Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và tính độc của rầy nâu đối với một số giống lúa địa phương vụ Đông Xuân 2007-2008 tại Hợp tác xã Hương Long, thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 55 trang )

Phần 1
MỞ ĐẦU, MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực chính của
nước ta và nhiều nước trên thế giới, nó có vai trò rất quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Khoảng 40 % dân số trên thế giới sống bằng lúa gạo, sử dụng
lúa gạo làm nguồn lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần
thức ăn hằng ngày. Lúa gạo có ảnh hưởng tới ít nhất 65% dân số thế giới, sản
xuất lúa gạo chủ yếu tập trung ở các nước châu Á với mức tiêu dùng hàng
năm khoảng 180-200 kg/người, còn châu Mỹ, châu Âu khoảng 100 kg/người [24].
Trong những năm gần đây, nước ta đã có những bước tiến vượt bậc về
sản xuất lúa gạo và đã mang lại nhiều lợi ích cho người sản xuất và cho
nghành lương thực phục vụ xuất khẩu nhờ vào việc sử dụng các giống lúa có
năng suất cao cùng với việc thâm canh tăng vụ. Nhưng chính điều này cũng là
một cơ hội cho sự bùng phát dịch hại, đặc biệt là dịch hại rầy nâu trong những
vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước trong năm 2006 [25].
Nước ta có diện tích trồng lúa khá lớn và vấn đề dịch hại luôn được quan
tâm đúng mức. Ở miền Trung trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế thì việc gieo
cấy các giống lúa địa phương vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt là ở các vùng
trồng lúa có điều kiện khó khăn như vùng trung du miền núi, vùng ven biển
đầm phá. Các giống lúa địa phương là một tài sản quý báu của nhân loại, bảo
tồn sự đa dạng cây trồng là một nhiệm vụ cấp thiết vì lợi ích mai sau. Bên
cạnh công tác bảo tồn nguồn gen quý hiếm, chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm
hiểu nhằm tác động các biện pháp kỹ thuật để các giống lúa địa phương luôn
đạt năng suất ổn định, chất lượng tốt cũng như nghiên cứu tình hình sâu bệnh
hại là rất quan trọng. Đã nhiều năm nay các loài dịch hại luôn là đối tượng
trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lúa, vì vậy việc nghiên cứu thành phần và
diễn biến một số sâu bệnh hại chính trên các giống lúa địa phương sẽ có ý
nghĩa thực tế rất lớn cho người dân trồng lúa.
Trong các loài dịch hại, thì rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) là một
trong những đối tượng sâu hại nghiêm trọng nhất cho lúa ở Việt Nam nói



1


riêng và thế giới nói chung, khi chúng ta sử dụng nhiều các giống lúa cho
năng suất cao và tăng cường thâm canh trong sản xuất lúa [14]. Rầy nâu nguy
hiểm ở chỗ là không những trực tiếp gây hại bằng cách chích hút dịch nhựa ở
thân cây làm cho cây lúa sinh trưởng và phát triển kém. Ngoài ra rầy nâu còn
là môi giới truyền bệnh virut vàng lùn, lùn xoắn lá cho cây lúa, làm giảm
năng suất và thoái hóa giống [31].
Những giống lúa địa phương luôn có những ưu điểm nhất định mà những
giống lúa khác như giống lai tạo, nhập nội và những giống đang trồng phổ
biến không thể có được như về đặc tính kháng sâu bệnh, về tính phù hợp với
từng điều kiện canh tác của từng địa phương, về phẩm chất gạo…, vì vậy việc
nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại, nghiên cứu khả năng kháng rầy nâu trên
các giống lúa đó là rất quan trọng nhằm phục vụ cho sản xuất và làm vật liệu
nghiên cứu tiếp theo để lai tạo ra giống lúa có khả năng kháng rầy
Tuy nhiên, hiện nay ở miền Trung nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói
riêng vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu giống địa phương như về đặc
điểm nông sinh học, về tình hình sâu bệnh hại, về đặc tính chống chịu sâu
bệnh nói chung và rầy nâu nói riêng khi mà hiện nay sâu bệnh và đặc biệt là
rầy nâu bùng phát dữ dội và gây ra nhiều trận dịch nghiêm trọng.
Xuất phát từ những vấn đề cấp bách nói trên nên chúng tôi đã tiến hành
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và tính độc của rầy
nâu (Nilarpavata lugens Stal) đối với một số giống lúa địa phƣơng vụ
Đông Xuân 2007-2008 tại Hợp tác xã Hƣơng Long, thành phố Huế.”
1.2 Mục đích của đề tài
- Xác định thành phần, mức độ phổ biến của sâu bệnh hại chính trên các
giống lúa địa phương thu thập từ các tỉnh miền Trung
- Đánh giá khả năng kháng rầy nâu của một số giống lúa địa phương thu

thập từ các tỉnh miền Trung
- Chọn ra giống lúa có khả năng kháng rầy nhằm phục vụ cho sản xuất
và làm vật liệu nghiên cứu tiếp theo.

2


1.3 Yêu cầu:
- Nắm vững diễn biến thời tiết khí hậu của tỉnh Thừa Thiên Huế trong vụ
Đông Xuân 2007-2008.
- Nắm rõ thành phần sâu bệnh hại và thiên địch trên cây lúa, xác định
được một số sâu bệnh, thiên địch chính.
- Nắm rõ đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của rầy nâu.
- Nắm được tính độc của rầy nâu đối với các giống lúa nghiên cứu.

3


Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam
-Trên thế giới
Hiện nay cây lúa được trồng ở 113 quốc gia trên thế giới, phân bố chủ yếu
ở những nước có vĩ tuyến từ 30-400 vĩ tuyến Nam đến 48-490 vĩ tuyến Bắc.
Theo số lượng thống kê năm 2001, diện tích trồng lúa của thê giới đạt khoảng
trên 151 triệu ha và sản lượng đạt 595,10 triệu tấn (Bảng 2.1). Năng suất lúa
giữa các châu lục chênh lệch nhau khá nhiều. Năng suất cao thường tập trung
ở các nước có diện tích ít như châu Âu, châu Úc. Ngoài ra năng suất còn phụ
thuộc vào điều kiện khác như thời tiết khí hậu, trình độ thâm canh, điều kiện
cơ sở vật chất kĩ thuật ...

Bảng 2.1: Năng suất và sản lƣợng lúa của các châu lục qua các năm.
Chỉ tiêu

1991
2001
STT
DT
NS
SL
DT
NS
SL
Châu
(triệu ha) (tạ/ ha) (triệu tấn) (triệu ha) (tạ/ ha) (triệu tấn)
1 Châu Á
130,97
36,60
474,39 136,60
39,60 542,30
2 Châu Mỹ
7,80
33,90
26,48
7,10
44,60
31,70
3 Châu Phi
6,93
20,20
14,01

7,70
21,20
16,30
4 Châu Âu
1,04
55,90
2,26
0,56
55,40
3,10
5 Châu Úc
1,42
81,70
1,16
0,19
89,50
1,70
Thế giới
148,16
45,66
518,30 152,15
50,06 595,10
(Theo: Nguồn thống kê của FAO, 2001 )[40]
Diện tích trồng lúa của thế giới rất lớn, khoảng 152.15 triệu ha, nhưng
phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở châu Á, chiếm khoảng 85% diện tích,
và 90% sản lượng lương thực thế giới, thấp nhất là châu Đại Dương với diện
tích chiếm khoảng 0,03%và 0,02% tổng sản lượng. Châu Á có diện tích trồng
lúa lớn là do châu Á có những điều kiện tự nhiên thuận lợi và là cái nôi của
trồng lúa nước


