa cực
kỳ chậm chạp của những năm trước, đặt trong bối cảnh cả nền kinh tế - cả khu vực

nhà nước và khu vực doanh nghiệp – đều gặp khó khăn, đặc biệt là nguồn lực tài
chính, nhiệm vụ cổ phần hóa 532 DNNN dường như là một thách thức to lớn mà
Chính phủ tự đặt ra cho mình.
Ba tình huống cổ phần hoá/ IPO tiềm năng trong thời gian sắp tới sẽ diễn ra ở
Công ty dịch vụ viễn thông di động Việt Nam (MobiFone), Tổng công ty hàng hải
Việt Nam (Vinalines), và Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam
(Vinacomin).
Với giá trị sở hữu vào khoảng 3,4 tỷ USD, MobiFone hiện nắm giữ khoảng
21% thị phần thị trường điện thoại di động của Việt Nam. MobiFone và Vinaphone
là hai công ty con (chiếm 19% thị phần) của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt
Nam (VNPT). Mặc dù MobiFone được dự kiến thực hiện cổ phần hoá từ năm
2005, nhưng Mobifone sẽ cổ phần hoá trước một phần cuối năm 2015 và Nhà nước
sẽ chỉ nắm giữ 20% cổ phần.


Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines) hiện là công ty hàng hải quốc
doanh của Việt Nam. Vinalines đã gặp nhiều khó khăn tài chính sau sự kiện tham
nhũng và khoản nợ lên tới 4 tỷ USD do tình trạng quản lý tài chính yếu kém. Để
trả nợ, Vinalines đã phải bán cổ phần tại nhiều đơn vị của mình, bao gồm các cảng
biển.
Vinacomin gần đây đã hoàn thành thoái vốn trong lĩnh vực tài chính, bao gồm
việc thoái vốn tại Công ty Bảo hiểm SHB, Ngân Hàng SHB, Công ty Bảo hiểm
Hàng không, Công ty chứng khoán SHB và Công ty tài chính Vinacomin. Tính đến
tháng 8/2014, Vinacomin đã cổ phần hoá được ba trong tám đơn vị thành viên.
Năm đơn vị còn lại sẽ được cổ phần hoá năm 2015 bao gồm: Tổng công ty điện
lực- than khoáng sản, Tổng công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc - Vinacomin, Tổng
công ty Khoáng sản – Vinacomin, Công Ty TNHH MTV Cơ Khí Đóng Tàu Vinacomin, và Công ty TNHH MTV Môi Trường-Vinacomin.
Có thể thấy, với dự báo đầy hứa hẹn về tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam
cùng hàng trăm cơ hội từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn tới
đây, giới đầu tư nên tích cực tìm kiếm và nắm bắt các cơ hội tốt nhất ngay trong

năm 2015 này nhằm tối ưu hóa khoản đầu tư. Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa
cũng nhờ đó có thêm cơ hội huy động vốn, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất
lao động, từ đó cải thiện hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.


IV.Thực trạng áp dụng các phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp vào việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang được thực
hiện chuyển đổi mô hình các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ
phần. Vấn đề đặt ra hiện nay là việc xác định giá trị doanh nghiệp, phục vụ
cho mục đích cổ phần hóa phải phù hợp với thị trường nhằm thất thoát
nguồn vốn ngân sách nhà nước.Thời gian vừa qua, việc xác định giá trị
doanh nghiệp cho cổ phần hóa đã được nhiều thành tựu song bên cạnh đó
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong các phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp cho cổ phần hóa. Hiện nay, việc xác định giá trị doanh
nghiệp cho cổ phần hóa thực hiện theo nghị định số 109/2007/NĐ –CP về
việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
1.Các quy định của pháp luật liên quan đến các phương pháp

xác định giá trị doanh nghiệp:
Điều 27. Giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo phương pháp tài sản
1. Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị toàn bộ tài
sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa có tính đến khả
năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều
chấp nhận được.
Giá trị thực tế vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị
thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả, số dư Quỹ
khen thưởng, Quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có).



