Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghệ thuật truyện cổ andersen từ cái nhìn so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.88 KB, 72 trang )

Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Lời cảm ơn
Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu và hoàn thành đề tài khóa luận
Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn so sánh, tôi đã nhận được nhiều
sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học và các thầy cô
trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cùng các bạn sinh viên. Đặc biệt
nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn của thầy giáo, thạc sĩ Nguyễn Ngọc Thi.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo, các bạn sinh
viên. Đặc biệt xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo, Thạc sĩ Nguyễn
Ngọc Thi đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành tốt đề tài khóa luận
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2013

Sinh viên

Nguyễn Thị Quế

1


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đề tài Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn
so sánh là kết quả mà tôi đã trực tiếp tìm tòi, nghiên cứu. Trong quá trình
nghiên cứu có sử dụng một số tài liệu của một số tác giả. Tuy nhiên đó chỉ là
cơ sở để tôi rút ra được những vấn đề cần tìm hiểu ở đề tài của mình. Đây là
kết quả cá nhân tôi hoàn toàn không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các
tác giả khác.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Sinh viên

Nguyễn Thị Quế

2


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 5
1.1. Lí do khoa học......................................................................................... 5
1.2. Lí do sư phạm.......................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 6
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 8

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
6. Cấu trúc khóa luận...................................................................................... 9
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 10
1.1 Khái niệm truyện cổ dân gian ................................................................. 10
1.2 Khái niệm truyện cổ tích ........................................................................ 10
1.2.1 Truyện cổ tích thần kì ..................................................................... 11
1.2.2 Truyện cổ tích sinh hoạt.................................................................. 12
1.2.3 Truyện cổ tích loài vật .................................................................... 13
Chương 2. NGHỆ THUẬT TRUYỆN CỔ ANDERSEN TỪ CÁI NHÌN SO
SÁNH VỚI TRUYỆN CỔ GRIM ................................................................ 14
2.1 Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................. 14
2.1.1 Cách mở đầu câu chuyện ............................................................... 14
2.1.2 Lối kết thúc câu chuyện ................................................................. 17
2.1.3 Nghệ thuật kể ................................................................................ 21
2.1.4 Nghệ thuật kể kết hợp tả ................................................................ 23
2.2 Thế giới nhân vật .................................................................................... 24
2.2.1 Nhân vật là người .......................................................................... 27

3


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

2.2.2 Nhân vật là lực lượng siêu nhiên ................................................... 30
2.2.3 Nhân vật là loài vật ........................................................................ 31
2.2.4 Nhân vật là các vật vô tri ............................................................... 32

KẾT LUẬN ................................................................................................. 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 37
PHỤ LỤC.................................................................................................... 38

4


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Lí do khoa học
Văn học Phương Tây thế kỉ XIX phát triển rực rỡ với nhiều khuynh
hướng, trào lưu và tác giả nổi tiếng. Ta có thể điểm qua một số tên tuổi lớn
như: V.Huygo, Balzac, Diclinx,… Họ là những nhà văn mà cho đến nay sức
mạnh của họ vẫn không ngừng tỏa sáng. Và trong số những tên tuổi ấy, chúng
ta không thể không nhắc đến Andersen.
Hans Chistian Andersen (1805-1875) là nhà văn của những điều kì
diệu, mộng mơ và cả những chua xót, ước vọng không thành. Có những nhà
thơ kì diệu, bằng ngòi bút nhiệm màu của họ, có thể tạo nên làn gió nhẹ để
thức dậy đứa trẻ thơ muôn thuở của lòng ta. Thật ít có người giữ được suốt
đời tấm lòng và con mắt trẻ thơ như Andersen. Chính tấm lòng và con mắt đó
đã giúp ông đọc lên được trong cuốn sách lớn của tự nhiên, của cuộc đời
những điều bí mật mà chẳng một nhà bác học nào khám phá ra được. Ông
nhìn thấy cuộc sống, nghe thấy tiếng nói, hơi thở của cả những vật vô tri: từ
ngọn cỏ, lá cây, hòn sỏi cho đến những đồ đạc thân mật trong nhà như cái
giường, cái kéo, cho đến cả những vật dụng tầm thường nhất nơi bếp núc, đặc
biệt là cả những đồ dùng học tập quen thuộc của các em thiếu nhi. Và thế là