4


Mặc dù sản lượng lúa của thế giới không ngừng tăng lên trong những năm
vừa qua nhưng năng suất và chất lượng gạo còn thấp, chưa đảm bảo được an
ninh lương thực toàn cầu. Ở châu Phi có rất nhiều nước đang trong tình trạng
thiếu lương thực nghiêm trọng. Bên cạnh đó những năm qua diễn biến thời
tiết khí hậu có tính chất rất phức tạp như lũ lụt hạn hán .. làm ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, việc lựa chọn những giống lúa phù hợp với
từng vùng, từng địa phương là rất quan trọng. Ngoài ra, cần chú ý tới các
khâu như phân bón cân đối, phòng trừ sâu bệnh tốt, công nghệ sau thu
hoạch..để tăng năng suất chất lượng cho các nước sản xuất lúa trên thế giới và
đảm bảo an ninh lương thực cho toàn cầu.
- Ở Việt Nam:
Việt Nam được xem là cái nôi của nền văn minh lúa nước và lúa được
trồng hầu hết trên các vùng của đất nước. Ở nước ta, sản xuất lúa gạo giữ vai
trò quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp, chiếm gần 50% GDP của
nông nghiệp. Trong những năm qua, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng
giảm xuống nhưng do năng suất lúa tăng lên nên sản lượng thóc không ngừng
tăng lên. Hiện nay, năng suất lúa bình quân của Việt Nam vào khoảng 48,9 tạ
/ha xếp thứ hai sau Indonexia. Diện tích gieo trồng lúa Việt Nam là 7326,2
nghìn ha xếp thứ hai sau Trung Quốc [40].
Năm 2006 mặc dù dịch bệnh xảy ra trên diện rộng ở Đồng bằng Sông Cửu
Long nhưng diện tích lúa cả nước vẫn cao đạt khoảng 7032 triệu ha, năng suất
bình quân 48,9 tạ/ha, sản lượng đạt 35,83 triệu tấn, giảm 6,1 triệu tấn so với
năm 2005. Lượng gạo xuất khẩu đạt 4,7 triệu tấn, thu về khoảng 1.3 tỷ USD
cho đất nước. Năm 2007 với mục tiêu đề ra là tập trung thực hiện thâm canh
đồng bộ, mở rộng diện tích ở các tỉnh miền bắc và sử dụng giống lúa chất
lượng cao để tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất lúa,
tích cực phòng chống dịch bệnh trên cây lúa đặc biệt là rầy nâu, vàng lùn, lùn

xoắn lá và trong năm qua đất nước ta đã thực hiện được những mục tiêu đã đề
ra [33].
Tình hình sản xuất lúa gạo của đất nước ta trong những năm qua được thể
hiện qua Bảng 2.2 như sau:

5


Bảng 2.2: Tình hình sản xuất lúa gạo của Việt Nam
trong những năm qua
Chỉ tiêu

Diện tích
(nghìn ha)
6302,8
6765,6
7666,3
7339,5

Năng suất
Sản lượng
Năm
(tạ/ha)
(nghìn tấn)
1991
31,1
19621,9
1995
36,9
24963,7

2000
42,4
32529,5
2005
49,5
36341,0
(Nguồn: http//:Faostat.fao) [40].
Trong những năm tiếp theo, nước ta sẽ bước vào thời kì phát triển mới,
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nông nghiệp vẫn là một
ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt sản xuất lương
thực thực phẩm. Định hướng phát triển nền nông nghiệp Việt Nam từ năm
2000 đến 2010 là : “Nhanh chóng xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam theo
hướng sinh thái bền vững, nông nghiệp sạch và chất lượng cao, kết hợp nông
nghiệp-lâm nghiệp và công nghệ chế biến, thực hiện đa canh, đa dạng hóa sản
phẩm từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh nông sản hàng
hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, nâng cao
đời sống nông dân, xây dựng nông thôn mới”[19].
2.2 Tình hình nghiên cứu lúa địa phƣơng trên Thế giới và ở Việt Nam.
2.2.1 Tình hình nghiên cứu lúa địa phƣơng ở trên Thế giới
Để đáp ứng nhu cầu lương thực cho xã hội, trong những năm vừa qua có
nhiều quốc gia đã liên tục đưa ra nhiều giống mới có năng suất cao phẩm chất
tốt vào sản xuất thâm canh, điều này đã làm mất đi một lượng lớn các giống
địa phương, gây ra hiện tượng xói mòn gen, đặc biệt là nguồn gen quý hiếm.
Vì vậy hiện nay công tác nghiên cứu giống lúa trên thế giới luôn chú trọng
theo hai hướng đó là thu thập, bảo tồn nguồn vật liệu khởi đầu và chọn tạo,
khảo nghiệm các đặc tính sinh học của lúa.
Đi đầu trong phong trào này là nhà di truyền học chọn giống nổi tiếng của
nước nga là ông Vavilov NI và các cộng sự được bắt đầu từ năm 1924, công
trình của ông đã chứng minh được sự đa dạng của nguồn gen và tầm quan
trọng của nó trong công tác chọn giống. Công trình này được đánh giá là có


6


vai trò quan trọng trong sự nghiệp nghiên cứu và bảo tồn tài nguyên di truyền
thực vật của nhân loại [1]. Hiện nay trên thế giới có nhiều trung tâm, viện
nghiên cứu tiếp tục thực hiện công việc thu thập và bảo tồn và đánh giá các
giống lúa như: Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Viện nghiên cứu lúa
Quốc tế (IRRI) đã bắt đầu công trình thu thập bảo tồn và đánh giá các giống
cổ truyền và các giống lúa dại từ năm 1962, có khoảng 90.000 giống lúa trên
thế giới được tồn trữ và bảo quản ở đây [5]. Những nghiên cứu tạo giống lúa
trên thế giới đều tập trung chủ yếu theo hai hướng: Nghiên cứu cải thiện phẩm
chất gạo là những giống lúa thơm đặc sản có hàm lượng dinh dưỡng cao và
khả năng chống chịu tốt với các điều kiện bất thuận của tự nhiên cũng như sâu
bệnh hại và nghiên cứu để tăng năng suất lúa.
2.2.2 Những nghiên cứu về giống lúa địa phƣơng ở Việt Nam
Công tác thu thập bảo tồn giống lúa địa phương được xem là vật liệu khởi
đầu quý giá cho công tác chọn tạo giống. Ở nước ta, công tác thu thập bảo tồn
giống lúa được các nhà khoa học quan tâm từ rất sớm, nước ta đã bắt đầu chú
ý đến công tác bảo tồn giống địa phương từ năm 1910. Trung tâm Thí nghiệm
lúa Cần Thơ thành lập năm 1913 đã bảo tồn nhiều giống lúa cổ truyền. Và
công việc này vẫn được tiếp tục bởi Bộ Nông Nghiệp tại Trung tâm Thí
nghiệm lúa Long Định, Tiền Giang cho đến khi nhiệm vụ của Trung Tâm này
được chấm dứt sau năm 1975 [15].
Hiện nay công tác bảo quản nguồn gen vẫn được tiếp tục, nhưng việc tồn
trữ các giống lúa địa phương tại Việt Nam còn bị phân tán và rải rác tại các
viện như: Viện Khoa học kĩ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Viện Cây lương
thực và Thực phẩm, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, và Trường Đại học
Cần Thơ. Hiện có khoảng 6.000 giống lúa địa phương được lưu giữ tại ngân
hàng gen ở Hà Nội với khoảng 167 giống nếp và 108 giống lúa Tám Thơm. Ở

Trường Đại học Cần Thơ có hơn 5.000 giống lúa, trong đó có 1.552 giống lúa
địa phương và 498 giống lúa rẫy thu thập tại miền Bắc và Tây Nguyên [15].
Viện lúa Đồng bằng Sông Cửu Long tồn trữ khoảng 1.836 mẫu giống, trong
đó có 219 giống lúa mùa sớm, ít cảm quang và 1.617 giống lúa mùa muộn, có
tính cảm quang. Viện đã dùng 134 giống địa phương trong chương trình lai
tạo giống [6]. Trong thời gian từ năm 1960-1980, Viện Cây lương thực và
Thực phẩm đã thu thập được hơn 3500 mẫu giống địa phương. Nhờ công tác
bảo tồn giống mà hiện nay các giống lúa đặc sản vẫn còn được trồng rộng rãi
ở các địa phương với chất lượng gạo rất đặc biệt như: Lúa nếp cái, nếp hoa

