Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Quan điểm cơ bản của hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174 KB, 6 trang )

Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà
văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta. Cuộc đời hoạt động của Người đã để lại
cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưởng có giá trịvề
nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng nổi
bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và
của toàn nhân loại. Đó là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư
duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở
thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ
vang của dân tộc. Nhận thức được vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc, em xin trình bày vấn đề: “Quan điểm
cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”
I. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết của
Người xuyên suốt, nhất quán nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh của lực
lượng cách mạng dân tộc và quốc tế vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được bắt nguồn từ
những cơ sở sau:
Thứ nhất, đó là những giá trị truyền thống tạo nên sức
mạnh dân tộc. Những giá trị truyền thống đó bao gồm chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất cho độc lập, tự do; là
tinh thần tương thân tương ái, vị tha của dân tộc; tinh thần lạc quan,
yêu đời, ý thức tự lực, tự cường. Những giá trị truyền thống đó đã được
hình thành từ rất lâu đời, trải qua bao gian nan thử thách, bao thăng
trầm của lịch sử hun đúc nên. Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được những
giá trị truyền thống của dân tộc, thấy rõ được sức mạnh dân tộc, những
quan điểm nhân sinh và phương pháp đánh giặc của ông cha ta kết hợp
với những giá trị của thời đại để chuyển thành hệ thống quan điểm cách


mạng của mình.
Thứ hai là quá trình tổng kết thực tiễn những kinh nghiệm
thành công và thất bại của các phong trào yêu nước cách
mạng Việt Nam, cách mạng thế giới. Từ đó Người rút ra kết luận:
vận mệnh của đất nước đòi hỏi một lực lượng lãnh đạo mới có khả năng
đề ra được đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp với
quy luật của lịch sử và những yêu cầu của thời đại.; có đủ sức quy tụ, tập


-

hợp lực lượng của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống thực dân, đế
quốc, phong kiến và xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững.
Mặt khác, phong trào cách mạng thể giới cụ thể là cách mạng Mỹ, cách
mạng Pháp, Cách mạng tháng Mười Nga đã để lại bài học kinh nghiệm
quý báu cho việc tập hợp, huy động lực lượng quần chúng công nông
đông đảo trong việc giành và giữ chính quyền cách mạng, xây dựng chế
độ xã hội mới. Những phong trào cách mạng của các nước phương Đông
như Trung Quốc, Ấn Độ đã đem lại bài học bổ ích về việc tập hợp lực
lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng. Những kết luận trên đã
giúp Người chuẩn bị những nhân tố cần thiết cho việc lãnh đạo nhân
dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng của mình.
Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng là một
trong các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc. Đó là các quan điểm như:
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử
Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc
Liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng
Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế theo tinh thần “Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc áp bức đoàn kết lại”…

Nhờ những quan điểm trên mà Hồ Chí Minh đã có cơ sở khoa học để
thu hái những hiểu biết của các đời trước để lại và chuyển hóa chúng
thành hệ thống tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc.

II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở thành vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp
mọi lực lượng nhân dân, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của cả dân
tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai cấp.
Chiến lược đó được tổng kết thành những luận điểm có tính chân lý
như “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh”,
“Đoàn kết là thắng lợi” hay “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng có
thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách, phương pháp tập hợp lực
lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau trong cộng đồng các
dân tộc. Có như vậy, chiến lược đại đoàn kết mới phát huy hết vai trò
của mình.


2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vì Đảng là lực lượng lãnh đạo duy
nhất của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất
trí và sự đoàn kết trong Đảng là hạt nhân đoàn kết trong tất cả các tổ
chức chính trị - xã hội trong toàn xã hội.
Bác nhận định: Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời

mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam. Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách
mạng. Qua thắng lợi của Cách mạng tháng 8, Bác đã chỉ ra: “Vì sao có
cuộc thắng lợi đó? Một phần là vì tình hình quốc tế có lợi cho ta. Nhất
là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết…Lực lượng toàn dân là lực lượng
vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”. Vì vậy, Bác nhấn
mạnh “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”.
Mục tiêu là “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”;
nhiệm vụ là tuyên truyền, huấn luyện làm sao cho nhân dân hiểu được
và làm được. Chỉ có như vậy mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng mới trở thành
mục tiêu, nhiệm vụ của cả dân tộc và đại đoàn kết dân tộc mới trở thành
một đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng trong cuộc đấu tranh
tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần
chúng.
Đảng có sức mạnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn chuyển những đòi
hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác,
thành hiện thực có tổ chức và thành sức mạnh.
3. Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện khối đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh các khái niệm đồng nghĩa thường được
dùng là dân, nhân dân, đồng bào, quần chúng nhân dân, quốc dân… Ở
đây, khái niệm “dân” được dùng với tư cách là khái niệm chung cho tất
cả. Khái niệm “dân” vừa được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng,
vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con
dân đất Việt, không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng…
Như vậy, “dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết toàn
dân, với ý nghĩa là cần phải huy động và tập hợp được mọi người dân
Việt Nam đang sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài vào
khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng

chung của cả dân tộc. Muốn làm được điều đó phải kế thừa truyền thống
yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan


dung độ lượng với con người và cần xóa bỏ mọi định kiến, cách biệt. Đại
đoàn kết dân tộc mở rộng cửa để đón tiếp những con người lầm đường
lạc lối mà biết ăn năn hối cải.
Mục tiêu của việc quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết toàn dân
tộc là nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là sự tự do, ấm no, hạnh
phúc của nhân dân và là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng
đồng thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là liên minh công
– nông và lao động trí óc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân khi chưa được tổ chức và giác ngộ về
lợi ích, mục tiêu, lý tưởng thì chưa có sức mạnh. Vì thế quy tụ quần
chúng nhân dân vào một tổ chức yêu nước phù hợp với từng bước phát
triển của phong trào cách mạng là sự quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí
Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
Tổ chức thể hiện sức mạnh vật chất của khối đại đoàn kết dân tộc
chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Qua các thời kỳ khác nhau, Mặt
trận dân tộc thống nhất có thể có các tên gọi khác nhau như Hội phản
đế đồng minh (năm 1930), Mặt trận dân chủ (năm 1936), Mặt trận
nhân dân phản đế (năm 1939)… Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (năm 1955
và 1976). Tựu chung lại đây là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp
đông đảo các tầng lớp nhân dân phấn đấu vì mục đích độc lập tự do cho
Tổ quốc, cho dân tộc. Mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng và
hoạt động theo nguyên tắc sau:
Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền
tảng liên minh công – nông (về sau Người nêu thêm là liên minh công

– nông – lao động trí óc), dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Từ đó
mặt trận được mở rộng và thực sự quy tụ cả dân tộc, tập hợp toàn dân,
kết thành một khối vững chắc.
Thứ hai, Mặt trận dân tộc thống nhất hoạt động theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích
của các tâng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở
rộng.
Thứ ba, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết, thật sự, chân thành,
thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đó là sự đoàn kết chặt chẽ với các
tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các nhân sĩ, tôn giáo… trong Mặt trận,
thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại
vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
ngày càng vững chắc. Muốn lãnh đạo được, Đảng phải tiêu biểu cho trí


tuệ, danh dự, lương tâm của cả dân tộc và thời đại, phải thực sự đoàn
kết, nhất trí. Đảng cộng sản Việt Nam phải là Đảng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Người viết: “Đảng
không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà
phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực
nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng
rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì
Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Từ đó Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành ba tầng Mặt
trận ở Việt Nam là: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết
Việt – Miên – Lào; Mặt trận nhân dân tiến bộ thế giới đoàn kết với
nhân dân Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Đúc kết từ lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Sử ta dạy cho
ta bài học: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập, tự do, trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài
xâm lấn”. Và trong suốt cả cuộc đời của Người, Hồ Chí Minh đã không
ngừng xây dựng, hoàn thiện nên một hệ thống những quan điểm về đại
đoàn kết dân tộc, không ngừng truyền bá tư tưởng đại đoàn kết trong
Đảng và các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng
bào Việt Nam ở xa Tổ quốc.
Qua 20 năm đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách
của Nhà nước hợp với lòng dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức được
mở rộng hơn là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triểnkinh tế - xã
hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Các hình thức tập hợp
nhân dân có bước đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã
hội được phát huy. Tuy nhiên, hiện nay trong khi sự nghiệp đổi mới
đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh toàn dân thì việc tập hợp nhân
dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn hạn chế, nhất
là ở khu vực kinh tế tư nhân và ở một số vùng có đông đồng bào theo
đạo, đồng bào thiểu số,…
Vì vậy, trong điều kiện nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay thì việc quan trọng là phải khơi
dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc, trong
chính sách đoàn kết phải chú ý phát huy tính năng động, sáng tạo của
mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý đến sản xuất
kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả


ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục những tiêu cực của kinh tế thị
trường làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân
tương ái của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh

giới giữa đồng bằng và miền núi, giữa nông thôn và thành thị, củng cố
khối đại đoàn kết 54 dân tộc, chăm lo đời sống cho đồng bào dân tộc ít
người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, các
tập quán tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết loại trừ những âm mưu lợi dụng
tôn giáo, tín ngưỡng để gây rối.
Trong tất cả người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều
tiềm ẩn tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc. Vì vậy, khơi nguồn và phát
triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam,
thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một
cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ
chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể, cá nhân trên cơ sở lấy liên
minh công nông và trí thức làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng là
một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý
nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới,
thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội hiện nay.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 80 năm qua đã chứng minh
hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở
thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Ðảng Cộng sản Việt
Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và
dân tộc, để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trước nhiều thuận lợi và khó khăn thì việc tăng cường sức mạnh
đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa hơn bao
giờ hết.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận
thức cơ bản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.

2. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.CTQG,
Hà Nội 2009.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
4.
5.



×