Tải bản đầy đủ (.pptx) (29 trang)

hiện trạng suy giảm số lượng chất lượng rừng tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 29 trang )

PHẦN 1: SỰ GIẢM SÚT DIỆN TÍCH VÀ CHẤT LƯỢNG RỪNG TẠI VIỆT
NAM


Lời mở đầu


Rừng là tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn gĩư
chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy
và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn
hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm
giảm mức ô nhiễm không khí.



Nhưng ngày nay, nguồn tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, nạn phá rừng, mất rừng
ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn diện tích ha rừng càng bị thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái rừng gây nên
hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo đất tại nhiều địa phương.



Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường
như gây lũ lụt, hạn hán gây khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình
trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt suy thoái rừng làm phá vỡ các
hệ sinh thái quan trọng.


I. Khái

Năm 1930, Moov : rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt
đất và trong khí quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý.



niệm về
rừng

Năm 1952, M.E.Tcachenco : Rừng là một bộ phận của cảnh quan đại lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cậy bụi,
cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau
và với hoàn cảnh bên ngoài

Theo quy định khoản 1 Điều 3 Luật BV&PTR năm 1991 (sửa đổi bổ sung năm 2004): Rừng là một hệ sinh thái bao gồm
quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa
hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự
nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng


Khái niệm về suy thoái rừng: Suy thoái rừng là sự làm thay đổi chất lượng và số lượng của thành phần môi trường rừng, gây ảnh
hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên

Nạn cháy rừng

Lấn chiếm mở rộng đất canh tác

Suy giảm tài
nguyên rừng

Khai thác khoáng sản ngoài gỗ

Khai thác lấy gỗ


II. Vai trò của tài nguyên rừng


Cung cấp lâm sản, đặc sản phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng xã hội, trước hết là gỗ và lâm sản ngoài
gỗ.

Rừng là “ lá phổi xanh” hấp thụ CO2, tái sinh O2 ,
điều hòa khí hậu cho khu vực.

Cung cấp động - thực vật là đặc sản phục vụ nhu

Là hệ sinh thái đa dạng và giàu có nhất trên cạn,

cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư.

đặc biệt là rừng ẩm nhiệt đới.

Cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực
phẩm, dược liệu quý phục vụ nhu cầu đời sống xã
hội...

Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cho xây
dựng cơ bản


i, Về vai trò cân bằng sinh thái, rừng có vai trò vô cùng quan trong:

, rừng có ảnh hưởng đến
nhiệt độ, độ ẩm không khí,
thành phần khí quyển và có
ý nghĩa điều hòa khí hậu.

Là nơi cư trú của hàng triệu
loài động vật và vi sinh vật,
rừng được xem là ngân hàng

Rừng là vật cản trên đường

gen khổng lồ, lưu trữ các loại

di chuyển của gió và có ảnh

gen quý.

hưởng đến tốc độ cũng như
hướng gió

cân bằng sinh
thái

Thảm mục rừng là kho
chứa các chất dinh dưỡng

Rừng không chỉ chắn gió mà

khoáng, mùn và ảnh

còn làm sạch không khí và có

hưởng lớn đến độ phì

ảnh hưởng đến vòng tuần


nhiêu của đất.

hoàn trong tự nhiên.

Thảm thực vật có chức năng
quan trọng trong việc ngăn cản
một phần nước mưa rơi xuống
đất và có vai trò phân phối lại
lượng nước này.

bảo vệ đất chống
xói mòn.


ii,về vai trò phòng hộ

Phòng hộ đồng ruộng và khu dân cư : giữ nước, cố định phù sa, hạn chế lũ lụt và hạn hán, tăng độ ẩm cho đất...

Phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ nước, điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi,
hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện.

Phòng hộ ven biển, chắn sóng, chắn gió, chống cát bay, chống sự xâm nhập của nước mặn, bảo vệ đồng ruộng và khu dân cư
ven biển...

Phòng hộ khu công nghiệp và khu đô thị, làm sạch không khí, tăng dưỡng khí, giảm thiểu tiếng ồn, điều hòa khí hậu tạo điều
kiện cho công nghiệp phát triển.


III. Hiện trạng ở Việt Nam



i/ Mất rừng xảy ra phổ biến ở nhiều nơi.