7


vàng, nếp hạt to, nếp tầm xuân, nếp kỳ lân, nếp suất, nếp hạt cau, nếp hương
bầu, nếp ông lão, nếp trân, lúa tám thơm, lúa nàng thơm chợ đào, lúa móng
chim, nàng thơm, nếp than, nanh chồn (Bà Rịa), tàu hương, thơm sớm, thơm
lùn, lúa huyết rồng (Long An). Ở miền Trung và Tây Nguyên có các giống
lúa thơm nổi tiếng như lúa ngự, cúc thơm, thái thơm, nếp than, nếp trắng,
bake dẻo, nếp cải hoa vàng [6].
Theo Bùi Huy Đáp (1999), việc mở rộng diện tích lúa được tưới, sử dụng
những giống lúa mới thấp cây cùng với việc lạm dụng phân bón hóa học và
thuốc hóa học trừ sâu bệnh, cỏ dại .. đã không những làm cho đầu vào tăng
lên so với hệ thống trồng lúa cổ truyền mà còn làm cho đa dạng sinh học, đa
dạng di truyền ở đồng ruộng bị phá vỡ và có tác động không tốt đến môi
trường và xã hội [4]. Còn theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Quỳnh, Lưu Ngọc
Trình, Nguyễn Huy Hoàng, Trần Thu Hoài, Đặng Văn Niên (2004) thì tài
nguyên di truyền cây lúa ở ba vùng sinh thái phía bắc Việt Nam rất phong
phú, được phân bố trên tất cả địa hình đất trồng, các loại đất canh tác và đất
ruộng lúa. Nguồn gen lúa địa phương ở vùng Tây Bắc chủ yếu phân bố trên
địa hình ruộng bậc thang (50%), và đồi núi (45,4%). Ở Đông Bắc cây lúa địa

phương tập trung trên đất đồi núi (48,8%), và ruộng bậc thang (29,6%). Ở
Đồng bằng Sông Cửu Long cây lúa chủ yếu gieo cấy trên địa hình ruộng
trũng (44,4 %) [27]. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Viết Tuân và Trần
Văn Minh (2002), canh tác vùng gò đồi hiện nay chủ yếu sử dụng tập trung
một số giống mới, giống địa phương hầu như không còn được người dân sử
dụng dẫn đến sự rủi ro trong sản xuất [35].
Từ một số nghiên cứu trên chúng ta thấy rằng việc nghiên cứu về các
giống lúa địa phương được rất nhiều nhà khoa học quan tâm vì nó có tầm
quan trọng rất lớn đối với nghề trồng lúa và cả trong chọn tạo giống lúa. Nó là
nguồn vật liệu khởi đầu quý giá cho việc lai tạo ra các giống lúa vừa có năng
suất cao, phẩm chất tốt, vừa có khả năng chống chịu sâu bệnh hại tốt và
những điều kiện bất lợi khác của môi trường sống, bên cạnh đó còn góp phần
giữ được đa dạng di truyền ở trên đồng ruộng lúa.
2.2.3 Đặc điểm sản xuất lúa và lúa địa phƣơng ở Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc dãi đất miền trung với số dân hơn 1,1
triệu người, hơn 75% dân số sống bằng nghề nông, diện tích đất tự nhiên

8


khoảng 505.453,4 ha, vùng đồi núi chiếm 70% diện tích, vùng đồng bằng
chiếm 10%, còn lại là vùng cát và đầm phá ven biển.
Trong sản xuất nông nghiệp thì cây lúa có vị trí quan trọng trong đời sống
của người dân. Việc trồng lúa đã cung cấp lương thực cho người dân và cũng
đóng góp một phần không nhỏ trong sản xuất lúa gạo của Việt Nam. Tuy
nhiên diện tích, sản lượng và năng suất lúa ở Thừa Thiên Huế đều thấp hơn so
với trung bình của cả nước. Các vùng trồng lúa của Thừa Thiên Huế thường
bị chia cắt, phân tán, manh mún, không tập trung lớn để chuyên canh, đất đai
có độ phì thấp. Ngoài ra Thừa Thiên Huế có điều kiện tự nhiên khá khắc
nghiệt, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trong đó có sản xuất lúa

nhưng nhìn chung tình hình sản xuất lúa trong 10 năm trở lại đây cũng có
nhiều tiến bộ đáng kể, tình hình sản xuất lúa trong 10 năm qua được thể hiện
ở Bảng 2.3:
Bảng 2.3 Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa
của Thừa Thiên Huế qua các năm
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
( 1000 ha )
( tạ/ ha )
( 1000 tấn )
1996
49,49
37,7
186,91
1997
50,08
39,2
196,58
1998
49,85
37,7
187,76
1999
51,04
42,3
215,97
2000
51,34
38,3

196,60
2001
51,64
39,7
204,84
2002
51,82
40,7
210,82
2003
51,68
45,6
235,75
2004
51,31
48,6
246,49
2005
50,45
46,6
235,02
2006
50,24
49,9
250,56
( Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2006) [28].
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy rằng trong 10 năm qua năng suất và sản
lượng lúa của tỉnh TT Huế tăng lên theo từng năm, năng suất tăng từ 37,7 tạ/
ha, sản lượng từ 186,91 năm 1996 tăng lên 49,9 tạ / ha và sản lượng đạt
205,56 nghìn tấn vào năm 2006. Còn về diện tích thì năm 2006 bị thu hẹp so

với những năm trước đó là do nhiều nguyên nhân như do một phần diện tích
trồng lúa được chuyển sang đất nuôi trồng thủy sản và phát triển đô thị.
Năm

9


-Thực trạng sản xuất lúa địa phương của một số huyện của tỉnh Thừa
Thiên Huế
Hiện nay các giống lúa nếp và lúa tẻ địa phương được bố trí gieo cấy hầu
hết trên các chân đất có điều kiện canh tác khó khăn như vùng sâu trũng, đất
không chủ động được tưới tiêu, đất bị nhiễm mặn...điều kiện đầu tư thâm
canh chăm sóc còn nhiều hạn chế nên năng suất thấp. Bộ giống lúa địa
phương được sử dụng giảm dần theo thời gian, các giống hiện đang còn gieo
cấy là nếp rằn, hẻo núp, hẻo rằn, hẻo chùm, chùm dâu, nước mặn...Diện tích
gieo cấy các giống lúa địa phương năm 2006 của tỉnh Thừa Thiên Huế thể
hiện qua Bảng 2.4
Bảng 2.4 Diện tích gieo cấy các giống lúa địa phƣơng năm 2006 của
tỉnh Thừa Thiên Huế
Diện tích ( ha )
STT
Huyện
Lúa nước
Lúa Rẫy
Lúa nếp
Lúa tẻ
1
Hương Trà
500
2

Quảng Điền
75
80
3
Phú Vang
300
40
4
Phú Lộc
50
30
5
A Lưới
550
6
Nam Đông
50
Tổng cộng
925
150
600
( Nguồn: Phòng kĩ thuật sở Nông Nghiệp tỉnh TT Huế) [26].
2.3 Đặc điểm chung của các giống lúa địa phƣơng
Đặc điểm chung của các giống lúa địa phương là có thời gian sinh trưởng
tương đối dài, hầu hết trên 140 ngày, ít chịu phân, cao cây, khả năng chống đỗ
kém, năng suất thường thấp, trung bình khoảng 30 tạ/ha.
Về chất lượng, ngoài các giống lúa nếp và giống địa phương đặc sản các
giống địa phương khác có dạng tròn cơm, chỉ ngon cơm khi lúa mới gặt
nhưng sau một thời gian thì cứng cơm, tơi nên không được đánh giá cao. Bên
cạnh đó có một số đặc điểm của lúa địa phương được đánh giá là ưu điểm như


