TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHXH & NV
BỘ MÔN NGỮ VĂN
------------
ĐỖ MINH CHÂU
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TẬP
TRUYỆN NGẮN CÔ CON GÁI NGỖ
NGƯỢC CỦA VÕ DIỆU THANH
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ văn
Cán bộ hướng dẫn:
Ths. GV BÙI THANH THẢO
CẦN THƠ – 4/2011
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích của đề tài
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
Một số vấn đề chung
1.1 Khái niệm
1.1.1 Nhân vật trong tác phẩm văn học
1.1.2. Các kiểu loại nhân vật
1.1.2.1. Nhân vật nhìn từ góc độ thể loại
1.1.2.2. Nhân vật nhìn từ góc độ cấu trúc nhân vật
1.1.3. Hệ thống hình tượng nhân vật
1.2. Vài nét về tác giả và tác phầm
1.2.1. Vài nét về tác giả
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật của tác giả
1.2.3. Vài nét về tác phẩm
CHƯƠNG 2:
Thế giới nhân vật được thể hiện đa dạng qua tập truyện ngắn
2.1.Nhân vật với đời sống tâm linh
2.2. Nhân vật đi tìm hạnh phúc
2.3. Nhân vật bi kịch
2.4. Nhân vật cá tính
2.5. Nhân vật thử thách
2.6. Nhân vật cam chịu
CHƯƠNG 3:
Các phương thức, phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tập truyện ngắn
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2. Giọng điệu và điểm nhìn trần thuật
3.3. Nhân vật gắn bó với ngôn ngữ, không gian và văn hóa đặc trưng Nam bộ
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Lí do chọn đề tài
Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam thực sự có rất nhiều khởi sắc. Trên nền thời đại
bộn bề “đa sự, đa đoan” ấy [14, tr.1], văn chương vẫn hút nhựa từ cuộc sống để đem lại
những sáng tác đa diện. Và khi nhắc đến văn học Đồng Bằng Sông Cửu Long, ta thật khó có
thể quên hình ảnh những con người chất phác hồn hậu, hình ảnh những cánh đồng lúa chín
vàng và con sông tươi mát trải dài qua nhiều đời, nhiều thế hệ. Với những hương sắc riêng,
truyện ngắn Đồng bằng sông Cửu Long ngày nay thật sự đã góp phần tạo nên sự đa dạng và
phong phú cho nền văn học dân tộc "Đồng bằng sông Cửu Long là vùng khó khăn nhất, xa
nhất, nhưng lại làm được nhiều nhất và luôn đi tiên phong..." - Đó là lời khen ngợi chân tình
của nhà thơ Hữu Thỉnh tại Bàn tròn Văn xuôi Đồng Bằng Sông Cửu Long lần thứ nhất [17 ,tr.
1].
Như một sự tình cờ, cuộc thi văn học tuổi 20 gần đây đã cho bạn đọc biết đến cái tên
Võ Diệu Thanh với tập truyện ngắn “Cô con gái ngỗ ngược”. Võ Diệu Thanh là một nhà
văn của tỉnh An Giang, của miền Đồng bằng như vậy như vậy.
Nhưng phải đặt ra lí do khi trước nhìn nhận một ngòi bút trẻ như nhà văn Võ Diệu
Thanh sẽ viết và nói những gì trong buổi văn chương đang vàng thau lẫn lộn (xu thế bạn đọc
thích các tác phẩm nghiêng về tính dục, mua vui… đang ngày một nhiều hiện nay). Có gì ẩn
chứa và dấu kín chưa ai khám phá không? Ta phải nhìn nhân một tác phẩm văn học như thế
nào cho đúng đắn, đặc biệt là về thế giới nhân vật - một phương diện rất quan trọng trong một
sáng tác nghệ thuật. Với tập truyện ngắn này, tác giả gởi đến bạn đọc những thú vị và mới mẻ
được thể hiện qua cách nhìn nhận về con người với các nhân vật đa dạng, sống động. Sống
chất phác và hồn hậu, nhưng văn chương lại dữ dội và sâu sắc, nhà văn trẻ Võ Diệu Thanh còn
cho chúng ta thấy một ngòi bút có nội lực mạnh. Và chị là một gương mặt ấn tượng trong giải
thưởng văn học tuổi 20 lần IV.
Với người viết, đề tài khám phá về thế giới nhân vật trong tập truyện ngắn này cũng là
một bài học mới. Sự khám phá mới lạ “những điều vốn đã cũ”, những bí ẩn về buồn vui của
muôn kiếp người đã đi qua, đã kết thúc về thân xác, nhưng những thứ thuộc về tinh thần thì
tồn tại mãi mãi. Người viết muốn biết được những cảm xúc phức tạp và thú vị về con người
với sự tìm tòi, chiêm nghiệm. Đề tài sẽ là một sự gợi mở mới mẻ, nhất là khi được tìm hiểu về
những chất liệu nghệ thuật văn chương của miền Tây sông nước, được tiếp cận tập truyện ra
đời không lâu.
Nếu xét tương quan giữa tác giả và độc giả, ban đầu là tương quan không nối kết giữa
người xa lạ với một kẻ xa lạ thì hành trình độc giả tìm đến tác giả thông qua tiếp cận tác phẩm
là con đường kẻ xa lạ đến gần người xa lạ. Vậy nên người viết cũng chỉ là một kẻ xa lạ, đến
gần một người xa lạ. Với chút ít kiến thức, người viết mong tự giải mã tác phẩm hơn là phán
xét, phê bình tập truyện. Đây là một đề tài quen thuộc và có tính phổ biến khi nghiên cứu tư
tưởng một tác giả nào đó về cách thức xây dựng nhân vật. Mọi thứ đều nóng hổi và mới mẻ
hoàn toàn từ tác giả đến tác phẩm. Người viết sẽ cố gắng làm sáng tỏ một cách đầy đủ những
mục đích yêu cầu trong khả năng hạn chế của mình. Nghiên cứu những điều dù mới lạ nhưng
không phải là không đặc sắc. Tập truyện ngắn “Cô con gái ngỗ ngược” sẽ là một thách thức
không nhỏ đối với người viết đưới bình diện thế giới nhân vật. Đây sẽ còn là một bài học đầy
bổ ích cho người viết và cả cho những ngòi bút tiềm năng đang ấp ủ những tác phẩm trong
lòng đi tìm tiếng nói riêng.
Biết rằng, một tác phẩm nghệ thuật có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Vì vậy, khi chọn
đề tài này, người viết cố gắng lĩnh hội các quan điểm, ý tưởng từ các bài viết của các tác giả
đã đề cập, đồng thời mạnh dạn đưa ra những ý kiến, những cảm nhận riêng để có một cách
nhìn hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Võ Diệu Thanh, nhằm góp thêm một cách nhìn mới
về những giá trị trong truyện ngắn của chị. Luận văn này chỉ là một con đường người viết
nhận ra trong muôn vàn con đường khả dĩ tiệm cận được với tác phẩm của nhà văn. Những
bước đi đầu tiên bao giờ cũng non nớt và thiếu sót, nhưng đó cũng là động lực để người viết
hoàn thành thật tốt bài nghiên cứu này.
Với những lí do trên, người viết đã chọn vấn đề “Thế giới nhân vật trong tập truyện
ngắn Cô con gái ngỗ ngược của Võ Diệu Thanh”.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể nói rằng, nhân vật luôn là yếu tố được quan tâm nhiều nhất trong các sáng tác
của nhà văn. Đã có những nhân vật trong văn học Việt Nam trở nên quen thuộc như một phần
của cuộc sống. Dù rằng, nhân vật chỉ là những hình tượng trong tác phẩm, được xây dựng lại
từ những con người ở bên ngoài và mang những tính chất đặc thù tùy vào ý đồ của tác giả,
nhưng nhân vật cũng có thể so sánh như những giá trị quý báu mà không dễ gì tìm thấy được.
