Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp điệp ngữ trong thơ thiếu nhi (cứ liệu lhảo sát SGK tiếng việt tiểu học sau năm 2000)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.85 KB, 88 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1 . Lí do chọn đề tài
Thơ, văn là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của
chúng ta, là tiếng nói, là hơi thở của những con tim đang khao khát chinh
phục những nẻo đường văn chương. Thơ, văn phản ánh cuộc sống bằng hình
tượng và chất liệu để xây dựng hình tượng chính là ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ,
tiếng thơ trở nên chân thực, gần gũi với đời sống hiện thực, thể hiện được trí
tưởng tượng bay bổng, kì diệu và những tình cảm của con tim đang xúc động.
Chiều sâu của sức suy nghĩ, tính chất mẫn cảm và tinh tế của sức sáng tạo,
những trạng thái rung động của tâm hồn…, tất cả chỉ có thể đến với độc giả
bằng nghệ thuật của ngôn từ. Tác giả Đinh Trọng Lạc nhận xét “Cái làm nên
sự kì diệu của ngôn ngữ chính là các phương tiện, biện pháp tu từ”. Cho nên
khi đi vào tìm hiểu, nghiên cứu một tác phẩm nhất thiết phải tìm hiểu ngôn
ngữ, lí giải các yếu tố ngôn ngữ đã được nhà văn lựa chọn, sử dụng để nắm
bắt nội dung tác phẩm.
Là một loại hình lấy nghệ thuật ngôn từ làm phương tiện thể hiện. Văn
chương có khả năng tác động kì diệu đến đời sống tâm hồn của con người.
Góp vào khả năng đó có hiệu quả của các biện pháp tu từ mà điệp ngữ là một
biện pháp tiêu biểu. Một mặt điệp ngữ có khả năng khắc họa hình ảnh gây ấn
tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động. Mặt khác điệp ngữ
còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể, sinh động, diễn đạt được mọi
sắc thái biểu cảm. Tu từ điệp ngữ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm
một cách chân thành và giản dị nhất. Điệp ngữ có tác dụng gợi mở, nhấn
mạnh, tạo cảm xúc mạnh mẽ, độc đáo mà gần gũi với độc giả nhất là với thiếu
nhi. Chính vì vậy tu từ điệp ngữ được sử dụng phổ biến trong thơ đặc biệt là
thơ thiếu nhi. Tu từ điệp ngữ giúp các em hiểu và cảm nhận được những bài
thơ, bài văn hay. Từ đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn,



Hoàng Phương Thảo

1

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

tạo cảm hứng khi viết văn, rèn luyện ý thức yêu quý tiếng Việt, ý thức giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt cho học sinh đặc biệt là học sinh Tiểu học.
Những tri thức này sẽ là nền móng vững chắc để các em tiếp tục học lên các
lớp trên.
Biện pháp tu từ điệp ngữ là một biện pháp xuất hiện với tần số rất cao
trong thơ viết cho thiếu nhi nói chung và thơ trong các bài thơ tuyển dạy trong
sách Tiếng Việt Tiểu học nói riêng. Chính biện pháp tu từ này sẽ giúp các em
học sinh thêm yêu thích hứng thú khi tiếp cận với thơ thiếu nhi, góp vào vốn
tri thức của các em một biện pháp nghệ thuật độc đáo, giúp các em đến gần
hơn với thơ. Nhờ nghệ thuật độc đáo này mà thơ trở nên gần gũi, thân quen dễ
thuộc, dễ nhớ và trở thành những bài học nằm lòng của tuổi thơ.
Hiệu quả tu từ của điệp ngữ trong thơ đã được nhiều tác giả đi sâu tìm
hiểu. Song đây vẫn luôn là một đề tài mở cho những người yêu thích khám
phá cái hay cái đẹp của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ trong thơ thiếu nhi. Đây
cũng là một cơ hội để người làm khóa luận được trang bị thêm vốn kiến thức
chuyên môn, năng lực tư duy, năng lực cảm thụ thơ thiếu nhi, đồng thời làm
giàu vốn ngữ liệu để giảng dạy tốt hơn môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học
trong tương lai.