Andersen tạo nên cả một thế giới thần kì nâng tâm hồn người đọc hay người
nghe lên đôi cánh huyền diệu của thơ và tình.
Những lời văn êm ái đầy chất thơ âu yếm, buồn rầu của H.C.Andersen
từ xứ sở Đan Mạch xinh đẹp xa xôi vùng Bắc Âu kia vẫn ám ảnh sống động,
vẹn nguyên trong ta cái thế giới kì diệu với những nàng tiên cá bơi lội dưới
thủy cung; với những cuộc phưu lưu kì thú của chú lính chì dũng cảm để cuối
cùng rơi vào lò sưởi tan chảy, kết thành một trái tim yêu nhiều mộng ảo, buồn
phiền,… Tất cả đã kết tụ lại trong ông để làm nên một người kể chuyện không

5


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

ngừng nghỉ, không biết mệt mỏi về xứ sở, con người thời đại mình bằng cái
nhìn trẻ thơ cùng những triết lí kín đáo, thâm trầm.
1.2 Lí do sư phạm
Việc nghiên cứu đề tài: Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn
so sánh có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp người viết hiểu về ước mơ, hoài
bão của nhân dân Đan Mạch xưa và nay. Đồng thời, nó giúp chúng tôi hiểu
thêm những giá trị nội dung và nghệ thuật mà nhà văn Andersen đã góp cho
nền văn học Đan Mạch nói riêng và kho tàng văn học thế giới nói chung. Các
bài học rút ra từ những truyện cổ Andersen là những công cụ giáo dục sắc bén
với trẻ thơ. Hiểu được giá trị thiết thực của truyện cổ Andersen sẽ là cơ sở
vững chắc cho công tác chăm sóc giáo dục học sinh Tiểu học nói chung và
việc giáo dục thẩm mĩ, tình cảm cho học sinh Tiểu học nói riêng.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn và nghiên cứu “ Nghệ
thuật của truyện cổ Andersen từ cái nhìn so sánh” để bản thân có thêm

kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu mảng văn dành cho thiếu nhi, đặc biệt là truyện cổ
Andersen, các nhà văn, nhà phê bình văn học ít nhiều khẳng định rằng
Andersen là nhà văn xuất sắc của thiếu nhi.
Nhìn chung, những tài liệu tiếng Việt hiện có nghiên cứu về Andersen
đề cập chủ yếu tới vấn đề: Cuộc đời, con người Andersen; những phương diện
nghệ thuật của truyện như yếu tố thần kì trong truyện, hiện thực và mộng ảo
trong “ cô bé bán diêm” của Andersen,…
Cuộc đời Andersen như một huyền thoại, có thể kể ra hàng loạt những
cuốn truyện danh nhân, các bài viết như: Con mắt tiếp cận văn chương, Một
cơ hội hiểu hơn về Andersen. Trong các bài viết của mình, tác giả đều nhấn
mạnh rằng cuộc đời của Andersen không phải là một câu chuyện thần tiên đẹp

6


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

đẽ, mà đó là một quá trình đầy chông gai với muôn vàn cay đắng để vươn lên
trở thành một nhà văn tài năng và có sức sáng tạo kì diệu.
Đề cập tới tác phẩm của Andersen, các nhà nghiên cứu đều khẳng định
giá trị của những câu chuyện kể mà trẻ con và cả người lớn đều yêu thích. Tác
giả Hà Minh Đức viết “ Truyện của Andersen thường kết cấu theo nhiều tầng
ý nghĩa. Có phần linh hoạt, nhẹ nhàng, dí dỏm dành cho trẻ em, có tầng sâu
triết lí mà người lớn có thể rút ra qua những hình ảnh, biểu tượng, nhiều hình
ảnh, nhân vật đối với trẻ em là cuộc đời và con người cụ thể nhưng với người
đọc lớn tuổi lại là những biểu tượng giàu ý nghĩa tượng trưng. Andersen đã