2. Khi cổ phần hóa toàn bộ tập đoàn, tổng công ty nhà nước thì giá trị
vốn nhà nước là giá trị thực tế vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn,
tổng công ty nhà nước.
3. Trường hợp cổ phần hóa công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công
ty con thì giá trị vốn nhà nước là giá trị thực tế vốn nhà nước tại công ty
mẹ.
4. Đối với các tổ chức tài chính, tín dụng khi xác định giá trị doanh
nghiệp theo phương pháp tài sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo
tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản công nợ nhưng phải
thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài
hạn và giá trị quyền sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định.
Điều 28. Các khoản sau đây không tính vào giá trị doanh nghiệp để cổ
phần hóa
1. Giá trị những tài sản quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 14 Nghị
định này.
2. Các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi.
3. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã có quyết
định đình hoãn của cấp có thẩm quyền trước thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp.
4. Các khoản đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác được quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 18 Nghị định này.
5. Người có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp xem xét quyết
định việc không tính vào giá trị doanh nghịêp để cổ phần hoá đối với các
nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về quyết định của mình.
Điều 29. Các căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp



1. Số liệu theo sổ kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá
trị doanh nghiệp.
2. Tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản của doanh
nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
3. Giá thị trường của tài sản tại thời điểm tổ chức định giá.
4. Giá trị quyền sử dụng đất được giao, được thuê và giá trị lợi thế
kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều 30. Giá trị quyền sử dụng đất
1. Đối với diện tích đất doanh nghiệp cổ phần hoá đang sử dụng làm
mặt bằng xây dựng trụ sở, văn phòng giao dịch; xây dựng cơ sở sản xuất,
kinh doanh; đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản,
làm muối (kể cả đất đã được Nhà nước giao có thu hoặc không thu tiền sử
dụng đất) thì doanh nghiệp cổ phần hoá có trách nhiệm xây dựng phương
án sử dụng đất trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Doanh
nghiệp được lựa chọn hình thức thuê đất hoặc giao đất theo quy định của
Luật Đất đai.
Trường hợp doanh nghiệp đã được giao đất nay lựa chọn hình thức
thuê đất thì phải hoàn tất thủ tục chuyển sang thuê đất gửi cơ quan quyết
định cổ phần hoá và cơ quan quản lý nhà đất tại địa phương trước khi
chính thức chuyển sang công ty cổ phần.


2. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá được giao đất (kể cả diện
tích đất Nhà nước đã giao cho doanh nghiệp xây dựng nhà để bán hoặc
cho thuê kinh doanh khách sạn, kinh doanh thương mại dịch vụ; xây dựng
kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê) thì phải tính giá trị
quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo giá đất đã được Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nơi doanh nghiệp có diện
tích đất được giao) quy định và công bố.
3. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá chọn hình thức thuê đất:

a) Đối với những doanh nghiệp trả tiền thuê đất hàng năm thì không
tính tiền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp;
b) Đối với những doanh nghiệp trả tiền thuê đất một lần cho toàn bộ
thời gian thuê đất thì tính tiền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp theo giá sát
với giá thị trường tại thời điểm định giá được Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố.
4. Trường hợp giá đất làm căn cứ để xác định giá trị quyền sử dụng
đất, tiền thuê đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực
tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm cổ phần hoá thì
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất
cụ thể cho phù hợp;


Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi đủ hồ sơ, nếu chưa nhận
được văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
về giá đất thì cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp được
quyền tính giá trị quyền sử dụng đất, giá tiền thuê đất vào giá trị doanh
nghiệp theo phương án doanh nghiệp đã đề nghị nhưng không thấp hơn
giá trị quyền sử dụng đất, giá thuê đất tính theo giá đất được công bố và
thông báo cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
biết.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách
nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng hướng dẫn doanh nghiệp cổ phần
hoá thực hiện đầy đủ trình tự và thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc ký hợp đồng thuê đất theo quy định của pháp luật
hiện hành về đất đai trước khi chính thức chuyển sang công ty cổ phần.
Điều 31. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp
1. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá gồm giá trị
lợi thế về vị trí địa lý, giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển.
2. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá do cơ quan

có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp xem xét, quyết định
nhưng không thấp hơn giá trị lợi thế kinh doanh được xác định theo hướng
dẫn của Bộ Tài chính.
Điều 32. Xác định giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp cổ
phần hóa tại các doanh nghiệp khác:
1. Giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp cổ phần hóa tại các
doanh nghiệp khác được xác định trên cơ sở:
a) Tỷ lệ vốn đầu tư của doanh nghiệp cổ phần hóa trên vốn điều lệ
hoặc tổng số vốn thực góp tại các doanh nghiệp khác;