Từ những lí do trên thôi thúc chúng tôi lựa chọn, đi sâu tìm hiểu đề tài:
“Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp điệp ngữ trong thơ thiếu nhi (Cứ
liệu khảo sát: SGK “Tiếng Việt” Tiểu học sau năm 2000).
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề điệp ngữ đã được các nhà Phong cách học và Ngữ pháp văn bản
quan tâm nghiên cứu từ lâu và đề cập đến trong nhiều giáo trình ngôn ngữ.
Phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của từng chuyên ngành có khác
nhau dẫn đến những quan điểm khác nhau trong vấn đề này. Có thể điểm qua

Hoàng Phương Thảo

2

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

lịch sử nghiên cứu vấn đề thông qua các công trình nghiên cứu của một số
nhà Việt ngữ học như sau:
2.1. Việc nghiên cứu biện pháp điệp ngữ dưới góc nhìn của một số nhà
Ngữ pháp học văn bản
Các nhà Ngữ pháp học văn bản khi nghiên cứu về vấn đề liên kết trong
văn bản đã đưa ra những quan điểm về biện pháp điệp ngữ như sau:
2.1.1. Tác giả Trần Ngọc Thêm (1985), trong cuốn “Hệ thống liên kết văn bản
tiếng Việt”, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, cho rằng: “Dấu hiệu
cho phép phân biệt văn bản với phi văn bản chính là sự liên kết về hình thức
và nội dung của các câu trong văn bản”.

Về mặt liên kết hình thức, tác giả Trần Ngọc Thêm chia các phương
thức liên kết thành 3 nhóm:
- Các phương thức liên kết chung dùng được cho cả ba loại phát ngôn.
- Các phương thức liên kết hợp nghĩa.
- Các phương thức liên kết trực thuộc.
Trong đó, nhóm phương thức liên kết chung bao gồm năm phương thức
liên kết cơ bản. Đó là: phép lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên
tưởng, phép tuyến tính.
Khi giới thiệu về các phương thức liên kết chung tác giả Trần Ngọc
Thêm đã đưa phép lặp từ, ngữ vào phép lặp từ vựng - một loại nhỏ trong phép
lặp. Ông cho rằng: “Phép lặp từ vựng là một dạng thức của phương thức lặp
mà ở đó chủ tố và lặp tố là những yếu tố từ vựng (thực từ, cụm từ)”.
[(11), tr.88]
Tác giả Trần Ngọc Thêm cũng chỉ ra rằng: “Lặp từ vựng là phương
thức liên kết phổ biến nhất trong văn bản”. Đồng thời, tác giả đưa ra các tiêu
chí phân loại phép lặp như sau:

Hoàng Phương Thảo

3

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Căn cứ vào cách thức lặp chủ tố và câu tố, có thể chia lặp từ vựng
thành: lặp từ và lặp cụm từ. Đồng thời lặp cụm từ lại bao gồm lặp hoàn toàn

và lặp bộ phận.
- Căn cứ vào bản chất từ loại của chủ tố và lặp tố, có thể chia thành: lặp
cùng từ loại và lặp chuyển từ loại.
- Căn cứ vào chức năng làm thành phát ngôn của chủ tố và lặp tố có thể
chia thành: lặp cùng chức năng và lặp chuyển chức năng.
[(11), tr 88 - 89)]
2.1.2. Cũng đề cập đến các phương thức liên kết câu trong văn bản, tác giả
Diệp Quang Ban, trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”, NXBGD, 2005, đã đưa
ra 5 phép liên kết cơ bản sau:
- Phép quy chiếu.
- Phép thế.
- Phép tỉnh lược.
- Phép nối.
- Phép liên kết từ vựng.
Trong đó, phép liên kết từ vựng gồm ba phép nhỏ: lặp từ ngữ; dùng từ
đồng nghĩa, gần nghĩa và trái nghĩa; phối hợp từ ngữ.
Điệp ngữ được đề cập đến trong phép lặp từ ngữ của phương thức liên
kết từ vựng.
Theo tác giả Diệp Quang Ban thì phép liên kết từ vựng là “Lựa chọn
những từ ngữ có quan hệ như thế nào đó với những từ ngữ đã có trước, và
trên cơ sở đó làm cho câu chứa từ ngữ có trước với câu chứa từ ngữ mới
được chọn này liên kết với nhau”.
[(1), tr 386]