10


chống chịu cao với điều kiện tự nhiên như chịu phèn, chịu măn, chịu ngập
úng, ít sâu bệnh, chi phí đầu tư thấp.
Về phương thức canh tác lúa địa phương không được phù hợp trong điều
kiện hiện nay, hầu hết diện tích đều phải áp dụng phương pháp gieo mạ để
cấy trừ các giống lúa rẫy, chăm sóc khó khăn do cao cây, không thu hoạch
được bằng máy,dụng cụ thu hoạch chủ yếu là dụng cụ thô. Đối với các giống
lúa cạn thì theo nghiên cứu của Chu Hoàng Mậu, Nguyễn Thị Vân Anh
(2005), lúa cạn có các đặc tính quý như khả năng chịu hạn tốt, cứng cây,
không lốp đổ, kháng sâu bệnh cao, có thể gieo trồng ở những nơi thiếu nước.
Chất lượng gạo ngon, hàm lượng protein cao, cơm dẻo, thơm phù hợp với
người tiêu dùng [23].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Minh Công, Nguyễn Thị Mong (2005), các
giống lúa tẻ đặc sản Nam Bộ thường cho cơm dẻo đậm và ngon. Nhiều giống lúa
còn cho cơm thơm hoặc rất thơm. Tuy nhiên các giống lúa này thuộc loại hình
cao cây mềm yếu dễ bị đỗ gãy khi có gió bão hoặc bón phân đạm nhiều [2].
Các giống lúa địa phương thường chịu ảnh hưởng của chọn lọc tự nhiên
nên có nhiều ưu thế trong việc chống chịu các điều kiện khó khăn cũng như
dịch hại xuất hiện ở các vùng sinh thái mà chúng phát triển. Quá trình chọn
lọc tự nhiên giúp cây lúa tự biến đổi cấu trúc di truyền của mình để có lợi cho
sự tồn tại và phát triển của giống nòi, chính vì vậy các giống lúa địa phương
được xem như là những thư viện sống cung cấp nguồn gen quý cho công tác
cải tiến giống lúa. Tuy nhiên yếu tố chọn lọc của tự nhiên thường không phải
là thời gian sinh trưởng, năng suất hay chất lượng gạo mà con người mong
muốn nên mặc dù mang nhiều gen quý, các giống lúa địa phương luôn là đối
tượng cần được cải thiện và khai thác để cho ra những giống lúa cải tiến hoàn
hảo hơn [10].

2.4 Tình hình nghiên cứu sâu bệnh hại lúa và thiên địch trên cây lúa
trong những năm vừa qua.
Theo tính toán của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Thế giới (FAO) thì
hàng năm sâu bệnh làm mất từ 15-30% tổng sản lượng nông nghiệp trên thế
giới. Ở nhiều nước tỉ lệ này cao hơn, có trường hợp lên đến trên 50%. Riêng
đối với lúa và ngũ cốc, hàng năm trên thế giới thiệt hại do sâu bệnh gây hại đạt

11


đến 100 triệu tấn, số lương thực này đủ để nuôi 450 triệu người ăn trong một
năm, sâu hại là một trong những nguyên nhân gây nên thiệt hại trên [11].
-Về sâu hại:
Theo PGS. Nguyễn Công Thuật ở phía Bắc qua điều tra cơ bản (19671968), đã phát hiện có 88 loài sâu hại lúa, còn ở miền Nam (1977-1979) đã
phát hiện được 78 loài, trong đó có 6 loài gây hại chủ yếu như: rầy nâu, sâu
cuốn lá nhỏ, sâu đục thân bướm 2 chấm, bọ xít dài, sâu năn, sâu phao và 15
loài gây hại thứ yếu [22]. Theo kĩ sư Nguyễn Văn Hạ, Trung tâm Bảo vệ thực
vật miền Trung qua điều tra sâu bệnh hại lúa ở miền Trung từ năm 1984-1988
đã xác định được 6 loài sâu hại chính đó là: sâu đục thân bướm 2 chấm, sâu
cuốn lá nhỏ, sâu phao, rầy nâu, rầy lưng trắng, bọ xít dài, sâu năn [7]. Theo
Ths. Lê Văn Hai qua nghiên cứu điều tra sâu hại lúa vùng đầm phá tại Thừa
Thiên Huế đã xác định được 6 loài sâu hại chính đó là: sâu cuốn lá nhỏ, sâu
cuốn lá lớn, sâu năn, bọ xít dài, châu chấu lúa, b ọ xít xanh, trong đó sâu cuốn
lá nhỏ, bọ xít lúa và sâu năn là phổ biến nhất [34].
Về rầy nâu thì PGS. Nguyễn Công Thuật và Nguyễn Văn Hành đã xác
định rầy nâu là sâu hại quan trọng hàng đầu ở khắp các tỉnh trồng lúa trên cả
nước, đặc biệt là vùng lúa thâm canh cao. Rầy nâu gây hại nặng cả vụ chiêm
xuân vụ mùa và vụ hè thu, từ đồng bằng ven biển trung du cho đến các vùng
núi. Rầy chích hút ở bẹ lá lúa làm lúa bị vàng úa hoặc khô trắng gọi là cháy
rầy. Ngoài ra rầy còn là môi giới truyền các bệnh như vàng lùn, lùn xoắn lá

gây nguy hiểm cho lúa. Tùy theo mức độ bị hại mà năng suất có thể giảm từ
20-30% cho đến thất thu hoàn toàn [18]. Trong những năm gân đây, rầy nâu
phát sinh và phá hại với những mức độ khác nhau, lúc thì rải rác, lúc thì xảy
ra thành từng đợt dịch lớn, gần đây nhất là những năm 1990-1991, năm 20042005 ở ĐB Sông Cửu Long hay năm 1993-1994 ở ĐB Sông Hồng và khu IV
cũ cũng gây thiệt hại đáng kể đến năng suất lúa [29].
-Về bệnh hại:
Bệnh hại thực vật ngày càng được quan tâm nhiều bởi vì tác hại nghiêm
của bệnh gây ra. Bệnh không chỉ làm giảm năng suất, sản lượng, giá trị dinh
dưỡng sản phẩm nông nghiệp mà còn gây hại đến môi trường và nhiễm độc

12


thực phẩm. Theo kết quả điều tra năm 1993-1994 của Phạm quý Hiệp và ctv
đã phát hiện có tới 28 loài bệnh hại lúa ở một số tỉnh miền Bắc [13].
Theo kết quả điều tra sâu bệnh hại lúa ở miền Trung từ năm 1984-1988
của kĩ sư Nguyễn Văn Hạ thì bệnh khô vằn đã trở thành nghiêm trọng và phổ
biến ở tất cả các vụ [8].
Ở Thừa Thiên Huế, vụ xuân 1994-1995 có 17 nghìn ha bị nhiễm đạo ôn
chiếm 56,38% diện tích. Hiện nay các giống lúa trong vụ xuân như IR1749
IR38, nếp, CR203 bị nhiễm đạo ôn khá nặng [34]. Theo Ths. Nguyễn Thị
Nguyệt và ctv ở TT Huế giống CR203, IR17494 bị nhiễm nặng nhất với tỷ lệ
bệnh 1,02% và chỉ số bệnh 0,11% dối với CR203 và 5,47%,0,77% đối với
IR17494 [34].
Về thiên địch:
Thành phần thiên địch trên ruộng lúa đã phát hiện khoảng 415 loài thuộc
14 bộ, 58 họ, 241 giống của các lớp côn trùng, nhện, nấm và tuyến trùng. Bộ
cánh màng có số lượng loài lớn nhất: 165 loài (chiếm 39,7% tổng số loài thiên
địch); thứ hai là bộ cánh cứng: 95 loài (22,8%); thứ 3 là bộ cánh nửa: 70 loài
(16,8); đứng thứ 4 về số lượng loài là bộ nhện lớn: 49 loài (11,8%). Còn các bộ