Xây dựng được một hay nhiều nhân vật có sức sống và tầm ảnh hưởng luôn là nơi mà các nhà
văn muốn hướng đến.
Trong quá trình tìm hiểu về tài liệu có liên quan đến “nhân vật” của những người
nghiên cứu trước, người viết nhận thấy “thế giới nhân vật” là một vấn đề đòi hỏi có một sự
khái quát cao và chiều sâu nghiên cứu. Bởi khi tìm hiểu về thế giới nhân vật trong những sáng
tác của một tác giả hay một giai đoạn nào đó, đề tài sẽ cho chúng ta có những cái nhìn khái
quát không những về đóng góp hay tài năng của nhà văn mà còn là ý nghĩa biểu hiện của nhân
vật về tư tưởng và thời đại. Đã có khá nhiều tài liệu nghiên cứu về “thế giới nhân vật” ở nhiều
tác giả khác nhau:
Người viết đã tìm thấy bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Huệ Chi: “Nguyễn Du và thế
giới nhân vật trong thơ chữ Hán” trên trang nguyenhuechi.free.fr. Tác giả đã nghiên cứu một
góc nhìn mới mẻ về nhân vật trong thơ chữ Hán ở các tác phẩm như: Truyện Kiều, Long thành
cầm giả ca, Phản chiêu hồn, Xuân dạ, Ngẫu hứng, Độc tiểu Thanh ký, Mộng đắc thái liên,
Hoàng Sào binh mã, Kinh Kha cố lý…. Xuyên suốt ở những bài thơ ấy là phát hiện về con
người cùng với sự lí giải về bế tắc trong tư tưởng theo thuyết tài mệnh của ông. Song cũng
chính bằng tình cảm của một người nghệ sĩ yêu thương và cảm thông đã giúp Nguyễn Du phát
hiện ra cái đẹp rực rỡ của tạo vật và con người, cũng như làm cho ông thao thức không
nguôi trước mọi nỗi thống khổ của quần chúng. Ngoài ra, bài nghiên cứu đã khẳng định
được giá trị và sức sống của hầu hết các tác phẩm Nguyễn Du sáng tác. Tuy nhiên vì đây là
bài nghiên cứu về thế giới nhân vật trong các tác phẩm trung đại ở trong thơ, nên những
nhân vật ấy đã mang tính chất cố định, khi tìm hiểu về nhân vật trong truyện ngắn của một
tác phẩm đương đại, người viết cần một cái nhìn gần gũi hơn, dù sao đó cũng là một tài
liệu thiết thực.
Trong luận văn “Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Tuân”, tác giả Vũ Thị Đào,
trường ĐHKHXH &NV thuộc Đại học quốc gia Hà Nội (7) đã nghiên cứu: quan niệm nghệ
thuật về con người của Nguyễn Tuân và các kiểu loại nhân vật có trong văn xuôi Nguyễn
Tuân trước Cách mạng tháng Tám, các phương thức nghệ thuật thể hiện nhân vật của Nguyễn
Tuân. Từ góc nhìn này, luận văn đã đánh giá được giá trị các tác phẩm và vị trí, vai trò của
Nguyễn Tuân đối với quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
Với đề tài luận văn thạc sĩ của Đào Thị Minh Hường, trường ĐHKHXH &NV thuộc
Đại học quốc gia Hà Nội: “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới
nay” (10) . Tác giả Đào Thị Minh Hường đã nghiên cứu một cách khái quát thế giới nhân vật
trong truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng từ năm 1986 tới nay trên các phương diện như:
quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn ( nhân
vật yếu đuối, nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa và nhân vật vượt lên số phận). Nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng (yếu tố tướng hình, yếu tố tâm linh và yếu tố
ngôn ngữ, giọng điệu). Qua đó, luận văn đã khẳng định những cống hiến và thành quả của Ma
Văn Kháng đã đạt được ở thể loại truyện ngắn.
Như vậy, luận văn này đã gợi ra hướng đi cho người viết trong quá trình xây dựng đề
cương cho đề tài của mình. Tuy nhiên, luận văn chỉ dừng lại ở việc khái quát chứ chưa thấy
đánh giá thế giới nhân vật ấy có những đặc điểm gì khác hơn so với những kiểu nhân vật trong
lí thuyết và các tác phẩm đương thời.
Trong “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải”, tác giả Nguyễn Thị Kì,
Nxb văn hóa Sài Gòn, (13) đã nghiên cứu: hầu hết các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn
Khải (từ tác phẩm đầu tiên “Người con gái quang vinh” đến tác phẩm sau cùng “Thượng đế
thì cười”) đều đang sống cùng chúng ta, hít thở chung một bầu không khí, chung niềm vui nỗi
buồn…Đó là điểm độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khải. Đây là tập
khảo luận của một cây bút nữ vốn là nhà văn, nhà báo, nhà biên kịch, nên chứa đựng những
nhận xét sắc bén về một đề tài khá thú vị trong mảng phê bình văn học. Tuy nhiên, vì đây là
đề tài nghiên cứu về thế giới nhân vật trong tiều thuyết nên sẽ có nhiều khác biệt so với nhân
vật trong truyện ngắn mà người viết đang khảo sát.
Trong “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan”
đăng bởi tác giả Hương Phạm (19) đã lấy nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của ông
phân tích và khám phá tâm hồn, tích cách con người. Qua đó nắm bắt được tư tưởng của nhà
văn từ tư tưởng của nhân vật. Đồng thời cũng qua nhân vật, nhà văn bày tỏ những quan niệm,
suy tư trăn trở về thế sự. Luận văn đã cho bạn đọc nhận ra quan điểm nhân sinh mới mẻ, nhận
ra con người và cá tính của nhà văn trong văn học. Như vậy, với tài liệu này, người viết đã có
thêm cơ sở để hình thành hướng đi cho đề tài của mình.
Trong luận văn: “Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh”, của tác giả Phạm
Quỳnh Dương, trường ĐHKHXH &NV thuộc Đại học quốc gia Hà Nội (5) đã nghiên cứu khá
khái quát thế giới nhân vật ở cả tiểu thuyết và truyện ngắn của Tạ Duy Anh. Luận văn đã trình
bày sự đổi mới trong sáng tác, quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả cùng một thế
giới nhân vật cũng hết sức đa dạng (nhân vật ác quỷ, nhân vật thiên thần, nhân vật cô đơn
trong cõi người, nhân vật phi lí và nhân vật bi kịch), qua đó luận văn cũng khẳng định tài năng
và tầm quan trọng không nhỏ của tác giả Tạ Duy Anh trong nền văn xuôi đương đại. Như vậy,
luận văn này đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn tổng quan hơn khi nghiên cứu về đề tài
“thế giới nhân vật”. Với người viết đó còn là một bài học quý báu khi biết rằng quan niệm
nghệ thuật chi phối rất lớn cách xây dựng nhân vật của tác giả.
Với luận văn “Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và
Đỗ Hoàng Diệu” của tác giả Lê Thị Tuyết, trường ĐHKHXH &NV thuộc Đại học quốc gia
Hà Nội (28) đã nghiên cứu đến những tác giả trẻ có những tác phẩm gây tiếng vang gần đây.
Luận văn đã tập trung tìm hiểu về hệ thống nhân vật trong truyện ngắn từng tác giả để thấy
điểm khác biệt trong cách xây dựng nhân vật của họ, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh đến sự
tương đồng trong các kiểu nhân vật nữ – là điểm chung thể hiện màu sắc nữ quyền đầy tiến bộ
trong truyện ngắn của ba nữ nhà văn. Như vậy đây là một tài liệu vừa nghiên cứu vừa so sánh
và đối chiếu những tác giả với nhau, giúp bạn đọc có thêm một góc nhìn bao quát và gần gũi
hơn với các thế hệ nhà văn trẻ.