Mặc dù tổng diện tích rừng toàn quốc tăng trong những năm qua, nhưng diện tích
rừng bị mất còn ở mức cao. Thống kê từ năm 1991 đến tháng 10/2008, tổng diện
tích rừng bị mất là 399.118ha, bình quân 57.019ha/năm
Diện tích mất chủ yếu do được phép chuyển đổi mục đích sử dụng và khai thác
theo kế hoạch chiếm 76%; diện tích rừng bị thiệt hại do các hành vi vi phạm các
quy định của Nhà nước về quản lý bảo vệ rừng tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức
cao làm mất 94.055ha rừng, chiếm 23,5% trong tổng diện tích rừng mất trong 7
năm qua, bình quân thiệt hại 13.436ha/năm




Khoảng giữa thế kỷ XX (giai đoạn từ năm 1943 và những năm 1970) ở
nước ta độ che phủ của rừng còn lại 43% diện tích đất tự nhiên, phần
lớn do chiến tranh.



Sau 30 năm chiến tranh tiếp theo (giai đoạn từ những năm 1980 và
1990) là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị thu hẹp lại khá nhanh, diện
tích rừng chỉ còn khoảng 9,5 triệu ha, chiếm 29% diện tích cả nước



Cụ thể qua các thời kỳ
như sau:

Năm 1943: có 14,3 triệu ha, độ che phủ chiếm 43%

Năm 1976: có 11 triệu ha, độ che phủ chiếm 34%

Năm 1985: có 9,3 triệu ha, độ che phủ chiếm 30%

Năm 1995: có 8 triệu ha, độ che phủ chiếm 28% (Cục kiểm
lâm 2010).


Trong thời gian 1990_1995, chất lượng rừng giảm đi đáng kể :

Diện tích rừng giàu ( >150m3/gỗ/ha) và trung bình (80-150 m3/ha) giảm từ 2485,7 nghìn ha xuống còn 2165,3
nghìn ha

Trong khi rừng nghèo ( <80m3/ha) và rừng phục hồi tăng từ 4389,8 nghìn ha lên 4621,7 nghìn ha

Cũng trong thời gian trên ( Viện điều tra quy hoạch rừng, 1975), trữ lượng gỗ 1993 ước tính vào khoảng 525
triệu m3 (trung bình 76 m3/ha). Tốc độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1-3 m3/ha/năm.
Đối với rừng trồng có thể đạt tới 5- 10 m3/ha/năm


Diễn biến diện tích rừng qua các năm.








Theo bộ lâm nghiệp ( nay là bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn), tổn thất hàng năm về diện tích rừng khoảng 1110000 ha,
trong khi diện tích rừng trồng được khoảng 130.000 – 150.000
ha/năm. Tuy nhiên, chất lượng các rừng trồng không cao chủ yếu
là cây nhập nội như bạch đàn và keo, chiếm khoảng 50 %.
Các loài cây bản địa chủ yếu là các loại thông, bồ đề, mỡ, trâu và
một số loài cây họ dầu. Hiện nay các loài cây bản địa được trồng
nhiều trong dự án trồng rừng phòng hộ các vùng đệm rừng đặc
dụng và các vườn quốc gia
Trong 10 năm qua, đất nông nghiệp tại Tây Nguyên tăng lên rất
nhanh, từ 8,0% năm 1991 lên đến 22,6% năm 2000 (454.300ha so
với 1.233.600ha, gấp 2,7 lần), trong lúc đó đất lâm nghiệp giảm từ
59,2% xuống còn 54,9% đất tự nhiên (3,329 triệu ha so với 2,993
triệu ha). So sánh trong cả nước thì trong vòng 10 năm qua, Tây
Nguyên là vùng mà rừng bị giảm sút với mức độ đáng lo ngại
nhất, đặc biệt là ở Đắk Lắk.


Thống kê về hiện trạng rừng của Việt Nam vào thời điểm cuối năm 1999




Tính đến năm 2010 nước ta có tổng diện tích rừng là
13.797.000 ha chiếm 44% tổng diện tích đất cả nước (FAO
2010) trong đó rừng tự nhiên là 10.304.816 ha và rừng
trồng là 3.492.184 ha.




Độ che phủ rừng toàn quốc là 39,5% (Theo Quyết định số
1828/QĐ-BNN-TCLN ngày 11 tháng 8 năm 2011). Việt
Nam là một trong số ít quốc gia Châu Á có mức tịnh tiến
rừng, do đó Việt Nam được đánh giá là đang ở giai đoạn
thứ tư trong đường cong diễn biến rừng (de Jong và các
cộng sự 2006, Bộ NN&PTNN 2007, Meyfroidt và Lambin
2008) tức là diện tích rừng đang tăng.


ii. Tình hình phá rừng, khai thác lâm sản trái phép



Từ năm 1999 đến tháng 10 năm 2008, cả nước đã phát hiện, xử lý 494.875 vụ vi phạm các quy định của Nhà
nước về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản



Dù số vụ phá rừng và khai thác gỗ trái phép giảm 12% kể từ năm 2000, tình trạng phá rừng vẫn diễn ra
nghiêm trọng tại một số địa phương.