Hoàng Phương Thảo

4

K34B - GDTH



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Trong đó, phép lặp từ ngữ là việc “Sử dụng trong câu từ ngữ đã được
dùng ở câu trước, theo kiểu nhắc lại y nguyên như vốn có, trên cơ sở đó liên
kết những câu chứa chúng với nhau”.
[(1), tr 386]
Căn cứ về mặt nghĩa của từ, tác giả Diệp Quang Ban chỉ ra mối quan hệ
giữa từ ngữ được lặp (vốn có trước) với từ, ngữ dùng để lặp (xuất hiện sau)
theo hai hướng:
- Đồng nhất trong quy chiếu (có cùng cơ sở quy chiếu).
- Không đồng nhất trong quy chiếu (không cùng cơ sở quy chiếu).
Như vậy, thông qua việc tóm lược lại các công trình nghiên cứu về điệp
ngữ của các nhà Ngữ pháp học, có thể thấy: Quan điểm về điệp ngữ và cách
phân loại điệp ngữ của các nhà nghiên cứu Ngữ pháp học chưa thật thống
nhất. Điều này gây nên những khó khăn nhất định khi tìm hiểu hệ thống nhất
định. Chúng tôi chỉ dừng lại ở việc nêu khái niệm và liệt kê các cách phân
loại để giới thiệu biện pháp tu từ này.
2.2. Việc nghiên cứu biện pháp điệp ngữ dưới góc nhìn của các nhà
Phong cách học tiếng Việt
2.2.1. Từ nửa sau thế kỷ XX, khi lý thuyết ngôn ngữ học bắt đầu phát triển thì
điệp ngữ đã được một số nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Điệp ngữ
thu hút được sự chú ý là bởi hiệu quả biểu đạt của nó trong văn bản, đặc biệt
là trong văn bản nhệ thuật. Tác giả Đinh Trọng Lạc trong “Giáo trình Việt
ngữ”, tập III (Tu từ học), đã phát hiện: trong giao tiếp “không phải do cẩu thả
mà chính do một dụng ý, tác giả muốn nhấn mạnh vào những từ ngữ cần
thiết, để cho tư tưởng, tình cảm biểu hiện trở nên mạnh mẽ, gây ấn tượng sâu
sắc với người đọc. Trong trường hợp này, chúng ta có điệp ngữ”.

[(6), tr.237 - 238]

Hoàng Phương Thảo

5

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Cũng trong giáo trình này, tác giả Đinh Trọng Lạc phân chia thành 5
kiểu điệp ngữ cơ bản, đó là:
- Lặp lại từ ở đầu câu văn.
- Lặp lại từ ở cuối câu văn.
- Lặp lại từ ở giữa câu văn.
- Lặp vòng tròn.
- Lặp cách quãng.
Ông xếp điệp ngữ vào loại các biện pháp tu từ cú pháp và khẳng định: những
cách điệp từ ngữ là “những cách trùng điệp tiêu biểu nhất trong phạm vi cú pháp”.
[(6), tr.238]
2.2.2. Năm 1982, NXBGD, đã cho ra đời cuốn “Phong cách học tiếng Việt”
của nhóm tác giả: Võ Bình, Lê Anh Hiền, Nguyễn Thái Hòa. Trong giáo trình
này kế thừa và bổ sung thêm những phát hiện về biện pháp điệp ngữ, nhóm
tác giả nghiên cứu đã đưa ra 4 kiểu điệp ngữ đó là:
- Điệp nối tiếp.
- Điệp cách quãng.
- Điệp vòng tròn.

- Điệp kiểu câu và điệp phô diễn.
2.2.3. Tiếp tục đề cập đến vấn đề điệp ngữ trong văn bản, năm 1983, tác giả
Cù Đình Tú, trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, NXB
Đại học và trung học chuyên nghiệp đã đưa ra quan điểm của ông về vấn đề
này thông qua việc phân chia các loại điệp ngữ như sau:
- Điệp liên tiếp.
- Điệp cách quãng.
- Điệp đầu.
- Điệp đầu - cuối.
- Điệp cuối - đầu.

Hoàng Phương Thảo

6

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Điệp vòng tròn.
- Điệp theo kiểu diễn đạt .
Qua việc phân loại điệp ngữ như trên có thể thấy cách nhìn của tác giả Cù
Đình Tú vừa có điểm gặp gỡ lại vừa có điểm không đồng nhất với nhóm tác giả cuốn
“Phong cách học tiếng Việt”, (1982). Cách phân chia của tác giả Cù Đình Tú cụ thể
hơn và có khả năng phân loại cao dựa vào vị trí và mục đích của yếu tố điệp.
2.2.4. Năm 1997, trong giáo trình “Phong cách học tiếng Việt”, NXBGD tác
giả Nguyễn Thái Hòa đã đưa ra cách quan niệm và nhìn nhận về điệp ngữ như