Có thể nói đề tài “thế giới nhân vật” đã được nhiều người nhà nghiên cứu và thể hiện
quan niệm đa dạng với mỗi nhà văn khác nhau Với những bài nghiên cứu trên, các tác giả đều
đề cập đến vấn đề nhân vật làm trung tâm ở một số bình diện như: các kiểu nhân vật, hệ thống
nhân vật, quan niệm nghệ thuật… để khái quát lên những vấn đề của thời đại và tôn vinh tài
năng tác giả. Tất cả những bài viết ấy là những gợi mở quý giá giúp ích cho người viết trong
quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên, người viết vẫn chưa thấy bài nghiên cứu nào nhắc đến sự
khác biệt của nhân vật trong hệ thống lí thuyết trước đây, cũng như cách thể hiện nhân vật có
gì mới lạ hơn so với các nhân vật trong truyện ngắn đương thời.
Riêng về tác giả Võ Diệu Thanh và tập truyện ngắn “Cô con gái ngỗ ngược”, vì là một
tác giả trẻ và tác phẩm cũng ra đời cách đây không lâu nên mọi thứ chỉ dừng lại ở góc độ nhận
định, khái quát, tác phẩm còn mới mẻ nên cũng chưa được nhiều các ý kiến tranh luận, chưa
đủ thời gian và độ chín để các nhà phê bình viết bài viết nghiên cứu, thẩm định Tài liệu người
viết tìm được về tác giả cũng chủ yếu được đăng tải qua các bài phỏng vấn trên mạng. Như
vậy có thể nói, đề tài của người viết là về tập truyện ngắn này là một sự đóng góp và bổ sung
vào cách nhìn nhận về thế giới nhân vật trong nền văn học đương đại qua tập truyện ngắn “Cô
con gái ngỗ ngược”. Điều mà người viết muốn hướng đến nhất mà các tài liệu ở trên ít chạm
tới là góc nhìn mới mẻ về các tác phẩm đương đại, tìm hiều thế giới nhân vật có thay đổi,
khám phá hay sự phát hiện mới mẻ gì là một điều quan trọng và cần thiết vì mỗi nhà văn có
một cách viết và cách cảm nhận khác nhau, tìm ra được cái mới, cái lạ ấy sẽ là một thành công
cho đề tài nghiên cứu.
Trên cơ sở tiếp thú những ý kiến, những hướng nghiên cứu cũng như những gợi ý của
các nhà nghiên cứu trước, người viết sẽ cố gắng đi sâu nghiên cứu vấn đề “Thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Cô con gái ngỗ ngược” của Võ Diệu Thanh một cách khái quát nhất.
3. Mục đích của đề tài
Đi vào tìm hiểu “Thế giới nhân vật trong tập truyện ngắn Cô con gái ngỗ ngược” của
nhà văn Võ Diệu Thanh. Trên cơ sở tiếp thu và tìm hiểu, đề tài đã đặt ra cho người viết những
mục đích sau:
Về kiến thức, đề tài sẽ giúp người viết tìm hiểu sâu hơn về khái niệm nhân vật, những
biểu hiện nghệ thuật qua nhân vật trong tập truyện ngắn có gì giống, có gì khác, mới hay cũ
so với các khái niệm, lí thuyết trước đây. Qua đó củng cố và nắm vững một số kĩ năng về kiến
thức lí luận văn học nói chung và khái niệm lí luận về nhân vật nói riêng. Từ đấy biết nhận
diện, khai thác, bổ sung và áp dụng những nền tảng đã có cho các vấn đề mà người viết nghiên
cứu.
Về thái độ, đề tài sẽ giúp người viết có thái độ khách quan, khoa học trong việc tiếp
nhận văn học.
Khẳng định những đóng góp dù con mới mẻ của cây bút trẻ Nguyễn Diệu Thanh trong
việc thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong tiến trỉnh phát triển của văn của văn
học Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Đề tài còn là một đóng góp và khẳng định cho những khởi sắc của văn học miền Tây
“đi trước về sau” [23, tr. 150] thời gian gần đây qua cây bút trẻ Võ Diệu Thanh.
4. Phạm vi của đề tài
Xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho người viết biết được mình sẽ
nghiên cứu vấn đề gì, trong phạm vi liên quan nào. Như vậy sẽ tránh được tình trạng đi không
đúng hướng. Trên những cơ sở ấy, người viết xác định:
Về đối tượng nghiên cứu: người viết sẽ nghiên cứu các loại hình nhân vật trong tập
truyện ngắn “Cô con gái ngỗ ngược”. Bên cạnh đó để hiểu sâu sắc hơn cái khái niệm, cũng
như những yếu tố về con người, người viết có liên hệ với những tài liệu khác để hiểu rằng ở
mỗi thời đại, nhân vật và quan niệm của tác giả sẽ có những cách nghĩ khác nhau, nhưng đều
hướng về giá trị nhân văn cao đẹp.
Quá trình nghiên cứu người viết còn tham khảo tạp văn của tác giả. Ngoài ra người viết
còn khảo sát thêm một số truyện ngắn khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để xây dựng và triển khai luận văn theo đúng hướng và đúng yêu cầu của đề tài, cần
phải xác định được một phương pháp nghiên cứu thích hợp, khoa học. Trong quá trình tập hợp
tư liệu từ các bài viết, cùng với việc sắp xếp và trình bày có hệ thống những nhận xét, ý kiến
đánh giá có liên quan đến đề tài, người viết đã sử dụng nhiều phương pháp và thao tác khác
nhau: thao tác so sánh, phân tích, chứng minh, tổng hợp… để khai thác vấn đề nhằm đáp ứng
yêu cầu của đề tài. Qua đó chỉ ra được những góc nhìn mới mẻ và các loại hình nhân vật cùng
với ý nghĩa của nó trong tập truyện ngắn này, những vấn và khái niệm đề vừa quen, vừa lạ.
CHƯƠNG 1:
Một số vấn đề chung.
1.1. Khái niệm
1.1.1. Nhân vật trong tác phẩm văn học
“Nhân vật là thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu
hiệu về sự tồn tại của con người trong nghệ thuật ngôn từ.” [7,tr. 1254].
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương
tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không
rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít
hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có
khi còn là các con vật, các loài cây,…được gán cho những đặc điểm giống với con người.
Có ý kiến cho rằng: “nhân vật còn là những con người hay sự vật mang cốt cách của
con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm. Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn
khái quát hiện thực một cách hình tượng. Để thể hiện nhận thức của mình về một vấn đề nào
đó của hiện thực.” [9, tr.26].
Khái niệm nhân vật còn có khi được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con
người cụ thể nào.
1.1.1.1. Chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học
Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con người. Do tính
cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng khái quát tính cách của nhân vật văn học
cũng mang tính lịch sử. Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người
dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác nhau của đời sống. Nhân vật văn học còn thể hiện
quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ của nhà văn và con người. Vì thế nhân vật luôn gắn
chặt với chủ đề của tác phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua biến cố, xung đột, mâu
thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật
này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với nhân vật khác. Cho nên nhân vật gắn liền
với cốt truyện. Nhờ được miêu tả qua xung đột, mâu thuẫn, nên khác với hình tượng hội họa
và điêu khắc, nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong
không gian, thời gian, mang tính chất quá trình.
1.1.1.2. Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn chương
bằng phương tiện văn học
Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm
bằng các phương tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên như Chí Phèo, Thị Nở, Nguyệt,
Lãm, Thúy Kiều, Kim Trọng… Đó còn là những nhân vật không tên như anh thanh niên trong
“Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long, nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu. Hay gần gũi chúng ta hơn là nhân vật vợ của Tràng trong tác
phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Những nhân vật hoàn toàn không có một cái tên cụ thể nào cả.