b) Giá trị vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp khác theo báo cáo tài
chính đã được kiểm toán. Trường hợp chưa kiểm toán thì căn cứ vào giá
trị vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính tại thời điểm gần nhất của doanh
nghiệp đó để xác định;
c) Trường hợp đầu tư vốn bằng ngoại tệ thì quy đổi thành đồng Việt
Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá;
d) Trường hợp giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp cổ phần
hóa tại doanh nghiệp khác được xác định thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế
toán thì xác định giá trị vốn đầu tư dài hạn theo giá trị ghi trên sổ kế toán
của doanh nghiệp cổ phần hóa.
2. Giá trị vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hóa vào công ty cổ phần
đã niêm yết trên thị trường chứng khoán được xác định theo giá cổ phiếu
giao dịch trên thị trường chứng khoán tại thời điểm thực hiện xác định giá
trị doanh nghiệp.
Điều 33. Giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa theo phương pháp dòng
tiền chiết khấu
1. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được xác định
theo phương pháp dòng tiền chiết khấu dựa trên khả năng sinh lời của

doanh nghiệp trong tương lai.
Trường hợp xác định giá trị doanh nghiệp của toàn tổng công ty theo
phương pháp này thì khả năng sinh lời của tổng công ty được xác định
trên cơ sở lợi nhuận của tổng công ty nhà nước theo quy định tại quy chế
quản lý tài chính của công ty nhà n Trường hợp doanh nghiệp đầu tư vốn
vào doanh nghiệp khác thì lợi nhuận do việc đầu tư vốn vào doanh nghiệp
khác mang lại cũng là căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp.


2. Giá trị thực tế của doanh nghiệp bao gồm giá trị thực tế phần vốn
nhà nước, nợ phải trả, số dư bằng tiền Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi và
số dư kinh phí sự nghiệp (nếu có).
Trường hợp doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao đất, thuê đất trả
tiền một lần thì phải tính bổ sung giá trị quyền sử dụng đất, tiền thuê đất
vào giá trị doanh nghiệp theo quy định tại Điều 30 Nghị định này.
Điều 34. Căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp
dòng tiền chiết khấu
1. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 05 năm liền kề, trước thời
điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
2. Phương án hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong
03 đến 05 năm sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
3. Lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 05 năm ở thời điểm gần nhất,
trước thời điểm tổ chức thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp và hệ số
chiết khấu dòng tiền của doanh nghiệp được định giá.

2.Thực tiễn áp dụng:
Định giá doanh nghiệp hiện đang là một trong những công việc cần thiết nhất trong
việc chuẩn bị để cổ phần hóa. Theo các nhà chuyên môn, phương pháp định giá phải
thực tế và phù hợp với mục đích định giá cũng như hoàn cảnh mà doanh nghiệp đang
tồn tại. Khi định giá doanh nghiệp đang là lĩnh vực mới mẻ thì việc nhận ra những bất

cập của những phương pháp đó là rất quan trọng cho các bên liên quan.đặc biệt trong
điều kiện kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển và mở rộng các loại hình doanh
nghiệp.