sau: “Điệp ngữ là biện pháp lặp lại một hay nhiều lần những từ, ngữ… nhằm
mục đích mở rộng ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc
trong lòng người đọc, người nghe”. Theo đó cách phân chia điệp ngữ cũng có
nhiều điểm khác biệt, theo những tiêu chí khác nhau:
- Theo các yếu tố: điệp ttừ, điệp ngữ, điệp đoạn, điệp câu.
- Theo vị trí: điệp đầu câu, điệp giữa câu, điệp cách quãng, điệp liên tiếp.
- Theo tính chất: điệp đơn giản và điệp phức tạp.
2.2.5. Tác giả Đinh Trọng Lạc, trong cuốn “99 phương tiện và biện pháp tu từ
tiếng Việt”, NXBGD, 1999, kế thừa quan điểm của mình trước đó và quan
điểm của nhiều nhà Việt ngữ học ông đã đưa ra cách nhìn tương đối thống
nhất về điệp ngữ. Ông cho rằng: “Điệp ngữ là một phương tiện tu từ cú pháp.
Đó là sự lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh ý nghĩa,
gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng người đọc, người
nghe”. Theo đó khi phân chia điệp ngữ ông đã đưa điệp đầu câu, điệp cuối
câu, điệp giữa câu vào một loại là “điệp cách quãng”. Có 3 loại điệp cơ bản:
- Điệp ngữ nối tiếp.
- Điệp ngữ cách quãng.
- Điệp ngữ vòng tròn.
[(8), tr.93 - 94]

Hoàng Phương Thảo

7

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Như vậy, qua tìm hiểu các tài liệu liên quan đến điệp ngữ có thể thấy
điệp ngữ được rất nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Đây là biện pháp tu từ
mang lại hiệu quả biểu đạt cao cả ở sắc thái thẩm mĩ và nội dung tư tưởng.
2.3. Việc tìm hiểu hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ các
khóa luận tốt nghiệp
Việc tìm hiểu hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ văn nói
chung không còn là việc làm mới mẻ. Ở phạm vi thơ ca cũng có nhiều công
trình nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này.
Sinh viên Nguyễn Tố Tâm, K24B - Ngữ văn, ĐHSPHN2, đã tìm hiểu
điệp ngữ trong thơ với đề tài “Hiệu quả của phép tu từ điệp ngữ trong thơ Việt
Nam hiện đại”
Sinh viên Nguyễn Thị Bích Hạnh, K26G - Ngữ văn, ĐHSPHN2, khai
thác “Hiệu quả tu từ của việc sử dụng phép điệp ngữ trong thơ Tố Hữu”.
Sinh viên Trần Thị Thanh Bình, K28 - Ngữ văn, ĐHSPHN2, nghiên
cứu về “Hiệu quả của phép tu từ điệp ngữ trong thơ Nguyễn Bính”
Việc liệt kê một số công trình nghiên cứu khoa học về phép điệp từ,
ngữ của một số tác giả trên để thấy nghiên cứu vấn đề này không còn mới mẻ.
Song có thể nói điệp ngữ là một biện pháp tu từ rất quan trọng, có khả năng
tạo ra hiệu quả tu từ đặc biệt trong văn thơ, thu hút được nhiều sự quan tâm
của nhiều độc giả và giới nghiên cứu.
Qua tìm hiểu của chúng tôi nhận thấy đã các công trình nghiên cứu về
điệp ngữ trong thơ xuất hiện khá nhiều ở khoa Ngữ văn. Còn ở khoa Giáo dục
Tiểu học, đặc biệt đối tượng nghiên cứu là các bài thơ trong chương trình
Tiếng Việt Tiểu học thì chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ,
cặn kẽ và có hệ thống, có chăng chỉ dừng lại ở một số nhận xét, minh họa.
Trong các tài liệu mà chúng tôi có được, chưa có tài liệu nào trùng tên với đề
tài khóa luận này.

Hoàng Phương Thảo


8

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Trên cơ sở những gợi ý về mặt lý luận của các nhà nghiên cứu về biện
pháp điệp ngữ, khóa luận đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống “Hiệu quả
nghệ thuật của biện pháp điệp ngữ trong thơ thiếu nhi (Cứ liệu khảo sát
SGK: “Tiếng Việt” Tiểu học sau năm 2000)”. Hy vọng đề tài này sẽ góp
thêm một tiếng nói khẳng định hiệu quả nghệ thuật của biện pháp điệp ngữ
nói chung, đóng góp của các nhà thơ viết cho thiếu nhi nói riêng trên con
đường phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
1 ) Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đề tài này, trước hết chúng tôi nhằm củng cố, nâng cao
hiểu biết cho mình về một biện pháp tu từ trong Tiếng Việt - biện pháp điệp
ngữ.
- Việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng tôi bồi dưỡng năng lực tư
duy, năng lực cảm thụ thơ. Đồng thời đề tài cung cấp những tư liệu cần thiết
cho chúng tôi trong việc giảng dạy sau này ở trường Tiểu học.
2 ) Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trong khuôn khổ một đề tài khóa luận, chúng tôi tập chung thể hiện
những nhiệm vụ sau:
- Tập hợp các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê biện pháp điệp ngữ trong thơ viết cho thiếu nhi

trong sách Tiếng Việt Tiểu học.
- Xử lí số liệu thống kê và phân tích từ góc độ tu từ học nhằm rút ra
nhận xét về hiệu quả nghệ thuật của biện pháp điệp ngữ trong thơ viết cho
thiếu nhi (qua các cứ liệu khảo sát SGK “Tiếng Việt” sau năm 2000).
4. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu “Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp điệp ngữ trong thơ
thiếu nhi (Cứ liệu khảo sát SGK: “Tiếng Việt” Tiểu học sau năm 2000)”.