Nhân vật văn học còn là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao
gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật nhưng lại mang nội dung và ý nghĩa con
người. Nhân vật có thể được thể hiện bằng những hình thức khác nhau. Đó có thể là những
con người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, tiểu sử như thường
thấy trong tác phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những người thiếu hẳn cả nét đó, nhưng lại có
tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý
nghĩ, cảm nhận như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. Nhân vật trong thơ lại có thể xuất hiện
với đại từ “tôi” hoặc hiện ra thấp thoáng như ông câu trong bài “Thu điếu” của Nguyễn
Khuyến, hoặc như “thuyền” và “biển” trong tác phẩm cùng tên “Thuyền và biển” của Xuân
Quỳnh.
Nhân vật văn học còn là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để ta
nhìn nhận ra nó. Đơn giản là một cái để in đậm vào mỗi người chúng ta như Sở Khanh, Thúy
Kiều, hay Chí Phèo, Thị Nở… Tiếp đến là các dấu hiệu tiểu sử, nghề nghiệp hoặc đặc điểm
riêng như chàng mồ côi, hai anh em sinh đôi, thằng ngốc… Sâu hơn nữa là các đặc điểm tính
cách như ông tư sản học làm quý tộc, thằng đạo đức giả, người đi tìm hình của nước, tiếng hát
con tàu… Các dấu hiệu đặc điểm ấy thường được đúc kết thành các “công thức” giới thiệu
nhân vật. Chẳng hạn ở truyện “Trương Chi Mỵ Nương”, đó là “ngày xưa có anh Trương Chi.
Người thì thậm xấu hát thì thậm hay. Cô Mỵ Nương ở lầu Tây. Con quan thừa tướng ngày
ngày cấm cung”. Toàn bộ quan hệ về sau và kết cục bi kịch của nhân vật đều gắn liền với
“công thức” ban đầu đó. Các nhân vật trong “Truyện Kiều” cũng phát triển từ những dấu hiệu
được giới thiệu ban đầu. Ta có thể thấy qua nhân vật Kiều được giới thiệu “Làn thu thủy nét
xuân sơn, hoa gen thua thắm liễu hờn kém xanh” đã dự báo một cuộc đời không êm đềm và
sóng gió qua sự gen tuông và đố kị của thiên nhiên, ẩn bên trong đó là lòng người và thói đời
lúc bấy giờ. Hay nhân vật Từ Hải: “Giang hồ quen thói vẫy vùng;Gươm đàn nửa gánh non
sông một chèo” thể hiện nhân vật Từ Hải là một người có bản lĩnh và khí phách. Các công
thức nhận ra ấy được chứng thực trong các quan hệ, được bộc lộ hoặc điều chỉnh trong các
xung đột, và cuối cùng ta có một hình tượng hoàn chỉnh về một nhân vật văn học.
Nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Cho nên nhân vật văn
học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người
hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác
như nhân vật trong hội họa, điêu khắc, bộc lộ trong hành động. Nó luôn hứa hẹn những điều sẽ
xảy ra, những điều chưa biết trong quá trình giao tiếp. Đồng thời nhân vật văn học còn mang
tính chất hồi cố, bởi vì mỗi bước phát triển đều làm nhớ lại công thức nhận biết ban đầu, đều
làm cho nó sâu thêm, hoặc sẽ điều chỉnh cho nó xác đáng, nhưng không bao giờ bỏ quên hay
xa rời cái chuẩn mực ban đầu. Như vậy, nhân vật văn học là con người được thể hiện bằng
phương tiện văn học. Nội dung của nhân vật nằm trong sự thể hiện của nó.
Như vậy, nhân vật trong tác phẩm là thể hiện khả năng biểu đạt và là tiếng nói của nhà
văn về con người và cuộc đời. Việc đánh giá, phán xét nhân vật phải như là một hiện tương
thẩm mỹ chứ không phải là một hiện tượng xã hội học. Ta có nhìn thấy qua nhìn thấy đằng
sau số phận nàng Kiều là những khái quát của đại thi hào Nguyễn Du về tài mệnh, tài- tình
trong xã hội lúc bấy giờ. Đằng sau tác phẩm “Đời thừa” của nhân vật Hộ không chỉ là sự
thiếu thốn của miếng cơm manh áo mà con là một bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản
đương thời.
Tóm lại, văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn
học miêu tả thế giới một cách hiện tượng. Bản chất văn học là một quan hệ đối với đời sống,
nó chỉ tái hiện được đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như những tấm gương
của cuộc đời.
1.1.1.3. Nhân vật là phương tiện khái quát hiện thực
Chức năng của nhân vật là khái quát quy luật cuộc sống con người, những suy nghĩ,
ước ao, kì vọng của con người. Cho nên nhà văn xây dựng nhân vật là thể hiện những cá nhân
xã hội nhất định và quan niệm đánh giá về cá nhân đó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện
khái quát các tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng. Nhà văn xuất phát từ
những con người trong đời sống để xây dựng nhân vật văn học, song không thể đồng nhất
nhân vật văn học với con người của đời sống, vì nhân vật là sáng tạo của nhà văn.
Nhân vật còn là phương tiện khái quát tính cách số phận con người, tính cách nhân vật
là một hiện tượng xã hội lịch sử xuất hiện trong một hiện thực khách quan. Qua đó nhân vật
dẫn dắt ta đến với đời sống xã hội. Ta đến với ví dụ về những nhân vật quen thuộc: nhân vật
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Qua nhân vật này, ta đã thấy được bộ mặt
thật của xã hội phong kiến đương thời được phơi bày một cách cụ thể và chân thực. Xã hội mà
những con người bản chất vốn trong trắng thật thà như Chí Phèo đã không thể tồn tại. Và cũng
không còn chốn dung thật cho Chí Phèo khi muốn trở về làm một người lương thiện. Đó là
một sự khái quát hiện thực rất lớn mà nhà văn Nam Cao đã thể hiện xuất sắc qua nhân vật Chí
Phèo.
1.1.1.4. Những nét đặc trưng của nhân vật trong tác phẩm văn học
Biểu hiện nhân vật trong tác phẩm rất đa dạng:
Được miêu tả khá đầy đặn từ từ ngoại hình đến nội tâm, từ hành động cho đến tiểu sử
như trong tác phẩm tự sự, kịch.
Chỉ được bộc lộ qua cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩa, cảm nhận như nhân vật trong tác
phẩm trữ tình. Vì thế muốn nhận diện nhân vật cần phải căn cứ vào đặc điểm của nó. Mỗi
nhân vật văn học thường có một chùm dấu hiệu để người đọc có thể nhận biết dễ dàng.
Dấu hiệu đầu tiên là căn cứ vào tên gọi của nhân vật.
Tên riêng của nhân vật chỉ hé lộ cho ta thấy dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Tên nhân
vật đôi khi còn mách bảo ta nhiều điều về nhân vật đó (Thỏ và rùa, Sơn Tinh, Thủy Tinh…)
Trong các sáng tác của những nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, họ thường lấy
tên cho nhân vật của mình rất đẹp như Mai, Lan, Tuyết, Loan Dũng…Còn trong các sáng tác
hiện thực phê phán cùng thời thì của những tác giả khác thì tên gọi nhân vật có phần xấu xí
hoặc quá bình dị như Thị Mịch, Thị Nở, Quýt, Dậu, Dần…
Căn cứ tiếp theo là đặc điểm diện mạo, tiểu sử, tính cách, lời nói, hành động và số phận
của nhân vật.
Tên gọi theo dấu hiệu nghề nghiệp, đặc điểm giới tính, tiểu sử hay một đặc điểm nghệ
thuật nào đó biểu trưng như anh chàng mồ côi, nàng công chúa, lão phú nông… Các nhà văn
muốn làm rõ hơn diện mạo của nhân vật thông qua các chi tiết miêu tả từ ngoại hình, trang
phục. trong văn học hiện thực phê phán, các nhân vật đặc biệt được miêu tả kỹ và thể hiện nhu
cầu cá biết rất cao. Như nhân vật Nghị Quế, Chí Phèo hiện lên trong mắt độc giả không thể lẫn
vào đâu với những nhân vật khác với những nét riêng quá độc đáo.