Như đã nêu ở trên, khi định giá để cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có hai
phương pháp được sử dụng đó là phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền
chiết khấu.
Đối với hai phương pháp trên thì khi áp dụng yếu tố cơ sở để thực hiện trước
tiên là phải có hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp, các văn bản liên quan đến công tác
chuyển đổi hình thức doanh nghiệp và các số liệu trên báo cáo tài chính và sổ sách
kế toán của doanh nghiệp. Trong hai phương pháp trên,thì hiện tại các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn hay sử dụng để xác định giá trị doanh nghiệp đó là phương
pháp giá trị tài sản.
Do thiếu thông tin về thị trường để xác định giá trị còn lại của nhà xưởng, máy
móc thiết bị, chưa có tiêu chuẩn cụ thể để định giá thương hiệu, uy tín, mẫu mã nên
chưa tính được hết giá trị tiềm năng của doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp theo
phương pháp này mất nhiều thời gian và chi phí. Để xác định giá trị thị trường của
tài sản hữu hình khác nhau của doanh nghiệp thì cần nhiều chuyên gia định giá cho
nhiều tài sản khác nhau do đó doanh nghiệp mất nhiều thời gian để tìm chuyên gia
và chi phí cho việc định giá tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp này cũng chưa
hướng dẫn cụ thể cho việc định giá các tài sản vô hình như danh tiếng, uy tín trên
thị trường, nhãn hiệu...
Do đó việc định giá tài sản vô hình sẽ phụ thuộc nhiều vào ý chủ quan của
người định giá dẫn đến việc giá trị của chúng có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với
giá trị hợp lý. Ví dụ như đánh đồng giá trị của thương hiệu cà phê Trung Nguyên
với một thương hiệu cà phê khác có thể đã nâng cao giá trị của hãng cà phê đó.
Việc định giá sở hữu trí tuệ nếu không tính đến đặc thù của ngành công nghiệp
dựa trên khoa học kỹ thuật cũng như các công ty tập trung đầu tư cho nghiên cứu
và phát triển có thể sẽ bị đánh giá quá thấp sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp. Theo

phương pháp này thì chỉ tính giá trị của doanh nghiệp tại thời điểm định giá, không
xét đến tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai. Vì vậy nếu dùng
phương pháp này để định giá doanh nghiệp có tiềm năng phát triển trong tương lai
thì giá trị của doanh nghiệp bị định giá quá thấp.
Theo thống kê ,sự phục hồi và tăng trưởng cao của sản xuất công nghiệp năm
2015, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo; sự tăng nhanh của sản xuất và xuất
khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhờ đầu tư lớn tăng lên,


khả năng cạnh tranh cao và không bị ảnh hưởng của việc giảm giá xuất khẩu nông
sản do ít đầu tư vào khu vực này. Ngoài ra, do tiêu dùng trong nước, sức mua và
tổng cầu được cải thiện nhờ lòng tin vào ổn định kinh tê vĩ mô, phục hồi tăng
trưởng kinh tế và lạm phát thấp; và do những tác động bước đầu của việc triển khai
thực hiện các luật mới được Quốc hội thông qua có liên quan đến cải thiện môi
trường kinh doanh, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sửa đổi; các hiệp định
FTA được ký kết và việc triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp cải thiện môi
trường kinh doanh theo Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ dẫn đến bộ phận
doanh nghiệp tư nhân,bộ phận doanh nghiệp Nhà nước,bộ phận doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng lên.
Theo Cục quản lý đăng ký kinh doanh – Bộ Kế hoạch và đầu tư, tháng 7 cả nước
có 6.598 doanh nghiệp được thành lập mới, 748 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải
thể, chấm dứt hoạt động, 3.172 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và 1.467
doanh nghiệp trước ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động. Tính chung 7 tháng
đầu năm 2015, cả nước có 52.004 doanh nghiệp thành lập mới, 5.456 doanh nghiệp
hoàn tất thủ tục giải thể - chấm dứt hoạt động kinh doanh, 32.373 doanh nghiệp
gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động và 9.974 doanh nghiệp ngừng hoạt
động quay trở lại hoạt động thì phương pháp này có thể áp dụng cho các doanh
nghiệp đang gặp vấn đề khó khăn.
Đối với doanh nghiệp thương mại , Bộ tài chính đưa ra công thức dựa trên giá
trị sổ sách của doanh nghiệp và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn thì điều này

hoàn toàn không phù hợp vì thế nếu tính theo gíá quy định của nhà nước thì khác
xa so với giá của thị trường. Chính vì vậy phương pháp chiết khấu dòng tiền được
đánh giá là ưu việt hơn nhưng lại chưa được áp dụng rộng rãi, một phần do tính
phức tạp của phương pháp, mặt khác do tâm lý doanh nghiệp không muốn giá trị
được đánh giá cao vì điều đó sẽ gây bất lợi trong việc chia cổ cổ phần ưu đãi trong
nội bộ doanh nghiệp, khó có thể xác định được tỷ lệ chiết khấu .
Liên quan đến định giá định giá quyền sử dụng đất, một trong những vấn đề khó
khăn và nhạy cảm khi định giá doanh nghiệp, rất khó tính được giá trị quyền sử
dụng đất vì rất nhiều doanh nghiệp đang thuê đất của nhà nước vì thế nếu tính theo
gía quy định của nhà nước thì khác xa với giá thị trường, còn nếu theo giá thị
trường thì ở Việt Nam chưa có thị trường chuẩn để tham khảo.Với 1 số công ty
lớn,vị trí địa lý đẹp ở trung tâm.. trong quá trình sử dụng phương án định giá giá trị