khác, mỗi bộ mới ghi nhận được 1 hoặc vài loài là thiên địch trên ruộng lúa.
Theo nghiên cứu của Barion et all (1984) cho biết thành phần nhện bắt
mồi ăn thịt trên đồng ruộng lúa khá phong phú và ông đã thống kê được 217
loài nhện lớn bắt mồi ăn thịt trên đồng lúa của 12 nước thuộc vùng Đông và
Đông Nam châu Á, trong khi đó ở Nhật Bản có 90 loài, Đài Loan 75 loài,
Thái Lan 62 loài, Philippin 51 loài. Riêng ở Trung Quốc đến năm 1991 đã ghi
nhận có 295 loài nhện lớn bắt mồi ăn thịt trên đồng ruộng lúa. [35]
Ở Việt Nam theo kết quả nghiên cứu theo dõi số lượng của những nhóm
nhện lớn bắt mồi ăn thịt chính trên những giống nhiễm rầy nâu (nếp TK 90)
và giống kháng rầy nâu CR203 cho thấy: Ở những ruộng cấy giống lúa nhiễm
rầy nâu có số lượng nhện ăn thịt cao hơn rõ ràng so với ruộng lúa cấy giống
kháng rầy. Sự khác biệt này có ý nghĩa là nơi có nhiều rầy nâu thì sẽ có nhiều
nhện lớn ăn thịt, chúng là những thiên địch quan trọng của rầy nâu [35].

13


2.5 Những nghiên cứu về rầy nâu và giống chống chịu rầy nâu.
Trên cây lúa có rất nhiều loại sâu bệnh hại nhưng rầy nâu là loại nguy
hiểm nhất đối với các vùng trồng lúa của nước ta, đặc biệt là các tỉnh phía
Nam. Rầy nâu hại lúa (N. lugens Stal) là loài côn trùng thuộc họ muội bay
(Delphacida), bộ cánh đều (Homoptera). Rầy nâu phân bố rộng ở nhiều nước
trồng lúa trên thế giới, ngoài cây lúa nó còn có thể sống trên nhiều loại kí chủ
như cỏ lồng vực, cỏ môi, cỏ công viên, cỏ mần trầu, cỏ tranh, cỏ sâu róm, cỏ
đuôi chó, cỏ họa mi, cỏ gấu, cỏ bông, cỏ chân nhện [17]. Rầy non và rầy
trưởng thành cánh dài hoặc cánh ngắn đều chích hút nhựa cây lúa làm cho cây
lúa kém phát triển, bông lép, lá bị vàng úa, cây ngừng tăng trưởng rồi khô
héo đi trong vòng 4-5 ngày mà ta thường thấy và gọi là cháy rầy, đồng thời nó
tạo vết thương cơ giới cho nấm bệnh xâm nhập làm cho cây lúa bị thối nhũn,
đổ rạp và hình thành hiện tượng bông lúa bị lép một nữa hoặc toàn bộ, do đó

sản lượng lúa bị giảm rõ rệt. Ngoài ra nó còn là môi giới truyền các bệnh như
vàng lùn, lùn xoắn lá gây nguy hiểm cho lúa [31].
Rầy nâu là loại côn trùng biến thái không hoàn toàn, có vòng đời rất ngắn
khoảng 20-21 ngày và nếu tính cả thời gian sống của rầy trưởng thành mỗi
đợt rầy nâu kéo dài 21-32 ngày. Rầy cái trưởng thành sống lâu hơn, trung
bình 16-19 ngày, dài nhất đến 29 ngày, đẻ trung bình 200 trứng, tối đa 612
đến 1000 trứng, vì vậy khả năng tích lũy nhiều và nhanh dễ gây thành dịch
lớn khi có điều kiện thích hợp. Quy luật phát sinh và mức độ gây hại liên
quan nhiều yếu tố sinh cảnh như nhiệt độ không khí cao, ẩm độ cao, lượng
mưa nhiều sau đó trời hửng nắng thì rầy nâu dễ phát sinh thành dịch. Nhiệt độ
từ 20-300C, độ ẩm 80-85% là điều kiện thích hợp cho rầy phát triển [30].
Ngưỡng kinh tế để trừ rầy nâu vào ngay sau đỉnh cao quần thể là lúc rầy
tuổi 2, tuổi 3 mật độ rầy tăng hơn 3 con trên một dảnh hoặc trên 3.000
con/m2. Hiện nay có rất nhiều biện pháp khác nhau để phòng trừ rầy nâu như
thời vụ gieo cấy phải tập trung và thích hợp, kết hợp với việc vệ sinh đồng
ruộng hạn chế sự chuyển vụ của rầy cho vụ sau. Có thể tiêu diệt rầy nâu bằng
các biện pháp vật lí như dùng bẫy đèn, trồng cây bẫy là những giống lúa
nhiễm rầy chín sớm, có thể dùng dầu hỏa, mazut, diezen rải đều trên mặt
ruộng. Mật độ gieo trồng lúa, sử dụng phân bón cân đối, hợp lí, điều kiện chế

14


độ nước trên ruộng nước hợp lí luân canh cây lúa. Biện pháp mà hiện nay vẫn
đang là biện pháp phổ biến, rất quan trọng trong hệ thống biện pháp phòng
chống rầy nâu theo hướng IPM và là phương tiện duy nhất để dập dịch khi rầy
nâu bùng phát về số lượng đó là biện pháp hóa học. Thuốc hóa học tiêu diệt
rầy nâu nhanh, cho hiệu quả kinh tế cao nếu sử dụng đúng kĩ thuật [21].
Trong phòng chống rầy nâu theo hướng IPM, thuốc hóa học là thứ vũ khí cuối
cùng khi các biện pháp khác đã sử dụng mà không hạn chế được tác hại của

rầy nâu. Hiện nay các thuốc dùng để phòng trừ rầy nâu có nhiều chủng loại
như các thuốc penalty, oshin, dantotsu, bassa, thuốc thảo mộc azaba và
actaza, vv... Tuy nhiên để đáp ứng các yêu cầu bảo vệ sức khỏe cộng đồng và
chống ô nhiễm môi trường, khi sử dụng thuốc hóa học phòng chống rầy nâu
phải thực hiện theo 4 đúng đó là đúng lúc, đúng chỗ, đúng thuốc, đúng liều
lượng và nồng độ sử dụng và đúng cách [21].
Hiện nay biện pháp sử dụng giống luá kháng rầy nâu là một trong các giải
pháp quan trọng và chủ yếu để góp phần phòng dịch rầy nâu và bệnh lúa lùn
xoắn lá. Gieo cấy các giống lúa kháng rầy là phương pháp có tiềm năng rất
lớn, ít tốn kém và tránh được vấn đề ô nhiễm môi trường. Tùy theo mức độ
chống chịu của giống, có thể coi đây là phương pháp phòng chống chính hoặc
kết hợp trong hệ thống các biện pháp khống chế sự phát triển của rầy. Khi
gieo cấy các giống kháng rầy phải sử lý ít thuốc trừ sâu hơn (chủ yếu để
chống những loài sâu hại lúa khác) nên có triển vọng phát triển hệ thiên địch
hại sâu hại lúa [12].
Trong tự nhiên, nhiều giống địa phương có nhiều nguồn di truyền kháng
rầy nâu với nhiều mức độ khác nhau.Trong thời gian qua nhiều cơ quan
nghiên cứu đã thành công trong việc đưa tính kháng rầy vào một số giống lúa
có năng suất cao và có phẩm chất tốt. Mỗi giống lúa bị rầy nâu phá hại với
mức độ khác nhau tùy theo khả năng thích nghi với rầy của giống đó. Khả
năng này phụ thuộc vào phản ứng của rầy với các đặc điểm sinh lí và hóa sinh
của giống và diễn ra theo các giai đoạn sau: 1) phản ứng định hướng nhờ đó
rầy đến được cây chủ; 2) phản ứng thức ăn quyết định sự lấy thức ăn; 3) việc
sử dụng những thức ăn đã ăn vào quyết định dinh dưỡng của rầy; 4) sinh
trưởng của rầy non cho đến giai đoạn trưởng thành phụ thuộc vào sự lấy thức