Hoàng Phương Thảo

9

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

5. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu những bài thơ được tuyển chọn đưa vào
giảng dạy trong SGK “Tiếng Việt” Tiểu học lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4, lớp 5
sau năm 2000. Trong đó, chủ yếu là những bài thơ viết cho thiếu nhi. Song,
bên cạnh đó, còn có những bài thơ không phải chỉ viết cho thiếu nhi như: Việt
Bắc (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Bài thơ về tiểu đội xe không
kính (Phạm Tiến Duật), Tre Việt Nam (Nguyễn Duy)… Số lượng những bài
thơ này không nhiều. Tuy nhiên, khi được tuyển chọn đưa vào giảng dạy ở
Tiểu học tức là đã nhằm phục vụ đối tượng thiếu nhi (học sinh Tiểu học). Vì
vậy đây cũng là đối tượng khảo sát của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu:

- Khảo sát, thống kê, phân loại biện pháp điệp ngữ trong SGK “Tiếng
Việt” Tiểu học lớp 1 , lớp 2, lớp 3, lớp 4, lớp 5.
- Phương pháp phân tích, minh họa, nhận xét, đánh giá, và rút ra kết
luận.
7 . Bố cục
Khóa luận được triển khai theo bố cục sau:
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận
1.1 . Định nghĩa biện pháp điệp ngữ
1.2 . Cơ sở phân loại
1.3 . Giá trị tu từ của điệp ngữ
Chương 2: Kết quả khảo sát,thống kê, phân loại biện pháp điệp ngữ
trong thơ
2.1. Kết quả khảo sát, thống kê, phân loại biện pháp điệp ngữ
2.2. Nhận xét sơ bộ kết quả khảo sát, thống kê, phân loại

Hoàng Phương Thảo

10

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chương 3: Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp điệp ngữ trong thơ thiếu nhi
3.1. Điệp ngữ với chức năng nhấn mạnh nội dung thông báo trong thơ

3.2. Điệp ngữ với chức năng tạo hình - biểu cảm trong thơ
3.3. Điệp ngữ với chức năng liên kết trong thơ
3.4. Điệp ngữ với các tính sáng tạo của nhà thơ
3.5. Điệp ngữ với khả năng tạo sự cộng hưởng về âm điệu, nhạc tính
trong thơ
Kết luận
Tài liệu tham khảo

Hoàng Phương Thảo

11

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận

1.1.Định nghĩa biện pháp điệp ngữ
Trong văn chương, điệp ngữ là một trong những phương tiện tu từ ngữ
nghĩa tiêu biểu, là một phương thức biểu cảm gây ấn tượng. Bàn về biện pháp
này có nhiều định nghĩa khác nhau.
Để phù hợp với nội dung và mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi
chọn định nghĩa về điệp ngữ xét từ hiệu quả sử dụng của tác giả Đinh Trọng
Lạc trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt”, NXBGD, H. 1999:
“Điệp ngữ (còn gọi là: lặp) là lặp lại có ý thức những từ, ngữ,

…nhằm mục đích nhấn mạnh, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra
những cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe”.
1.2. Phân loại
1.2.1. Điệp cách quãng
Điệp cách quãng là kiểu điệp từ, ngữ trong đó người viết đan xen giữa
các từ, ngữ được lặp lại bằng các từ ngữ khác.
Ví dụ1 :
“Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban.
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên…”
( Hành trình của bầy ong - Nguyễn Đức Mậu)

Hoàng Phương Thảo

12

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Ví dụ 2:
“Tôi lại nhìn như đôi mắt trẻ thơ
Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ
Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển

Xanh trời, xanh của những ước mơ…”
(Vui thế hôm nay - Tố Hữu)
1.2.2. Điệp liên tiếp
Điệp liên tiếp là kiểu điệp từ, ngữ trong đó các từ, ngữ giống nhau được
lặp lại liên tiếp trong một ngữ đoạn để tạo ra nội dung bổ sung.
Ví dụ 1:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu)
Ví dụ 2:
Con chim chiền chiện
Bay vút, vút cao
Lòng đầy yêu mến
Khúc hát ngọt ngào
(Con chim chiền chiện - Huy Cận )
1.1.3. Điệp đầu - cuối
Điệp đầu - cuối là kiểu điệp từ, ngữ được vận dụng ở các cấp độ khác
nhau: câu, đoạn văn, văn bản. Đó là cách sắp xếp các từ, ngữ lặp theo các vị
trí mở đầu - kết thúc một câu thơ, một đoạn thơ, một bài thơ.
Ví dụ 1:
Voi vận tải trên lưng quân bị
Vào trận sao cho khỏe như voi
( Sư tử xuất quân - Phỏng theo La Phông –Ten)

Hoàng Phương Thảo

13


K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Ví dụ 2:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
(Nhớ Việt Bắc - Tố Hữu)
Ví dụ 3:
“Tôi ngước nhìn mùa xuân nắng rọi
Bốn mặt quê hương giải phóng rồi
Tôi bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi
Như hàng dừa trước ngõ nhà tôi”.
(Dừa ơi - Lê Anh Xuân)
1.2.4. Điệp cuối - đầu
Điệp cuối - đầu là kiểu điệp mà những từ, ngữ được lặp lại, được sắp
xếp ở các vị trí kết thúc dòng thơ trên và mở đầu dòng thơ liền dưới.
Ví dụ 1:
“Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai”
(Hai bàn tay em - Huy Cận)
Ví dụ 2:
“Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi
Hố ngang hố dọc chữ i chữ tờ.

Thằng tây mà cứ vẩn vơ
Có hố này chờ chôn sống mày đây.
Ớ anh ớ chị nhanh tay
Nhanh tay ta cuốc chôn thây quân thù.”
(Phá đường - Tố Hữu)

Hoàng Phương Thảo

14

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.2.5. Điệp đầu
a. Điệp các từ, ngữ ở đầu dòng thơ:
“Lặp đầu (còn gọi là: điệp) là biện pháp tu từ cốt ở việc lặp lại một vài
yếu tố ở câu đầu trong một số câu tiếp theo”.
Ví dụ1:
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ.
(Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh)

Ví dụ 2:
“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.”
( Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
b. Điệp các từ, ngữ ở câu đầu khổ thơ
Điệp câu đầu khổ thơ là biện pháp tu từ dùng lặp lại các từ, ngữ ở câu
đầu của khổ thơ trước trong một số khổ thơ tiếp theo.
Ví dụ 2:
Ai trồng cây
Người đó có tiếng hát

Ai trồng cây
Người đó có ngọn gió

Hoàng Phương Thảo

15

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Ai trồng cây
Người đó có bóng mát


Ai trồng cây
Người đó có hạnh phúc

Ai trồng cây…
Em trồng cây…
(Bài hát trồng cây - Bế Kiến Quốc)
1.2.6. Điệp cuối
“Lặp cuối (còn gọi: điệp) là biện pháp tu từ cốt ở việc lặp lại một vài
yếu tố ở cuối câu trong một số câu tiếp theo”.
Ví dụ:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
( Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
1.2.7. Điệp vòng tròn
Điệp vòng tròn là một dạng điệp ngữ có tác dụng tu từ lớn. Chữ cuối
câu trước được láy lại thành chữ đầu của sau và cứ thế làm cho câu văn, câu
thơ liền nhau tạo nên sự sinh động và hài hước.
Ví dụ1:
“ …Chim gi là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim gi…”
( Đồng dao)

Hoàng Phương Thảo

16


K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Ví dụ 2:
“Thu về gọi gió heo may
Heo may lá đã vàng cây ngô đồng.
Ngô đồng thả lá theo sông
Sông ơi có thấp thỏm mong thu về ?”
(Biến tấu ca dao - Đỗ Bạch Mai)
1.2.8. Điệp hỗn hợp
Điệp hỗn hợp là kiểu điệp trong đó sử dụng nhiều cách điệp khác nhau
trong một đoạn văn bản.
Ví dụ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)
2.1.9. Điệp theo kiểu diễn đạt
Điệp theo kiểu diễn đạt là kiểu điệp nhằm diễn tả một dụng ý nào đó
của tác giả.
Ví dụ:

Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
“Ngày đi lúa chửa chưa vè
Ngày về lúa đã vàng hoe cả đồng.