doanh nghiệp thì giá trị quyền sử dụng đất cao,giá trị thương hiệu lớn thì sẽ nâng
tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp lên.Lúc đó mọi người sẽ cho rằng giá trị
quyền sử dụng đất đã được định giá khá cao phải chăng công ty làm như vậy để
nâng cao giá bán cổ phần. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp không cho giá trị
quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp vì như vậy làm cho giá trị của doanh
nghiệp sẽ lớn khó cho quá trình cổ phần hóa. Đây cũng là điều còn nhiều tranh cãi
có nên đưa quyền sử dụng đất vào để xác định giá trị doanh nghiệp hay không ?.
Từ thực tế cho thấy quyền sử dụng đất của các doanh nghiệp nhà nước được định
giá thấp hơn giá thị trường khoảng 4-5 lần.Còn trong 1 só trường hợp khi xác định
giá trị của công ty thấp là do cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp chỉ xác định giá
trị công trình trên đất mà bỏ qua yếu tố vị thế của đất.
Đối với những doanh nghiệp Việt Nam vừa mới thành lập hay quy mô ,tổ chức
công ty chưa được rõ ràng thì việc xây dựng các chiến lược kinh doanh chưa rõ
hướng thì khi sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền sẽ gặp khó khăn trong
việc dự kiến các khoản lợi ích trong tương lai.
Cả hai phương pháp trên mang lại kết quả khác nhau và nếu chỉ sử dụng một

trong hai phương pháp trên để định giá doanh nghiệp là không phù hợp với những
doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề, những ngân hàng thương mại nhà nước …
sẽ cổ phần hóa trong thời gian tới của nước ta.

V: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao,hoàn thiện các
phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay.

1.Giải pháp
Trong quá trình xác định xác định giá trị doanh nghiệp,các doanh nghiệp cũng
như các tổ chức định giá khác không thể tránh khỏi các hạn chế .Các hạn chế này
có thể xuất phát từ phía chủ quan các nhà định giá,hay yếu tố khác quan về phía
DN và cơ quan quản lí.Do vậy để khắc phục các hạn chế đã nêu trên không chỉ là
sự nỗ lực của chính bản thân DN nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ của mình mà
còn là sự quan tâm ,trách nhiệm hoàn thiện của các cơ quan quản lí và các doanh
nghiệp được định giá.


Trong quá trình thực hiện,tổ chức định giá phải biết kết hợp lợi ích của các bên
có liên quan: chủ DN,chủ đầu tư,nhà nước.

Thứ nhất :các tổ chức định giá phải hoàn thiện hơn các phương pháp
xác định giá trị DN đã áp dụng.Cụ thể là:
a.Phương pháp tài sản thuần
Đổi với phương pháp này phần nào dễ thực hiện,dễ tính toán nhưng chỉ phù hợp
với các DN nhỏ và vừa,có ít các tài sản vô hình.Bởi phương pháp chỉ để cập đến
DN tồn tại trong trạng thái tĩnh,phần lớn bỏ qua các yếu tố giá trị phi vật chất,giá
trị các tài sản vô hình.Để hoàn thiện phương pháp này cần:
 Quy định rõ hơn việc xác định nguyên giá của tài sản là nhà cửa vật kiến
trúc