15


ăn cũng như vào dinh dưỡng; 5) sự sống sót của rầy trưởng thành và sản

lượng trứng cũng phụ thuộc vào sự lấy thức ăn và dinh dưỡng; 6) quá trình đẻ
trứng quyết định số trứng đẻ ra; 7) sự nở của những trứng đã đẻ ra. Bảy phản
ứng trên quyết định số lượng rầy nâu tồn tại trong một thời gian nhất định.
Bất cứ phản ứng nào bị rối loạn cũng làm cho cây không thích hợp với rầy do
đó chống được rầy ở một mức độ nào đó. Những giống kháng rầy cũng như
những giống mẫn cảm với rầy đều tỏ ra thích hợp về một số phản ứng khác.
Vì vậy tương tác giữa tất cả những phản ứng đó sẽ quyết định mức độ kháng
rầy của giống thí nghiệm [12].
2.6 Cơ sở lí luận và thực tiễn
2.6.1 Cơ sở lí luận:
Cây lúa cũng như nhiều cây trồng khác có rất nhiều đối tượng sâu bệnh
gây hại làm thiệt hại đến năng suất và sản lượng lúa. Những kết quả điều tra
thành phần sâu bệnh hại lúa và thiên địch của chúng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, là cơ sở lí luận cho việc phòng chống sâu bệnh có hiệu quả Kinh
nghiệm của thực tế hoạt động sản xuất và bảo vệ cây trồng cho thấy năng
suất là kết quả hoạt động của toàn bộ hệ sinh thái nông nghiệp trong suốt quá
trình tồn tại và vận động của nó, tách ra từng khâu giải quyết từng vấn đề phát
sinh tác động lên từng mặt thì không thể thu được những kết quả ổn định [3].
Quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật đã tạo ra nhiều giống cây khác
nhau có năng suất, phẩm chất khác nhau đặc biệt có nhiều giống có khả năng
kháng sâu bệnh. Tuy nhiên song song với sự phát triển của khoa học thì sâu
bệnh hại cũng cũng phát triển dưới một hình thức cao hơn phong phú hơn vì
vậy có nhiều giống mới lai tạo đưa ra sản xuất đại trà chỉ sau vài vụ đã bị
nhiễm sâu bệnh hại và bị thoái hóa nghiêm trọng. Nguyên nhân của sự thoái
hóa giống có thể là do điều kiện tự nhiên, điều kiện canh tác,và do yếu tố di
truyền của giống. Những giống có năng suất cao phẩm chất tốt thì càng dễ
thoái hóa vì đây là những giống dễ bị nhiễm sâu bệnh.
Quá trình hình thành biotyp của rầy nâu trong những năm gần đây chính là
sự thiếu hiểu biết về kĩ thuật canh tác, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng
không phù hợp nhất là những giống kháng rầy được đưa ra sản xuất đại trà và

trên toàn bộ diện tích nên làm cho rầy nâu không còn thức ăn. Vì vậy để tồn tại

16


và phát triển chúng tiến hóa dưới một hình thức cao hơn, những con tiến hóa lại
thích nghi dưới một hình thức mới và sinh trưởng phát triển. Đây là một loại
hình byotip mà hiện nay chúng ta gặp trên nhiều loại dịch hại hiện nay.
2.6.2 Cơ sở thực tiễn
Nước ta là một nước nông nghiệp nhiệt đới ẩm, lượng mưa trung bình
hàng năm cao do đó cây trồng quanh năm luôn tươi tốt vì vậy sâu bệnh phát
sinh và gây nhiều thiệt hại cho nghành sản xuất Nông nghiệp. Cây lúa được
trồng quanh năm, thường xuyên có mặt trên đồng ruộng, mặc khác với thực
trạng sản xuất mang mún như ở nước ta đã vô tình tạo điều kiện cho sâu bệnh
phát sinh, phát triển ngày càng nhiều, có nơi trong cùng một vụ có nhiều trà
lúa khác nhau nên đã tạo điều kiện cho sâu bệnh thường xuyên có nơi trú ngụ
trong đó có rầy nâu
Trong quá trình sản xuất có nhiều giống lúa đã bị thoái hóa như Khang
Dân, 13/2..., những giống này trước đây có khả năng kháng bệnh đạo ôn
nhưng hiện nay đã bị nhiễm đạo ôn và cần giống để thay thế. Những năm gần
đây, ở Thừa Thiên Huế, sâu cuốn lá nhỏ, sâu năn, bọ xít dài, rầy nâu, bệnh
đạo ôn, đốm nâu, khô vằn...là những đối tượng gây hại chính trên lúa, luôn đe
dọa đến năng suất và phẩm chất lúa. Chính vì vậy việc lựa chọn nhưng giống
lúa phù hợp với từng điều kiện canh tác của từng địa phương là một công việc
vô cùng quan trọng, trong đó những giống lúa địa phương sẽ là một giải pháp
không kém quan trọng cho việc lựa chọn trên. Và việc nghiên cứu nắm vững
tình hình sâu bệnh, mối quan hệ giữa quá trình phát sinh, phát triển của sâu
bệnh đối với từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây lúa, giữa sâu bệnh
với thiên địch của chúng. Việc nắm vững được các thành phần sâu hại, thiên
địch và biến động về số lượng của các đối tượng quan trọng chính là cơ sở để

có được quyết định đúng đắn trong phòng trừ sâu bệnh hại một cách có hiệu quả.

17


Phần 3
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của Bộ môn Bảo vệ thực vật, Khoa
Nông học, Trường Đại học Nông lâm Huế.
- Nghiên cứu ngoài đồng ruộng tại Hợp tác xã Hương Long, Thành phố
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2. Thời gian nghiên cứu
Trong vụ Đông Xuân 2007-2008, từ ngày 30/12/2007 đến ngày
20/5/2008.
3.3. Đối tƣợng, vật liệu nghiên cứu
Rầy nâu: Quần thể rầy nâu được thu thập trên ruộng lúa ở Thừa Thiên Huế
Giống lúa nghiên cứu: là các giống lúa địa phương thu thập được từ các
tỉnh miền Trung được trồng tại Thừa Thiên Huế. (Bảng 3.1)
Bảng 3.1: Các giống lúa địa phƣơng nghiên cứu.
Tên giống

STT

Nơi thu thập

1

Kim cương


Nghệ An

2

Bắc ưu

Quãng Bình

3

Do Linh 1

Quảng Trị

4

Baceeng

Quảng Trị

5

Kapachs

A Lưới

6

Tây Giang 1


Quảng Nam

7

Côn Tây Giang 2

Quảng Nam

8

Lúa rẫy

Bình Định

9

Nàng Hương

Bình Định

10

Lúa Đá

Phú yên

11

Lúa Leng


Kom Tum

18


2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Trong phòng thí nghiệm và nhà lƣới
- Đánh giá khả năng kháng rầy của các giống lúa địa phương theo các
phương pháp của IRRI.
- Nghiên cứu thời gian phát dục của rầy nâu trên một số giống lúa khác
nhau
2.3.2. Ngoài đồng ruộng
- Điều tra thành phần, mức độ phổ biến của một số sâu bệnh, thiên địch
các giống lúa địa phương nghiên cứu.
- Điều tra diễn biến, mức độ gây hại của một sâu bệnh hại chính.
- Điều tra diễn biến, mức độ gây hại của rầy nâu đối với các giống lúa
nghiên cứu trên đồng ruộng
- Điều tra tỷ lệ rầy nâu và rầy lưng trắng trên các giống lúa nghiên cứu.
- Điều tra diễn biến mật độ các loại thiên địch bắt mồi ăn thịt của rầy nâu.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và nhà lƣới
Rầy nâu được thu thập ngoài đồng ruộng và được nhân nuôi trên giống
lúa HT1 trong phòng thí nghiệm để hình thành và duy trì quần thể rầy nâu đủ
lớn để phục vụ nghiên cứu.
Đánh giá phản ứng của 10 giống lúa địa phƣơng đối với quần
thểrầy nâu thu thập đƣợc ở Thừa Thiên Huế theo phƣơng pháp của
IRRI
Để đánh giá phản ứng của các giống lúa nghiên cứu với quần thể rầy nâu
Thừa Thiên Huế, chúng tôi sử dụng hai phương pháp của IRRI như sau:
+ Phương pháp trong ống nghiệm của IRRI: Gieo các giống lúa trên