Do hình tượng văn học là hình tượng phi vật thể cho nên nhân vật văn học là nhân vật
của tưởng tượng, liên tượng. Qua ngôn từ người đọc liên tưởng và tưởng tượng, hình dung
nhân vật theo khả năng liên tưởng của mình. Khả năng và đặc điểm liên tưởng của mỗi người
không giống nhau cho nên nhân vật văn học được cảm nhận vẫn không hoàn toàn giống nhau.
Mỗi nhân vật sẽ có một gương mặt nhân vật riêng của mình. Ví dụ ta nhìn thấy cái đầu trọc
lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt đen cơng cơng của Chí Phèo, ta có dự đoán được bản
tính của Chí Phèo với những người xung quanh, hiểu được nét nổi loạn của một kẻ từng thoát
ly bản quán, không còn coi ra gì những trật tự, chuẩn mực được mọi người trong làng mặc
nhận.
1.1.2. Các kiểu loại nhân vật
Trong quá trình lịch sử văn học, có bao nhiêu nhân vật là có bấy nhiêu đường nét, diện
mạo, số phận, tích cách khác nhau, bởi lẽ mỗi nhân vật là một sáng tạo độc đáo của nhà văn.
Tuy nhiên nếu đặt trong cái nhìn hệ thống cũng có thể thấy những kiểu loại nhất định. Trong
mỗi giai đoạn lịch sử, nhân vật trong văn học lại được thể hiện gắn liền với những quan niệm
nhất định.
Ví dụ tác phẩm “Thủy Hử” của Thi Nại Am gồm hơn 400 nhân vật. Tác phẩm “chiến
tranh và hòa bình” của L.Tônxtôi gồm hơn 570 nhân vật.
1.1.2.1. Nhân vật nhìn từ góc độ thể loại
Với góc độ thể loại, ta chia ra bao gồm: nhân vật chính, nhân vật trung tâm và nhân
vật phụ.
Nhân vật chính là những nhân nhân vật liên can đến các sự kiện chính, các xung đột,
hành động chủ yếu của tác phẩm, thể hiện tập trung đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Nhân vật chính giữ vị trí then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Được khắc
họa tương đối đầy đặn trên các mặt ngoại hình, nội tâm, tính cách, quá trình phát triển.
Ví dụ trong Truyện Kiều nhân vật chính là Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng…. Trong
tác phẩm “Trăng sáng” của Nam Cao là nhân vật Điền.
Khái niệm nhân vật chính đôi khi được mở rộng để chỉ một loại nhân vật có ý nghĩa
tiêu biểu cho toàn bộ sáng tác của một tác giả hay loại nhân vật có ý nghĩa nổi bật về mặt tư
tưởng, thẩm mỹ trong văn học một thời đại nào đó. Tìm hiểu nhân vật chính của nhà văn sẽ
giúp người đọc hiểu được tư tưởng, khát vọng và suy tư của họ trước cuộc đời.
Ví dụ như nhân vật chính trong các sáng tác của Nam Cao là những số phận bi kịch bị
tha hóa dù đó là người nông dân hay trí thức. Nhân vật chính của Nguyễn Tuân lại là những
con người mang vẻ đẹp tài hoa, khí phách. Nhà văn Thạch Lam thì chú ý đến thế giới những
con người bé nhỏ, những số phận mòn mỏi trong một góc khuất của cuộc sống.
Về nhân vật trung tâm. Nhân vật trung tâm là nhân vật được thể hiện đặc biệt nổi bật,
có ý nghĩa tư tưởng, thẩm mỹ sâu sắc nhất, có tầm quan trọng và xuyên suốt tác phẩm. Trong
“Những người khốn khổ” thì nhân vật trung tâm là Gia-Van-Jang, trong “Tam quốc chí diễn
nghĩa” thì nhân vật trung tâm là Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Quan Công, Trương Phi, Tào Tháo.
Và có những tác phẩm lấy tên nhân vật trung tâm làm tên tác phẩm của mình, chúng ta có thể
nhận ra qua tác phẩm: Truyện Kiều, AQ chính truyện, Othello, Hamlet.
Cuối cùng là nhân vật phụ. Nhân vật phụ là loại nhân vật phụ trợ, có tính chất bổ
sung, đóng vai trò khá khiên tốn trong những sự kiện chính của tác phẩm, nhưng không thể
thiếu trong tác phẩm.
Lại lấy ví dụ về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, nhân vật phụ chính là Thúy Vân,
Giác Duyên… Trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, nhân vật phụ là Mai,
bé Heng.
Những nhân vật phụ đôi khi còn được miêu tả một cách sinh động như nhân vật bà cô
của Thị Nở, Lý Cường, hoặc có khi chỉ được nhắc qua bằng một vài tình tiết phụ trợ như anh
thả ống lươn, những người đi chợ buổi sáng… trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
Như vậy, ta có thể thấy trong một tác phẩm, nhân vật chính và nhân vật phụ vẫn gắn
bó với nhau trong một tổng thể hài hòa.
1.1.2.2. Nhân vật nhìn từ góc độ cấu trúc nhân vật
1.1.2.2.1. Nhân vật chức năng (hay mặt nạ)
Trong văn học cổ đại và trung cổ có loại nhân vật không có đời sống nội tâm, các phẩm
chất đặc điểm nhân vật cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối, hơn nữa, sự tồn tại và hoạt
động của loại nhân vật này chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định. Chẳng hạn các
nhân vật anh hùng giết trăn tinh cứu công chúa trong chuyện cổ tích, sau được những phần
thưởng và kết thúc có hậu. Hay nhân vật ông Bụt, người xuất hiện chỉ để ban phép màu hoặc
an ủi, thử thách lòng tốt của con người. Nhân vật mụ phù thủy thực hiện chức năng cản trở,
hãm hại người tốt. Những kẻ địch thủ chuyên là chuyện ác hai người thì nhất định sẽ bị trừng
trị. Rõ hơn đó chính là nhân vật Tấm Cám, Thạch Sanh… Hay kể cả các truyện truyền thuyết
như Thánh Gióng, An Dương Vương… cũng có những nhân vật như vậy.
Hạt nhân của loại nhân vật chức năng chính là các vai trò và chức năng mà chúng thực
hiện trong truyện và trong việc phản ảnh đời sống. Với những đặc điểm nêu trên, nhân vật
chức năng dễ dàng trở thành sự tượng trưng trong đời sống tinh thần, và được hình thức hóa
trong các sáng tác tiếp theo. Những vai trung, vai nịnh trong văn học cổ, tuồng đều ít nhiều
mang tính chất chức năng như vậy. Vai trung thực hiện đạo lí, cương trực, vai nịnh gièm pha,
phản trắc, hãm hại người tốt… Phân tích các nhân vật này cần tìm hiểu các vai trò và chức
năng mang nội dung xã hội thẩm mĩ của chúng. Có như vậy chúng ta mới hiểu được các nhân
vật như anh chàng ngốc, mụ phù thủy, quái vật, hay người đẹp và anh hùng trong truyện.
Trong văn học từ Phục hưng trở đi, nhân vật mặt nạ thường là nhân vật hoạt động chức năng
một chiều hoặc có bề ngoài không đổi để che đậy một cái khác bên trong.
Nói tóm lại, nhân vật chức năng được giao nhiệm vụ thực hiện một số chức năng nào
đó cố định trong tác phẩm và trong việc phản ánh đời sống.