Hoàng Phương Thảo

17

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con bồng con mang.”
(Ca dao)
1.3. Giá trị tu từ của điệp ngữ
“Giá trị tu từ” (màu sắc tu từ, sắc thái tu từ, đặc điểm tu từ) là khái
niệm phong cách học chỉ phần thông tin có tính chất bổ sung bên cạnh phần
thông tin cơ bản của một thực từ. Nói cách khác, đó là khía cạnh biểu cảm cảm xúc của ý nghĩa của từ (diễn đạt những tình cảm, sự đánh giá, những ý
định) bên cạnh khía cạnh sự vật - logic ý nghĩa.
[(8), tr.57-58]
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc, giá trị tu từ của điệp ngữ được thể hiện ở
một số phương diện sau:
1.3.1. Nhờ có điệp ngữ, câu văn tăng thêm tính cân đối, nhịp nhàng, hài hòa,
có tác dụng nhấn mạnh một sắc thái ý nghĩa nào đó, làm nổi bật những từ
quan trọng, khiến cho lời nói trở nên sâu sắc, thấm thía và có sức thuyết phục

mạnh. Ví dụ:
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của thực dân Pháp hơn 80
năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập”.
1.3.2. Chức năng tu từ học của điệp ngữ được phát hiện ra trong mối liên hệ
qua lại với ngữ cảnh. Đó là việc gây ra một phản ứng trực tiếp có màu sắc
biểu cảm - cảm xúc ở phía người nghe (người đọc): ngạc nhiên, vui mừng,
bực bội, sỡ hãi… đối với điều mà người nói nói ra.
Ví dụ:
“Giôn - xơn !
Tội ác bay chồng chất
Nhân danh ai

Hoàng Phương Thảo

18

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Bay mang những B.52
Những na pan, hơi độc
Đến Việt Nam
Để đốt những nhà thương, trường học
Giết những con người chỉ biết yêu thương
Giết những trẻ em chỉ biết đến trường

Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá
Và giết cả những dòng sông có thơ ca nhạc họa ?”
(Ê- mi- li, con - Tố Hữu)
Trong giới hạn một phát ngôn, điệp ngữ thường được dùng như một
phương tiện tăng cường logic - cảm xúc nghĩa của phát ngôn.
Trong văn nghệ, điệp ngữ mới phát huy được đầy đủ khả năng tu từ học
của mình ở khả năng tạo hình, mô phỏng âm thanh, diễn tả nhiều sắc thái
khác nhau của tình cảm: vui mừng, cảm động, thiết tha, trìu mến…

Hoàng Phương Thảo

19

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chương 2: Kết quả khảo sát, thống kê, phân loại biện pháp
điệp ngữ trong thơ
2.1. Kết quả khảo sát, thống kê, phân loại biện pháp điệp ngữ
Chúng tôi tiến hành khảo sát 150 bài thơ viết trong SGK Tiếng Việt lớp
1, 2, 3, 4, 5 (sau năm 2000). Qua khảo sát chúng tôi thấy biện pháp tu từ điệp
ngữ đã được sử dụng ở hầu hết các bài thơ. Trong quá trình khảo sát chúng tôi
thống kê được 420 trường hợp sử dụng phép tu từ này. Căn cứ vào cơ sở phân
loại đã trình bày ở chương 1, chúng tôi phân chia các trường hợp điệp thành
các kiểu điệp sau:
2.1.1. Điệp cách quãng

Trong 420 trường hợp sử dụng điệp ngữ chúng tôi thống kê được 147
trường hợp điệp cách quãng (chiếm 35%). Căn cứ vào cách thức sử dụng từ,
ngữ chúng tôi chia điệp cách quãng thành 3 tiểu loại:
a. Điệp các từ, ngữ ở các vị trí khác nhau trong dòng thơ
Loại này thống kê được 132 phiếu (chiếm 90%)
Ví dụ 1:
“Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh”
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Ví dụ 2:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)
Ví dụ 3:
“Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào, bay ra
Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi”
(Cây dừa - Trần Đăng Khoa)

Hoàng Phương Thảo

20

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


b. Điệp các từ, ngữ ở các vị trí khác nhau trong đoạn thơ
Chúng tôi thống kê được 13 phiếu (chiếm 8,8%).
Ví dụ 1:
“Đêm đêm cháu những bâng khuâng
Giở xem ảnh Bác cất thầm bấy lâu.
Nhìn mắt sáng, nhìn chòm râu
Nhìn vầng trán rộng, nhìn đầu bạc phơ.
Càng nhìn càng lại ngẩn ngơ
Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn.”
(Cháu nhớ Bác Hồ - Thanh Hải)
Ví dụ 2:
“Ngôi sao ngủ với bầu trời
Bé nằm ngủ với à ơi tiếng bà
Gió còn ngủ tận thung xa
Để con chim ngủ la đà ngọn cây
Núi cao ngủ giữa chăn mây
Quả sim béo mọng ngủ ngay vệ đường
Bắp ngô vàng ngủ trên nương
Mệt rồi tiếng sáo ngủ vườn trúc xanh.”
(Dòng suối thức - Quang Huy)
c. Điệp các từ, ngữ ở các vị trí khác nhau trong bài thơ
Loại này chiếm tỉ lệ rất ít chỉ có 2 phiếu (chiếm 1,2%)
Ví dụ:
“Trời thu bận xanh
Sông Hồng bận chảy
Cái xe bận chạy
Lịch bận tính ngày