có dụng ý tư tưởng đó và thể hiện linh hoạt trong tác phẩm” [6,77].
Đào Duy Hiệp cho rằng: “ Truyện của Andersen làm ta kinh ngạc, thán
phục vì vẻ đẹp dịu dàng, thanh khiết vì lòng tốt kì diệu qua giọng văn hóm
hỉnh, hiền từ của ông” [8,114].
Nét nổi bật trong truyện là khả năng tưởng tượng kì diệu ở cả nội dung,
tình tiết và hệ thống nhân vật. Tác giả Vân Thanh khẳng định: “Chính sức
tưởng tượng là nguyên cớ tạo nên những truyện kể thật hấp dẫn ở Andersen.
Những tình tiết thật bất ngờ, li kì mà hợp lí liên kết với nhau, như trong một
trận đồ ngoạn mục, để đi đến những kết cục tự nhiên, gần như là khó thay thế
được” [13,30].
Đọc truyện Andersen, ta thấy một lối kể tự nhiên, nhẹ nhàng nhưng đầy
lôi cuốn. Phạm Thành Hưng đã viết: “Andersen đúng nghĩa là một nhà thơ
ngao du trên miền đất của thể loại tự sự. Vì vậy, người kể truyện trong ông
vừa đi vừa kể, nhưng đôi mắt không bỏ sót đến từng cọng hoa héo hoặc một
thứ đồ chơi hỏng vứt bên đường. Ở đâu ông cũng dễ dàng tìm thấy lịch sử và
chất thơ của cuộc đời” [9,27].
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Andersen và những câu
chuyện của ông. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn

7


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

đề tìm hiểu nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn so sánh. Vì vậy, chúng
tôi nghiên cứu cụ thể về đề tài: “Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn
so sánh” và hiểu rằng những thành quả nghiên cứu của các tác giả trước đó
có giá trị vô cùng quý báu. Chúng mở ra hướng giúp chúng tôi tiếp cận và

nghiên cứu thành công đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn
so sánh” giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về truyện cổ Andersen, thấy được nét
độc đáo trong nghệ thuật như cách kể chuyện, hệ thống nhân vật,…từ đó có
cái nhìn toàn diện hơn mà chúng tôi mang lại, phục vụ thiết thực cho công tác
giảng dạy sau này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Với khóa luận này, người viết không tham vọng trình bày mọi khía
cạnh của truyện cổ Andersen mà chỉ dừng lại ở những vấn đề của “Nghệ
thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn so sánh”. Ở đây, chúng tôi chỉ tập
trung so sánh với truyện cổ Grim mà thôi.
Và để hoàn thành khóa luận này, trong phạm vi tư liệu có thể, chúng tôi
đã lựa chọn, nghiên cứu khảo sát văn bản “Truyện cổ Andersen” (Mạnh
Chương (dịch), Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, 2011) và “Truyện cổ
Grim” (Mạnh Chương (dịch), Nhà xuất bản Văn học, 2012). Bên cạnh đó có
sử dụng những thành tựu nghiên cứu của các tác giả khác có liên quan đến nội
dung khóa luận để lí giải các vấn đề được sâu sắc hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp phân loại

8


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH


6. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận gồm:
Mở đầu
Nội dung:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn so sánh với
truyện cổ Grim
Kết luận
Tài liệu tham khảo

9


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận

1.1 Khái niệm truyện cổ dân gian
Theo nghĩa thông thường, truyện cổ là nói tắt của cách nói đầy đủ
truyện cổ dân gian. Truyện cổ dân gian là một khái niệm có ý nghĩa khái quát,
nó bao gồm hết thảy các loại tự sự dân gian do quần chúng sáng tác và lưu
truyền trong dân gian.
Truyện cổ dân gian là khái niệm được dùng để chỉ một bộ phận của văn
học dân gian, bộ phận này gồm nhiều thể loại, trong đó có thể loại truyện cổ
tích. Truyện cổ tích là khái niệm được dùng với hai ý nghĩa chủ yếu: (1) để
chỉ một bộ phận của văn học dân gian; (2) để chỉ truyện cổ tích – một thể loại

của bộ phận truyện cổ dân gian trong văn học dân gian. Trong truyện cổ
Andersen có rất nhiều truyện cổ tích (cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần
kì,…)
1.2 Khái niệm truyện cổ tích
Một thể loại truyện dân gian chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp
với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những số
phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ khi đã có
chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng, có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã
hội.
Khái niệm truyện cổ tích có nội dung rất rộng bao gồm nhiều loại
truyện khác nhau về đề tài, về đặc điểm nghệ thuật có thể phân thành ba loại
chính: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích loài
vật.