Nhân vật chức năng không được miêu tả đời sống nội tâm và chủ yếu được thể hiện ở
hành động bề ngoài và có tính cách không thay đổi từ đầu đến cuối tác phẩm
Nhân vật chức năng chỉ xuất hiện ở chức năng mà nó đảm nhiệm và hành động gần như
theo một công thức đã vạch sẵn. Do đặc điểm trên nên các nhân vật chức năng dễ trở thành
các tượng trưng cho đời sống tinh thần và được hình thức hóa trong sáng tác.
1.1.2.2.2. Nhân vật loại hình
Lênin nói: “Khái niệm loại là bản chất của giới tự nhiên, là quy luật”.[13,tr. 300]. Do
phản ảnh các loại phẩm chất, tính cách phổ biến mà phân loại hình thường được sử dụng như
những danh từ chung để chỉ các sự vật cùng loại.
Thế nên nhân vật loại hình là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã
hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật nhằm khái quát cái
chung về loại của các tính cách và nhờ vậy mà được gọi là điển hình. Acpagong của Môlie thể
hiện tập trung cho thói keo kiệt. Tactuyp thể hiện tập trung cho thói đạo đức giả, ông Giuocđanh cũng của Môlie là hiện thân cho thói phù phiếm, hiếu danh của các gã tư sản muốn làm
quý tộc. Với văn học Việt Nam, đó còn là nhân vật Nghị Quế, Bá Kiến… tiêu biểu cho bọn
quan lại địa chủ, nhưng mỗi nhân vật vẫn có nét tính cách riêng không lẫn với những người
khác. “Sở Khanh” để chỉ những kẽ lọc lừa hãm hại trinh tiết của những cô gái. “Tú Bà” để
chỉ bọn buôn người ở chốn lầu xanh, trong thời buổi bây giờ người ta hay quen gọi là “má
mì”.
Hạt nhân của loại nhân vật này là bao giờ cũng có một số phẩm chất loại biệt về mặt xã
hội được nêu bật hơn hẳn các tính chất khác. Nhân vật điển hình loại này ít nhiều đều có tính
chất lược đồ. Puskin đã nhận xét rất đúng bản chất của nhân vật loại hình: “Ở Môlie, người
keo kiệt thì keo kiệt, và chỉ có thế”. Belinxki cũng nhận định rằng điển hình vừa là một người,
vừa là nhiều người. Trên người anh ta bao quát rất nhiều người, nguyên cả một phạm trù
người, thể hiện cùng một khái niệm. Dĩ nhiên, nhân vật điển hình như mọi nhân vật văn học
khác, đòi hỏi có một cá tính nhất định, được thể hiện qua một số chi tiết chân thực sinh động
nào đó, chứ không phải là một khái niệm trừu tượng. Nhưng khái niệm loại hình vẫn là cốt lõi
của nó.
Như vậy chung quy lại, nhân vật loại hình là đại diện cho một loại người nhất định ở
trong đời sống. Nhân vật loại hình thể hiện được những nét đặc trưng, ổn định và bất biến ở
các phẩm chất xã hội, đạo đức, tính cách của một loại người nhất định của một thời đại. Và
thú vị một điều là với những nhân vật loại hình được xây dựng thành công, người ta có thể
dung tên của chúng như những danh tư chung (xấu như Thị Nở, đẹp như Thúy Kiều…).
1.1.2.2.3. Nhân vật tính cách
Nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật phức tạp. Ở trên đã nói tính cách như là đối
tượng chủ yếu của nhận thức văn học. Đó là tính cách trong nghĩa rộng. Nhưng không phải
mọi nhân vật văn học đều phản ảnh được cấu trúc của tính cách. Do đó trong nghĩa hẹp, tính
cách là một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật.
Trong nhân vật tính cách, quan trọng không chỉ là cái đặc điểm, thuộc tính xã hội này nọ mà
người ta có thể liệt kê ra được. Tính cách còn thể hiện ở tương quan của các thuộc tính đó với
nhau, tương quan giữa các thuộc tính đó với môi trường, tình huống. Nhân vật tính cách
thường có những mâu thuẫn nội tạ, những nghịch lí, những chuyển hóa, và chính vì vậy tính
cách thường có một quá trình tự phát triển. Và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính
nó. Về cơ bản nhân vật Chí Phèo của Nam Cao là một tính cách. Nhân vật Chí Phèo sau khi ra
tù trở về được xem như là một con người bỏ đi bên lề của xã hội, Chí Phèo cũng có những
cảm nhận nội tâm của một con người bình thường, khao khát một mái ấm gia đình đơn giản,
cũng biết rung động vì một bát cháo hành, và cũng biết cất tiếng nói làm người lương
thiện...Đó là một cá tính phức tạp, và có nhiều nghịch lí. Không thể dễ dàng quy Chí Phèo là
hoàn toàn xấu xa ghê tởm hay một con là một con người bình thường. Trong Chí Phèo có tất
cả sự mâu thuẫn của cả một quá trình vận động tâm lí. Yếu tố nhân vật tính cách có thể tìm
thấy trước đây trong văn học cổ đại, nhưng phải đến khi xuất hiện chủ nghĩa hiện thực thì
nhân vật tính cách mới hình thành rõ nét. Hamlét, Ôtenlô, Macbet của Sếcxpia đã là những
nhân vật tính cách.
Trong nhân vật tính cách, cá tính rất nổ bật. Yếu tố tâm lí, khí chất có vai trò rất quan
trọng trong cấu trúc nhân vật. Đó là “con người này”, độc đáo, cá biệt, cụ thể như HêGhen
từng nói. Đồng thời là nhân vật vận động phát triển. L.Tônxtôi ví con người tính cách “như
dòng sông”. Ông nói : “Người ta ở đời đều sống và hành động một phần theo ý kiến của
mình, một phần theo ý kiến của người khác. Một trong những điều kiện căn bản phân biệt
người này và người khác là mức độ họ sống theo ý kiến của mình và ý kiến của người khác
đến đâu” [27,tr. 183]. Nếu ở nhân vật loại hình, khái niệm loại là hạt nhân của nhân vật thì ở
nhân vật tính cách, hạt nhân của nó là cá tính. Cá tính là giới hạn kết tinh các bản chất xã hội
của tính cách. Bất kì ở đâu, một tính cách như Thúy Kiều, hay Chí Phèo… không thể là phổ
biến. Nhưng cái quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh, các xung đột trong nội bộ tính cách tự
chúng là có ý nghĩa phổ biến, phơi bày một quan niệm về quan hệ giữa con người và hoàn
cảnh. Tính cách còn có một hạt nhân là sự thống nhất của cá tính và cái chung xã hội lịch sử.
Nhưng người ta chỉ gọi là tính cách những người mà sự thống nhất kia biểu hiện một cách nổi
bật các phẩm chất xã hội lịch sử của nó. Tính cách ấy là hiện tượng nổi bật của đời sống con
người. Trong “Nghệ thuật thi ca”, Aristốt viết :“Tôi hiểu tính cách là cái lí do mà chúng ta
gọi nhân vật bằng một tên nào đó”.[1, tr. 135]. Nhân vật sẽ là có tính cách, nếu trong lời nói
hay hành động bộc lộ một khuynh hướng ý chí nào đó, bất kể là nó tốt hay nó xấu như thế nào.
Trong các tính cách bao giờ cũng cần tìm thấy một tính tất yếu hay một tính khả nhiên, mà
theo đó, một ai đó nói gì hoặc làm gì, hoặc việc gì đó xảy ra với họ đều tuân theo tính tất
nhiên, khả nhiên đó.
Ta thấy tính cách được hiểu như là đặc điểm của nhân vật, khuynh hướng xã hội và là
quy luật hành động của nhân vật. Đó là nhận thức chung nhất về tính cách như là nội dung của
mọi nhân vật văn học. Tính cách đó được thể hiện trong toàn bộ sự miêu tả nhân vật, nhưng
trước hết là trong các công thức và dấu hiệu đặc điểm mà ta đã nói ở trên.
Tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, xuất hiện một cách khách quan. Do đó,
chức năng khái quát của nhân vật cũng mang tính chất lịch sử. Trong thời cổ đại xa xưa, khi
nhiệm vụ của xã hội con người là chinh phục thiên nhiên, khai phá địa bàn cư trú, tạo dựng
dân tộc, chống ngoại xâm, thì xuất hiện các nhân vật thần thoại như Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc
Long Quân và Âu Cơ. Cả những nhân vật với tầm vóc và tư thế tầm cỡ như Thánh Gióng.
Nhân vật văn học khái quát các tính cách đối kháng về mặt phẩm chất. Đó là các nhân vật cổ
tích với các tính cách người giàu, kẻ nghèo, người ác, người thiện, có ý nghĩa xác định những
chuẩn mực giá trị trong quan hệ xã hội giữa người với người.
Nhưng ý nghĩa của nhân vật không chỉ là thể hiện tính cách. Vì mỗi tính cách là kết
tinh của một môi trường, cho nên nhân vật còn là người dẫn dắt ta vào một thế giới đời sống
khác.
Tóm lại, nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật phức tạp, có cá tính nhiều mặt. Và cá
tính của nhân vật phải bắt nguồn từ mối quan hệ phức tạp từ điều kiện sống của môi trường
xung quanh. Nhân vật tính cách thường có những mâu thuẫn nội tại, những nghịch lí, những
chuyển hóa, và có một quá trình tự phát triển.
Do vậy, không nên lẫn lộn nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật mặt nạ.
nhưng mặt khác, xây dựng nhân vật tính cách vừa điển hình, vừa có cá tính, vừa có ý nghĩa
loại hình là một yêu cầu tất yếu của chủ nghĩa hiện thực- như Anghen đã nói.
1.1.2.2.4. Nhân vật tư tưởng
Trong văn học có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của nó không phải là cá tính,
cũng không phải là các phẩm chất loại hình, mà là một tư tưởng, một ý thức. Chẳng hạn các
nhân vật “quỷ sứ” như Manforet, Cain, Luxife của Bairon, Giang Vangiang, Giave của
Huygo, Andray cua L.Tônxtôi, Racônhicôp của Đôntôepxki. Giave hoạt động theo ý niệm
phụng sự pháp luật nhà nước, còn Giang Vangiang thì hoạt động theo tư tưởng nhân đạo
phụng sự con người. Racônhicốp hành động theo tư tưởng nổi loạn vô chính phủ chống lại
tình trạng con người bị chà đạp, bị bỏ rơi và không lối thoát. Nhân vật người điên trong “Nhật
kí người điên” của Lỗ Tấn cũng là nhân vật tư tưởng. Đó là hiện thân cho bản thân tư tưởng
lên án lễ giáo “đạo đức nhân nghĩa”, “ăn thịt người” của phong kiến trung cổ. Tôn Ngộ
Không trong Tây Du Kí lại là nhân vật mang tư tưởng nổi loạn đòi tự do, là hiện thân cho sức
mạnh và trí tuệ chống lại cái ác trong xã hội đương thời. Nhân vật Đạm Tiên phát ngôn cho tư
tưởng tài mệnh tương đố của Nguyễn Du. AQ của Lỗ Tấn là nhân vật của “chủ nghĩa AQ”,
một di sản tư tưởng tai hại đối với quốc dân Trung Quốc đầu thế kỉ này. Nhân vật Cha Thư
trong tiểu thuyết “Cha và con” của Nguyễn Khải, nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Bức tranh
của Nguyễn Minh Châu cũng là những nhân vật tư tưởng. Không thể xem trường hợp trên là
điển hình của cha cố hay trường hợp dưới là điển hình của họa sĩ. Nhân vật loại này cũng thể
hiện một tính cách, nhưng cái chính là một hiện tượng tư tưởng diễn ta trong đời sống.
Nhân vật tư tưởng trong văn học cổ và văn học lãng mạn thường mang tính chất tượng
trưng, trong chủ nghĩa hiện thực lại kết hợp mật thiết với yếu tớ tính cách loại hình. Trong
sáng tác, loại nhân vật này dễ rơi vào công thức, minh học, trở thành cái loa tư tưỡng của tác
giả.
Như vậy nhân vật tư tưởng giữ chức năng bộc lộ một tư tưởng. Nhân vật giữ vai trò
phát ngôn hoặc tuyên truyền cho tư tưởng nào đó của các tác giả hoặc tư tưởng của một thời
đại.
Đó là hệ thống phân chia nhân vật theo lí thuyết đã được nghiên cứu từ trước về những
loại nhân vật thường gặp. Tất nhiên cũng còn nhiều cách phân chia và cách hiểu khác nhau tùy
theo người nghiên cứu, và trong văn học cũng còn có thể gặp một số kiểu nhân vật khác nữa.
Các loại nhân vật trên đây tuy xuất hiện không đồng đều trong lịch sử văn học nhưng có thề
tồn tại song song trong một nền văn học, thậm chí trong cùng một tác phẩm. Chúng ta cần
phải ý thức hết sự đa dạng của cấu trúc nhân vật và các khả năng phản ảnh hiện thực của
chúng.
Người viết đã hệ thống lại cách loại nhân vật một cách tương đối và đầy đủ nhất. Thế
nhưng cần phải chú ý là mọi sự phân loại chỉ có tính chất tương đối, bởi thực tiễn sáng tác cực
kì phong phú và đa dạng. Khi đánh giá nhân vật, không nên đòi hỏi nhân vật theo một khuôn
khổ hay so sánh với kiểu nhân vật khác đề tránh sự giản đơn tầm thường, vì nhân vật tích cách
cũng có thể mang những đặc điểm của nhân vật loại hình, tư tưởng…Loại nhân vật này có thể
bao hàm một số yếu tố của loại nhân vật kia. Lấy ví dụ về tác phẩm “Tây du kí” của Ngô Thừa
Ân. Thầy trò Đường Tăng, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng có thể xem là tập thể những nhân
vật tư tưởng, là hình ảnh biểu trương thống nhất của con người truy tầm chân lý, ngộ ra chân
lý ở con đường qui hướng về nội tâm, gắn liền với sự phá tĩnh. Tôn Ngộ Không là hiện thân
của lý trí ưa nổi loạn, thích tranh biện, không chịu bất cứ kiềm tỏa nào. Nhưng nhân vật Ngộ
Không lại là phương tiện đưa con người tới được đích đến mong muốn. Hay Đường Tăng là
hiện thân đầy đủ của phần cảm tính, vừa tiêu cực vừa tích cực vì quá hiền lành và cả tin.
1.1.3. Hệ thống hình tượng nhân vật
Hệ thống hình tượng là toàn bộ mối quan hệ qua lại của các yếu tố cụ thể cảm tính tạo
nên hình tượng nghệ thuật mà trung tâm là mối quan hệ của các nhân vật. Chúng ta đã phân
biệt nhân vật chính diện, phản diện chủ yếu trên bình diện thể hiện đề tài, chủ đề, tư tưởng,
cảm hứng. Ở phương diện kết cấu, hệ thống hình tượng bao gồm một phạm vi rộng hơn, gắn
với tất cả chiều sâu, chiều rộng của nội dung tác phẩm.