khay, khi cây mạ được 2 lá (khoảng 7 ngày tuổi) nhổ mạ ra khỏi khay, dùng
giấy thấm quấn dưới gốc. Sau đó cho một cây mạ vào 1 ống nghiệm để qua 1
đêm rồi thả 3 rầy non tuổi 2 trên 1 cây mạ. Đầu ống nghiệm được che bằng
vải mỏng. Sau 5 ngày, 7 ngày tiến hành đánh giá mức độ thiệt hại dựa vào
hiện trạng cây mạ và số lượng rầy sống sót. Biểu hiện tác hại của rầy trên cây
mạ đuợc phân cấp như sau:
-Cấp 1: cây mạ khỏe

19


-Cấp 3: Cây mạ bị biến vàng bộ phận (<50%)
-Cấp 5: Hầu hết các bộ phận của cây bị biến vàng (>50%)
-Cấp 7: Cây mạ đang héo
-Cấp 9: Cây mạ chết
+ Phương pháp trong hộp mạ của IRRI: Gieo tất cả các giống lúa cần đánh giá
vào chung một khay lớn (20 cm x 15cm x 5cm). Một giống được gieo thành
một hàng dài 15cm theo chiều rộng của hộp. Trong hộp mỗi hộp các hàng
giống được đặt theo ngẫu nhiên. Đến ngày thứ 7 sau khi gieo, tỉa để mỗi
giống thí nghiệm còn 10 cây/ hàng, sau đó đặt vào lồng giữ trong cây mức
nước 5 cm để tạo độ ẩm cần thiết cho rầy nâu sống và để khỏi phải tưới cây
có thể gây rối loạn cho rầy nâu đang sống trên cây đó.
Sau đó tiến hành thả rầy nâu vào những cây mạ trong khay lúa với một
số lượng lớn rầy nâu tuổi 2 như sau:
Lấy từ lồng nuôi rầy nâu, những cây bị hại nặng có mang rầy nâu và vỗ
nhẹ những cây này. Việc tiếp rầy nâu lên những dòng giống thí nghiệm phải
làm đồng đều. Trung bình 3 con/cây. Số lượng rầy nâu ghi được trên mỗi
giống cho thấy tính thích ứng hay không ưa thích đối với giống đó. Sự đánh
giá cuối cùng về tính kháng căn cứ vào mức độ thiệt hại ở mỗi giống, mức độ
này đánh giá bằng mắt thường theo thang 0- 9 cấp như trên. Số liệu về mức

độ thiệt hại cuối cùng lấy vào ngày thứ 5 và thứ 7 sau khi cho rầy vào khay.
Nghiên cứu thời gian phát dục của rầy nâu trên một số giống lúa địa
phƣơng.
Rầy được nuôi trên 5 giống lúa khác nhau gồm: 4 giống địa phương
(Nàng hương, Do linh, Lúa len và Tây giang), 1 giống lúa đối chứng là giống
đang được trồng phổ biến ngoài sản xuất ( Khang dân).
Phương pháp xác định thời gian phát dục của rầy nâu như sau:
Thời gian phát dục của trứng: Lấy trưởng thành cái từ lồng nuôi rầy, thả
vào ống nghiệm có cây mạ 3 lá, ống nghiệm có kích thước 5 x 30 cm. Sau khi
thả rầy cái vào ống nghiệm 6-12 giờ bắt trưởng thành cái ra khỏi ống thí
nghiệm. Sau đó đặt ống nghiệm vào lại tủ định ôn có nhiệt độ 250C. Sau 5
ngày theo dõi số lượng rầy cám nở ra cho đến ngày thứ 10. Ghi chép lại số

20


lượng rầy nở trong từng ngày và tính trung bình ra được thời gian phát dục
của trứng.
- Sau khi trứng nở ra, lấy rầy non nuôi trên 5 giống khác nhau trong ống
nghiệm 2 cm x 15 cm. Hằng ngày quan sát rầy lột xác. 2 ngày thay thức ăn 1
lần, ghi chép lại thời gian phát dục của từng giai đoạn cho đến khi rầy vũ hoá
trưởng thành và chết.
2.4.2. Phƣơng pháp điều tra ngoài đồng ruộng
- Phƣơng pháp điều tra sâu bệnh:
Theo quy định của Cục Bảo vệ thực vật, điều tra 5 điểm ngẫu nhiên trên
hai đường chéo của mỗi ô.
- Đối với sâu hại lúa:
Điều tra khung 40 cm x 50 cm = 0,2 m2. Đếm số sâu có trong khung.
Riêng đối với rệp thì tính 10 dảnh trên một điểm.
Đối với các loại rầy thì dùng khay 20cm x 30 cm. Ở đáy khay có tráng

một lớp dầu nhờn. Đặt khay nghiêng 450 so với cây lúa, đập nhẹ hai đập, diện
tích đập bằng diện tích khay. Sau đó tiến hành phân loại và đếm số lượng rầy
có trong khay.
Đối với bệnh hại lúa:
Bệnh trên thân: điều tra 10 cây ngẫu nhiên trong khung 40 cm-50 cm.
Bệnh trên lá: điều tra trên 20 lá ngẫu nhiên tuỳ thuộc vào vị trí gây hại
của từng loại bệnh. Đếm số lá bị bệnh và phân cấp gây hại dựa vào bảng phân
cấp sau:
- Bệnh trên lá (đạo ôn, đốm nâu, tiêm lửa)
-Cấp 0: Không bị bệnh
-Cấp 1: <1% diện tích lá bị bệnh
-Cấp 3: 1-5% diện tích lá bị bệnh
-Cấp 5: 5-25% diện tích lá bị bệnh
-Cấp 7: 25- 50% diện tích lá bị bệnh
-Cấp9: > 50% diện tích lá bị bệnh
Đối với thiên địch bắt mồi ăn thịt
Điều tra khung 40 cm x 50 cm = 0,2 m2. Đếm số thiên địch có trong
khung, sau đó quy ra mật độ con/m2

21


+ Các chỉ tiêu theo dõi:
- Đối với sâu hại:
Mật độ (con/m2) = Tổng số sâu điều tra/ Tổng số đơn vị điều tra
- Đối với bệnh hại:
Tỷ lệ bệnh (TLB) % =

Tổng số dảnh, lá bị bệnh
Tổng số dảnh, lá điều tra


x 100%

(a x b)
x 100%
NxT
Trong đó: a: là số lượng cá thể bị bệnh phân ở mỗi cấp
b: trị số cấp bệnh của mỗi cấp tương ứng
N: Tổng số toàn bộ cá thể điều tra
T: Trị số cấp bệnh cao nhất trong bảng phân cấp bệnh
- Đối với thiên địch bắt mồi ăn thịt
Mật độ (con/m2) = Tổng số sâu điều tra/ Tổng số đơn vị điều tra
2.6 Phƣơng pháp xủ lí số liệu.
Số liệu được xử lí bằng Excel 2003 và bằng One way ANOVA trong
SPSS.
Chỉ số bệnh (CSB) % =