10


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

1.2.1Truyện cổ tích thần kì
 Khái niệm truyện cổ tích thần kì
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “ Truyện cổ tích thần kì là bộ phận
quan trọng và tiêu biểu nhất của thể loại cổ tích. Ở truyện này, nhân vật chính
vẫn là con người trong thực tại, nhưng các lực lượng thần kì, siêu nhiên vẫn
có một vai trò quan trọng. Hầu như mọi xung đột trong thực tại giữa người
với người đều bế tắc, không thể giải quyết nổi nếu thiếu yếu tố thần kì.”
 Đặc điểm chung của truyện cổ tích thần kì
Truyện cổ tích thần kì là bộ phận cơ bản và tiêu biểu nhất của thể loại

truyện cổ tích. Hầu như những truyện cổ tích hay nhất, giá trị nhất của tất cả
các dân tộc đều thuộc về cổ tích thần kì. Hầu như mọi xung đột trong thực tại
giữa người với người đều bế tắc, không thể giải quyết nổi nếu thiếu yếu tố
thần kì. Yếu tố thần kì giữ vai trò chủ yếu trong việc tham gia giải quyết các
xung đột, mâu thuẫn trong truyện. Ví dụ ở Việt Nam có các truyện: Tấm
Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa… Truyện đã thể hiện mối quan hệ dì ghẻ - con
chồng; chị em cùng cha khác mẹ ( Tấm Cám ); tình cảm anh em kết nghĩa(
Thạch Sanh )…Những mối quan hệ ấy chứa nhiều mâu thuẫn xã hội. Để giải
quyết những mâu thuẫn ấy phải nhờ các yếu tố siêu nhiên, thần kì như ông bụt
( Tấm Cám ), đàn thần, niêu thần ( Thạch Sanh ), sự biến hóa thần kì… Nhờ
những yếu tố thần kì, nhân vật chính diện được giúp đỡ và chiến thắng cái ác.
Truyện cổ tích thần kì là những truyện chủ yếu phản ánh ước mơ,
nguyện vọng, lí tưởng xã hội của nhân dân thông qua chiến thắng tất yếu của
cái đẹp, cái thiện. Trong truyện cổ tích thần kì, yếu tố kì ảo tham gia như một
phần không thể thiếu trong cốt truyện, làm cho truyện hấp dẫn, thường kết
thúc theo mong ước của nhân dân.

11


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Trong truyện cổ tích thần kì, các nhân vật bao gồm ba loại: Nhân vật
chính diện, nhân vật phản diện và nhân vật trung gian ( nhân vật thần kì hay
vật báu có tác dụng kì diệu ).
Nhân vật chính diện: “ Là nhân vật thể hiện những giá trị tinh thần,
những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả của con người được nhà văn
miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một quan điểm tư tưởng, một

lí tưởng xã hội – thẩm mĩ nhất định.” [ 11, 194]
Văn học thời nào cũng có nhân vật chính diện thể hiện lí tưởng xã hội
và lí tưởng thẩm mĩ nhất định của thời đại mình. Nhân vật chính diện thường
được tác giả đề cao và khi nhân vật này có ý nghĩa mẫu mực cao cho lối sống
của một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc thì nó được gọi là nhân vật lí
tưởng.
Nhân vật phản diện: “ Là nhân vật mang phẩm chất xấu xa, trái với
đạo lí và lí tưởng của con người, được nhà văn miêu tả trong tác phẩm với
thái độ chế giễu, lên án, phủ định.” [ 11, 198]
Cả hai loại nhân vật đều là phạm trù lịch sử, thể hiện mâu thuẫn đối
kháng của con người về mặt hành vi, tính cách và phẩm chất đạo đức.
Giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện có một nhân vật gọi là
nhân vật trung gian ( nhân vật thần kì hay vật báu có tác dụng kì diệu ). Các
nhân vật này giữ vai trò giúp nhân vật chính diện tìm ra lối thoát, giúp giải
quyết những mâu thuẫn giữa các nhân vật chính diện và phản diện. Đây là
thành phần không thể thiếu trong mỗi truyện cổ tích thần kì. Những nhân vật
này làm cho câu chuyện tăng sức hấp dẫn, bí ẩn và đôi khi là truyền tải một
mơ ước về những phép màu thực sự.
1.2.2 Truyện cổ tích sinh hoạt ( hay cổ tích thế sự)
Là những truyện cổ tích không hoặc rất ít các yếu tố thần kì, ở đây các
mâu thuẫn xung đột, xã hội giữa người với người được giải quyết một cách