Nói đến hệ thống nhân vật là nói đến sự tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể của tác
phẩm. Các mối quan hệ thường thấy của các nhân vật là đối lập, đối chiếu, tương phản, bổ
sung. Sự phản ảnh hiện thực trong các mâu thuẫn xung đột và sự vận động dẫn đến việc tổ
chức các nhân vật đối lập. Đó là sự đối lập giữa giữa thiện và ác, tốt và xấu, giữa thống trị và
bị trị, xâm lược và chống xâm lược, bóc lột và bị bóc lột. Dĩ nhiên quan hệ nhân vật đối lập ở
đây không phải chỉ là một phạm trù xã hội học. Nó gắn liền với sự đối lập của các cá nhân về
phương diện địa vị, cá tính, phẩm chất, chẳng hạn như dũng cảm và hèn nhát, trung thực và
gian dối, trung thành và phản bội, ngay thẳng và nịnh bợ, tham lam và biết điều… Ta dễ dàng
thấy đối lập đó trong các hệ giữa Lí Thông và Thạch Sanh, Tấm và Cám, Lục Vân Tiên và
Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, chị Dậu và vợ chồng nghị Quế, Mị, A Phủ và bố con thống lí Pá Tra;
chị Sứ và dân Hòn Đất với thằng Xăm và lũ ác ôn Mĩ ngụy. Đó là sự đối lập của nhân cách, lí
tưởng, lẽ sống. Cái khéo léo của tác giả là làm sao cho các nhân vật đới lập thù địch có quan
hệ với nhau, ràng buộc nhau ở phương diện nào đó, và do đó mà đối lập càng thêm gay gắt.
Chẳng hạn kết là anh em, cùng quan hệ huyết thống, cùng chung lí tưởng, chung đối tượng
tranh chấp, hoặc loại trừ nhau vì mối thù. Quan hệ đối lập thường loại trừ nhau một mất một
còn, và thường là cơ sở để tạo thành các tuyến nhân vật của tác phẩm.
Quan hệ đối chiếu, tương phản làm nổi bật sự đối lập và khác biệt của các nhân vật. Đó
là thầy trò Đôn Kihôtê và Sanxô Pansa của Xecvantec: một người cao và gầy; môt người thấp
và béo. Một người bị đầu độc bởi những hoang tưởng của tiểu thuyết hiệp sĩ; một người có trí
óc lành mạnh. Một người có lí tưởng cao xa; một người thực dụng, thiển cận. Cả hai thầy trò
như hai tấm gương soi chiếu lẫn nhau. Đó còn là Saclo và Emma trong Bà Bôvari. Một người
đần độn, thỏa mãn, nhút nhát, một người thông minh, đầy khao khát và táo tợn liều lĩnh. Ta
còn thấy sự tương phản đó trong các quan hệ giữa Giang vangiăng và cha Mirien, Giang
vangiăng và Tenacđiê, Giang vangiăng và Giave trong “Những người khốn khổ”. Sự tương
phản làm cho các cặp đối lập, khác biệt hiện ra gay gắt.
Đối chiếu là một mức độ thấp hơn của tương phản. Chẳng hạn đối lập Thúy Kiều và
Thúy Vân trong Truyện Kiều. Đối chiếu tương phản là nguyên tắc kết cấu hết sức phổ biến.
Nó chẳng những làm nổi bật các nhân vật khác tuyến mà con làm cho các nhân vật cùng tuyến
càng trở nên sắc nét. Ta có thể thấy rõ qua sự tương phản của tính khí ba anh em Lưu Bị,
Quan Vũ, Vân Trường trong “Tam quốc chí diễn nghĩa”; Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới,
Đường Tam Tạng trong “Tây du kí”; anh Dậu và chị Dậu, cái Tí và thằng Dần, lí trưởng và
quan phủ trong “Tắt đèn”.
Quan hệ bổ sung là quan hệ của các nhân vật cùng loại, nhằm mở rộng phạm vi của
một loại hiện tượng. Bên cạnh AQ còn có cu Don, Vương râu xồm, vú Ngò trong “AQ chính
truyện”. Bên cạnh chị Dậu còn có binh Chức, Năm Thọ, anh Dậu, cái Tí, cái Tỉu, thằng Dần
đều là nhân vật bổ sung vào gánh nặng của chị. Ta còn thấy thêm chị Hoàng, con chó becgie
và lớp người cặn bã đi tản cư ở một làng quê đã làm nên những nét bổ sung cho tính cách
nhân vật Hoàng trong “Đôi mắt” của Nam Cao. Nhân vật bổ sung thường là nhân vật phụ, làm
cho nhân vật chính trở nên đậm đà và có bề dày hơn. Chúng tuy mang tính chất phụ thuộc,
nhưng đồng thời cũng có tác dụng mở rộng đề tài.
Ngoài quan hệ bổ sung phụ thuộc còn có quan hệ bổ sung đồng đẳng. Các nhân vật
Epghenhi Ơnêghi, Lexki, Tachiana, Ogana trong “Epghenhi Ơnêghi” của Puskin bổ sung cho
nhau, mà cũng thể hiện cuộc sống của một tầng lớp người. Cũng giống như các nhân vật San,
Thứ, Oanh, Đích trong “Sống mòn” của Nam Cao hay các nhân vật trí thức, chính khách của
ngụy Sài Gòn trong tiểu thuyết “Gặp gỡ cuối năm” của Nguyễn Khải.
Hệ thống nhân vật là sự tổ hợp nhân vật làm sao cho chúng phản ảnh nhau, tác động
nhau, soi sáng nhau để cùng phản ảnh đời sống. Trong hệ thống hình tượng của tác phẩm,
nhân vật vừa các vai trò xã hội của nó (giai cấp, nghề nghiệp, địa vị, gia tộc,…), vừa đóng vai
trò văn học (vai trò một công cụ nghệ thuật, thực hiện một chức năng nghệ thuật: vai trò tố
cáo, vai trò tấm gương, vai trò kẻ chống đối, vai trò anh hùng, vai trò phần thưởng, vai trò
tương phản, bổ sung, đối lập…). Các vai trò này gắn bó với nhau trong quan hệ nội dung và
hình thức. Chỉ chú ý vai trò xã hội của nhân vật sẽ đưa đến sự phân tích văn học như phân tích
một hiện tượng xã hội thuần túy. Ngược lại, chỉ chú ý vai trò văn học sẽ biến thành hình thức
thiếu nội dung. Cần kết hợp chúng trong một chỉnh thể nghệ thuật, mới thấy hết nội dung tư
tưởng- thẩm mĩ của tác phẩm.
1.2. Vài nét về tác giả và tác phẩm
1.2.1. Vài nét về tác giả
Tác giả Võ Diệu Thanh sinh năm 1975, là một người con của miền Tây, sinh ra tại rừng
U Minh Thượng, Kiên Giang. Quê ở Châu Phong, Tân Châu, An Giang.
Thời thơ ấu xa cha mẹ, anh em và sống chung với nội. Được nội dạy nhiều ca dao tục
ngữ, thơ Đồ Chiểu. Tác giả đã trải qua một tuổi thơ ít nhiều không suôn sẻ: chịu đựng nhiều
xung đột trong gia đình, một thời phải lăn lộn với đồng ruộng bùn sình…Lớn lên Võ Diệu
Thanh lại lấy những lời nội dạy mà viết lách học hỏi.
Tác giả bắt đầu viết cũng là để bày tỏ những ẩn ức, phiền muộn không nói được với ai.
Đã có lúc nhà văn bận bịu nhiều thứ của một người phụ nữ có gia đình nên định từ bỏ văn
chương (trong đó có cả ý nghĩ tác giả không có năng khiếu). Thế nên có một thời gian dài suốt
chín năm tác giả đã không viết gì, đến năm 2002 mới viết trở lại. Giữ trong lòng với suy nghĩ
:“Biết là viết không bằng ai nhưng nếu ngừng lại sẽ ngày càng tụt hậu nên mình phải quyết
kiên trì.” [24, tr.1]. Cho nên dù có bị chê viết dở, Võ Diệu Thanh càng viết dữ dội hơn, dù
rằng việc viết văn của tác giả cũng không được gia đình ủng hộ.
Hiện nay tác giả đang là giáo viên dạy mỹ thuật ở trường tiểu học C, Chợ Vàm, Phú
Tân, An Giang.