Đáng lo ngại là vẫn còn tới 14/56 tỉnh có rừng tồn tại tình trạng phá rừng, thậm chí, tình trạng này còn gia
tang trong năm qua (20-25%), mà điển hình là Thừa Thiên – Huế, Phú Thọ, Thái Nguyên, Kiên Giang với
gần 40% Thanh Hóa 26%... Các vụ phá rừng trọng điểm tập trung tại các tỉnh Tây Nguyên, Bình Thuận,
Bình Phước…




iii. Tình hình cháy rừng gia tăng

Từ năm 1995 đến tháng10/2008, cả nước xảy ra 10.444 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 75.318 ha rừng, bình quân mỗi năm bị
cháy 5.380 ha.

Cả năm 2009, rừng cháy gần 1.500 ha thì chỉ trong 2 tháng đầu năm 2010 cháy rừng đã gây thiệt hại vượt qua con số này.

Thống kê từ hệ thống ảnh vệ tinh địa tĩnh của Cục Kiểm lâm, tổng số điểm cháy trong tháng 1/2010 là 961 điểm; tháng
2/2010 là 2.760 điểm.

Rừng bị cháy trong những năm gần đây chủ yếu là rừng trồng, với các loài cây chính là thông, tràm, bạch đàn, keo; đối với
rừng tự nhiên, chủ yếu là cháy rừng nghèo kiệt, rừng khoanh nuôi tái sinh mới được phục hồi.


Trong đó, thống kê hiện trạng cháy do các nguyên nhân như sau :

đốt dọn đồng ruộng gây cháy
người vào rừng dùng lửa để
săn bắt chim thú, đốt đìa bắt
cá, ,hun khói lấy mật ong

3% 5%

3%
5%
6%


6%

đốt dọn thực bì tìm phế liệu

41%

cháy lân tinh
hút thuốc
đốt nhang

31%
cố ý

biểu đồ thống kê

nguyên nhân khác


iiii, Tình hình phòng trừ sinh vật hại rừng.



Ở một số địa phương như: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
trị, Thừa Thiên Huế có xảy ra hiện tượng dịch sâu róm hại rừng trồng loài cây
thông, có năm diện tích rừng thông bị nhiễm bệnh lên đến hàng chục ngàn hécta,
đã ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển và năng xuất nhựa.



Ngành lâm nghiệp đã sử dụng nhiều biện pháp kỹ thuật phòng, trừ, như phun

thuốc sâu, biện pháp sinh học... Tuy nhiên, công tác nghiên cứu, ứng dụng công
nghệ, kỹ thuật về phòng trừ sinh vật hại rừng còn rất hạn chế, chủ yếu mới thực
hiện các giải pháp ứng phó khi dịch xảy ra, các biện pháp phòng sinh vật hại rừng
chưa được quan tâm đúng mức



Hiện nay hệ thống các cơ quan bảo vệ thực vật mới chủ yếu tập trung vào việc
bảo vệ cây trồng nông nghiệp, chưa có đầy đủ năng lực để thực hiện các biện
pháp phòng trừ sinh vật hại rừng.


IV . Nguyên nhân
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất

Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép

Cháy rừng

Sức ép dân số

Nghèo đói

Hậu qủa của cuộc chiến tranh để lại

Hiệu lực pháp luật và chính sách
Tập quán du canh du cư




V. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC SỰ GIẢM SÚT DIỆN TÍCH VÀ CHẤT
LƯỢNG RỪNG TẠI VIỆT NAM

Giải pháp về chính sách

Giải pháp về mặt chính quyền

Giải pháp về tổ chức thực hiện

Giải pháp về công nghệ


Giải pháp về chính sách
Thực hiện một số chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến lâm, giao đất giao rừng và thực hiện các chính
sách hưởng lợi từ rừng cho người dân miền núi.

Tạo công ăn, việc làm, đào tạo nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình cho đồng
bào dân tộc, tạo đầu ra cho các sản phẩm nông lâm kết hợp, chế biến và bảo quản nông
sản…

Tiếp tục đổi mới hệ thống quản lý ngành lâm nghiệp để đáp ứng nhu cầu cho công tác quản
lý và bảo vệ tài nguyên rừng

Quản lí chặt chẽ các đồng bào dân tộc chuyên sống du canh du mục từ trước đến nay tại các
địa phương


×