 Phải kết hợp với các phương pháp khác để xác định đúng giá trị DN
 Có chính sách hợp lí hơn khi xác định công nợ trong GTDN
Công nợ là một trong những vướng mắc lớn nhất khi xác định
GTDN.Nhiều khoản nợ phải thu đã thực sự thành công nợ khó đòi và do đó
không thể trở thành các tài sản cho các cổ đông của CTCP nhưng lại không
đủ hồ sơ để giải quyết công nợ theo quy định hiện hành.Vì vậy trên thực tế
quá trình định giá DNNN đang chờ nhà nước bổ sung các quy định chi xử lí
tích cực hơn hoặc khoanh nợ giao cho công ty cổ phần theo dõi giữ hộ nhà
nước trong một khoảng thời gian nhất định(tức là loại khỏi GTDN).Nếu làm
được như vậy thì tránh được thiệt thòi cho cổ đong vì đây là GTDN ảo.
 Quy định và hương dẫn việc xác định giá trị thương hiệu của DN và hướng
dẫn cách xác định giá trị vô hình của một số ngành đặc thù.Cùng với đó nhà
nước cần ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể về xác định Giá trị
thương hiệu hay là giá trị lợi thế kinh doanh,để qua đó không bỏ qua giá trị
này tránh làm thất thoát vốn nhà nước.
 Hoàn thiện hơn vấn đề giá trị quyền sử dụng đất khi xác định GTDN
Việc đưa giá trị quyền sử dụng đất vào GTDN là cần thiết và hợp lí.Theo
quy định hiện hành,DN có thể lựa chọn giữa 2 hình thức thuê đất hoặc giao
đất.Nhưng việc làm này lại tạo nên bất bình đẳng cho tất cả các DN cổ phần
hóa.Bởi cùng là đất,nếu đi thuê của Nhà nước,giá rẻ,không tính vào giá trị
quyền sử dụng đất vào GTDN.DN có thể được lợi rất lớn khi giá cổ phần
không quá cao bởi GTDN tính toán là thấp,dễ dàng trong bán cổ phần trong


khi diện tích đất thuê của nhà nước với thời gian dài và giá trí rất lớn,hứa
hẹn những tiềm năng mà DN khác không có được.Nếu thực hiện hình thức
giao đất ,giá trị quyền sử dụng đất phải được tính vào GTDN,GTDN có thể
bị đẩy lên rất cao ,khó bán cổ phần ,DN có nguy cơ chịu thiệt thòi nên không
DN nào lựa chọn hình thức này.
 Đối với phương pháp tài sản thì: Giá trị thực tế tài sản được xác định bằng

đồng Việt Nam theo nguyên tắc giá thị trường. Tài sản đã hạch toán bằng
ngoại tệ được quy đổi thành đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân
trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố tại
thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
 Đối với tài sản là sản phẩm xây dựng cơ bản thì dựa và đơn giá xây dựng cơ
bản, suất đầu tư do cơ quan có thẩm quyền quy định tại thời điểm gần nhất
với thời điểm định giá đối với tài sản là sản phẩm xây dựng cơ bản. Trường
hợp chưa có quy định thì tính theo giá sổ sách, có xét thêm yếu tố trượt giá
trong xây dựng cơ bản.
Như vậy, theo các quy định hiện hành thì khi xác định giá trị doanh
nghiệp theo phương pháp tài sản cần giải quyết cho được 02 vấn đề sau:

Thứ nhất: xem xét đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua và
người bán cổ phần đều chấp nhận được. Nói đến khả năng sinh lời là nói đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp mang lại. Điều này phụ thuộc vào nhiều
yếu tố từ quản lý, công nghệ và quy mô vốn. Để định lượng được yếu tố này hàng
năm Bộ Tài chính trên cơ sở tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của khối
DNNN thực hiện công bố lợi nhuận bình quân ngành; tỷ suất lợi nhuận trên vốn
nhà nước cho từng ngành. Đồng thời, bổ sung quy định trong xác định giá trị
doanh nghiệp, trường hợp doanh nghiệp có lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cá biệt
cao hơn mức bình quân ngành thì tăng thêm tỷ lệ % của giá trị tài sản; tương tự,
trường hợp doanh nghiệp có lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cá biệt thấp hơn mức
bình quân ngành thì giảm theo tỷ lệ % của giá trị tài sản. Phần trăm tăng, giảm này
chỉ giới hạn ở mức 30%.
Thứ hai: Đối với tài sản là sản phẩm xây dựng cơ bản mà nhà nước chưa có quy
định thì tính theo giá sổ sách, có xét thêm yếu tố trượt giá trong xây dựng cơ bản.
Đây là quy định không rõ ràng gây khó khăn trong thực hiện. Ở đây cần xét ở
nhiều khía cạnh: tính theo giá sổ sách; tính theo giá sổ sách nhân với trượt giá



×