22


Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tình hình diễn biến thời tiết khí hậu tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Khí hậu thời tiết là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình sinh trưởng, phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh và khả năng cho
năng suất của cây trồng. Mỗi loại cây trồng chỉ sinh trưởng phát triển tốt
trong một điều kiện khí hậu nhất định. Hoạt động của bất kỳ sinh vật nào ở
các vùng sinh thái, cũng chịu sự chi phối sâu sắc của điều kiện ngoại cảnh
như: chế độ nhiệt, độ ẩm, lượng mưa, gió...Khí hậu thời tiết cũng ảnh hưởng
tới sự phát sinh gây hại của các sinh vật gây hại cho cây trồng. Cây lúa sẽ cho

năng suất cao, ít sâu bệnh trong điều kiện sinh thái nhấtt định. Sự thay đổi của
điều kiện khí hậu thời tiết sẽ ảnh hưởng tới sự phát sinh gây hại của sinh vật
hại và năng suất của lúa. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành tìm hiểu ảnh hưởng
của điều kiện khí hậu thời tiết vụ Đông Xuân 2007-2008 đến sự phát sinh phát
triển của sâu bênh hại trên các giống lúa nghiên cứu. Diễn biến của khí hậu
thời tiết vụ Đông Xuân 2007-2008 ở tỉnh Thừa Thiên Huế dược thể hiện qua
Bảng 4.1
Bảng 4.1: Diễn biến khí hậu thời tiết vụ Đông Xuân 2007 – 2008 ở
tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chỉ tiêu

Độ ẩm không
khí (%)

Nhiệt độ (0C)

Lượng mưa
(mm)

Số
giờ
nắng

T0Min

T0TB

T0Max

UMin


UTb

Số
ngày

Lượng
mưa

1

16,0

19,7

29,2

58,0

91,7

16

50,5

79

2

13,2


16,2

21,4

83,3

94,0

25

27,73

0

3

13,5

21,8

35,8

57

90

15

80,2


122

4

21,2

25,9

36,3

59

80

2

0,8

63

21,7

25,1

34,0

57,7

85,0


13

146,7

107

Tháng

5
(20 ngày đầu)

( Nguồn: Trạm khí tượng thuỷ văn Thừa Thiên Huế )

23


Qua số liêu Bảng 4.1, nhìn chung vụ Đông Xuân 2007-2008 nhiệt độ
trung bình có sự biến động khá lớn, từ 16,20C đến 25,10C tăng dần từ tháng 2
đến tháng 5. Ẩm độ trung bình cao nhất vào tháng 2 (94 %) và thấp nhất vào
tháng 4 (80 %) Số giờ nắng đạt cao nhất vào tháng 3 (122giờ)
Nhiệt độ không khí vào tháng 1 và tháng 2 là rất thấp, nhiệt độ trung bình
19,7 0C vào tháng 1 và 16,2 0C vào tháng 2. Do đó vào các tháng này không
khí rất lạnh, giai đoạn này trùng với giai đoạn lúa 3 lá đến bắt đầu đẻ nhánh.
Do ảnh hưởng của đợt không khí lạnh này đã làm chậm sinh trưởng và phát
triển của cây lúa và làm cho thành phần sâu bệnh hại trên lúa rất ít. Chủ yếu
vào giai đoạn này là rệp muội hại lúa. Nhưng từ tháng 3 trở đi, nhiệt độ không
khí bắt đầu tăng, từ 16,20C đến 25,1 0C, do đó làm cho mật độ sâu bệnh và
thiên địch tăng lên , đặc biệt là rầy nâu, rầy lưng trắng, bệnh đốm nâu và một
số loài nhện bắt mồi ăn thịt. Vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5 nhiệt độ không

khí khá cao đạt 25,10C với ẩm độ không khí thấp 80%, số giờ nắng nhiều
(108h) nên sâu hại giảm đi đáng kể.
Tóm lại, thời tiết vụ Đông Xuân 2007-2008 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế có những biến đổi phức tạp, mưa nắng xen kẻ, chịu sự tác động
ccủa nhiều đợt không khí lạnh, đặc biệt là tháng 1 và tháng 2 đã tác động rõ
rệt đến sinh trưởng, phát triển của cây lúa, đồng thời cũng chi phối đến sự
phát sinh, gây hại của sâu bệnh.
4.2. Thành phần sâu bệnh và thiên địch trên cây lúa.
Việc nghiên cứu thành phần sâu hại và thiên địch đóng một vai trò quan
trọng trong công tác bảo vệ thực vật. Nó là cơ sở để tiến hành những nghiên
cứu tiếp theo. Thành phần sâu bệnh hại và thiên địch trên cây lúa rất đa dạng
và phong phú. Trong quá trình sản xuất lúa, nếu ta nắm được thành phần sâu
bệnh, thiên địch trên các giống lúa ở các điều kiện canh tác khác nhau, chúng
ta sẽ có sơ sở xây dựng biện pháp phòng trừ sâu bệnh có hiệu quả trên cơ sở
xác định rõ những đối tượng sâu bệnh, thiên địch quan trọng, phổ biến và
thường xuyên gây hại trên đồng ruộng.
Mặc dù thành phần sâu hại, thiên địch trên lúa đã được nhiều tác giả
nghiên cứu, nhưng thành phần sâu hại, thiên địch là không hoàn toàn giống

24


nhau ở những địa phương khác nhau. Thành phần sâu bệnh và thiên địch trên
cây lúa phụ thuộc nhiều vào không gian và thời gian. Tức là, ở những vùng
khác nhau, chế độ canh tác khác nhau, ở những mùa vụ khác nhau và kĩ thuật
canh tác khác nhau thì thành phần sâu bệnh và thiên địch cũng khác nhau.
Chính vì lí do này mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu thành phần sâu bệnh và
thiên địch trên các giống lúa địa phương trong vụ Đông Xuân 2007-2008 tại
Hợp tác xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Qua điều tra chúng tôi ghi nhận được thành phần sâu bệnh, thiên địch và

mức độ phổ biến trên các giống lúa địa phương ở Bảng 4.2
Qua Bảng 4.2 chúng tôi nhận thấy:
Về sâu hại: có 10 loài thuộc 3 bộ côn trùng đó là bộ cánh đều
(Homoptera), bộ cánh vảy (Lepidoptera) và bộ cánh nữa (Hemiptera ) thường
xuyên xuất hiện và gây hại trên đồng ruộng.
Trong 3 bộ này thì bộ cánh vảy chiếm nhiều nhất với 50 % tổng số loài (5
loài trong tổng số 10 loài), bộ cánh đều chiếm 40 % (với 4 loài), sau đó đến
bộ cánh nữa chiếm 10% (1 loài trong tổng số 10 loài).
Trong 10 loài trên thì rầy nâu (N. lugens Stal), rầy lưng trắng (S. furcifera
Horvath) và sâu cuốn lá nhỏ (C. medinalis Gunee ) là phổ biến nhất, thường
xuyên xuất hiện và gây hại trên đồng ruộng.
Về bệnh hại: Bảng 4.2 cho thấy rằng thành phần bệnh hại có 6 loài, mức
độ phổ biến của chúng qua các thời kì sinh trưởng của lúa là khác nhau.
Trong 6 loại trên thì có hai loài thường xuất hiện gây hại đó là bệnh đốm nâu
(C. lutana) và bệnh khô đầu lá (do sinh lí). Còn những bệnh khác như đạo ôn
(P. oryzae Cavet Bri), khô vằn (R. solani Palo), tiêm lửa (H. oryzae Br. Et
Haan) xuất hiện và gây hại không đáng kể.
Về thiên địch bắt mồi ăn thịt.
Việc xác định thành phần thiên địch là cơ sở cho việc bảo vệ và tăng
cường hoạt động của chúng trong biện pháp phòng trừ sinh học, là một biện
pháp không thể thiếu trong phòng trừ tổng hợp IPM.
Kết quả điều tra thu thập thành phần thiên địch bắt mồi ăn thịt tại Hợp tác
xã Hương Long, thành phố Huế, chúng tôi thu được kết quả tại Bảng 4.3.
Qua Bảng 4.3 cho thấy:

25


×