Hoàng Phương Thảo


21

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Con chim bận bay
Cái hoa bận đỏ
Cờ bận vẫy gió
Chữ bận thành thơ
Hạt bận vào mùa
Than bận làm lửa.

Cô bận cấy lúa
Chú bận đánh thù
Mẹ bận hát ru
Bà bận thổi nấu.
Còn con bận bú
Bận ngủ bận chơi
Bận tập khóc cười
Bận nhìn ánh sáng.

Mọi người đều bận
Nên đời rộn vui
Con vừa ra đòi
Biết chăng điều đó

Mà đem vui nhỏ
Góp vào đời chung.
(Bận - Trinh Đường)
2.1.2. Điệp đầu
Điệp đầu được sử dụng trong 112 trường hợp (chiếm 26,7%), được chia
thành các tiểu loại sau:

Hoàng Phương Thảo

22

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

a. Điệp các từ, ngữ đầu dòng thơ
Chúng tôi thống kê được 93 phiếu (chiếm 77%). Từ được điệp có thể
đứng ở đầu các câu thơ liên tiếp nhau hoặc không liên tiếp nhau. Trong loại
này lại chia thành 2 tiểu loại nhỏ:
- Điệp đầu là một từ: có 77 phiếu (chiếm 82,8%).
Ví dụ 1:
“Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Ví dụ 2:
“Suối là tiếng hát của rừng

Từ cơn mưa bụi ngập ngừng trong mây
Từ giọt sương của lá cây
Từ trong vách đá mạch đầy tràn ra.”
(Suối - Vũ Duy Thông)
Ví dụ 3:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
(Nhớ Việt Bắc - Tố Hữu)
- Điệp đầu là một ngữ: có 16 phiếu (chiếm 17,2%).
Ví dụ:
“Những chú ngựa xanh lại nằm trên cỏ
Những chú ngựa hồng lại phi trong lửa”
(Nếu trái đất thiếu trẻ con - Đỗ Trung Lai)

Hoàng Phương Thảo

23

K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

b. Điệp các từ, ngữ đầu ở câu đầu khổ thơ

Kiểu điệp này chúng tôi thống kê được 19 phiếu (chiếm 23%). Đây là
kiểu điệp mà câu đầu của khổ thơ trên được điệp lại ở câu đầu của các khổ thơ
tiếp theo. Các từ, ngữ trong câu thơ có thể được giữ nguyên hoặc có một số
yếu tố được biến đổi cho phù hợp với vần điệu.
Ví dụ 1:
“- Ngày hôm qua ở lại
Trên cành hoa trong vườn

-Ngày hôm qua ở lại
Trong hạt lúa mẹ trồng

-Ngày hôm qua ở lại
Trong vở hồng của con…”
(Ngày hôm qua đâu rồi - Bế Kiến Quốc)
Ví dụ 2:
“Em yêu màu đỏ
Như máu trong tim

Em yêu màu xanh
Đồng bằng, rừng núi

Em yêu màu vàng
Lúa đồng chín rộ

Em yêu màu trắng
Trang giấy tuổi thơ

Hoàng Phương Thảo

24


K34B - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Em yêu màu đen
Hòn than óng ánh

Em yêu màu tím
Hoa cà, hoa sim

Em yêu màu nâu
Áo mẹ sờn bạc”
(Sắc màu em yêu - Phạm Đình Ân)
2.1.3. Điệp cuối
Đây là kiểu điệp xuất hiện rất ít trong các loại điệp. Chúng tôi thống kê
được 14 phiếu (chiếm 3,3%). Điệp cuối có thể điệp liền nhau hoặc không liền
nhau. Căn cứ vào cách thức sử dụng chúng tôi chia điệp cuối thành các loại
sau:
a. Điệp cuối là một từ
Kiểu điệp này có 8 phiếu (chiếm 57,1%).
Ví dụ 1:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Ví dụ 2:

“Ai trồng cây
Người đó có tiếng hát
Trên vòm cây
Chim hót lời mê say”
(Ai trồng cây - Bế Kiến Quốc)

Hoàng Phương Thảo

25

K34B - GDTH


×