12


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

hiện thực, không cần đến những yếu tố siêu nhiên. Những yếu tố thần kì nếu

có cũng không giữ vai trò quan trọng và nhiều khi chỉ là đường viền cho câu
chuyện thêm vẻ li kì, hấp dẫn mà thôi. Ví dụ truyện Vợ chàng Trương, Sự tích
con muỗi,…
1.2.3Truyện cổ tích loài vật
Đây là loại truyện cổ tích lấy các loài vật (phần lớn là động vật) làm đối
tượng phản ánh, tường thuật và lí giải chủ yếu. Loại truyện này ở thời kì cổ
xưa hầu hết các dân tộc đều có. Ở đây, các loài vật được nhân cách hóa một
cách hồn nhiên trong trí tưởng tượng của nhân dân thời cổ. Ở Việt Nam, do
những truyện cổ tích loài vật không được sưu tầm ghi chép sớm nên tính chất
cổ xưa, hồn nhiên, chất phác của chúng không còn nguyên vẹn. Nhiều truyện
cổ tích loài vật đã biến tướng thành truyện ngụ ngôn hoặc có tính chất ngụ
ngôn. Ví dụ: Sự tích con con công và con quạ, truyện: Vì sao trâu không có
hàm răng trên,..
“Qua các công trình nghiên cứu công phu và sưu tầm về thơ ca Đức cổ
đại về văn học dân gian, về ngôn ngữ học, hai anh em Grim được coi là
những người sáng lập ra khoa ngữ văn Đức, và là những người đặt nền móng
cho ngành phônclo Đức đầu thế kỉ XIX” – Lê Nguyên Cẩn. Như vậy truyện cổ
Grim chính là từ truyện cổ dân gian Đức, mang dấu ấn về văn hóa Đức. Còn
đối với Andersen, truyện cổ Andersen xuất phát từ truyện kể dân gian Đan
Mạch vì truyện Andersen là một mảng thời thơ ấu của bất cứ người Đan
Mạch nào. Đan Mạch tự gọi mình là đất nước của Andersen, của “Nàng tiên
cá nhỏ”. Một nước chỉ có hơn năm triệu dân, tự hào có một nhà văn mà
những quốc gia có dân số hàng trăm triệu người không có vinh dự có được.
Cả Andersen và hai anh em nhà Grim đều là những nhà văn thiên tài. Tuy
nhiên ở họ có những nét khác nhau riêng biệt mà chúng ta có thể thấy trong
hai tập truyện thành công của họ. Đó là Truyện cổ Grim của hai anh em nhà
Grim và truyện cổ Andersen của nhà văn Andersen. Chúng ta hãy cùng tìm
hiểu nét riêng biệt đó là gì?

13



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Chương 2: Nghệ thuật truyện cổ Andersen từ cái nhìn so sánh
với truyện cổ Grim
2.1 Nghệ thuật kể chuyện
2.1.1 Cách mở đầu câu chuyện
Đọc truyện cổ Andersen, chúng tôi thấy có ba cách mở đầu câu chuyện
đó là: theo lối kể truyền thống, theo lối kể khẳng định và theo lối kể hiện đại.
Tác giả mở đầu câu chuyện theo lối kể truyền thống bằng cụm từ: ngày
xưa, ngày xửa ngày xưa,… Ta có thể thấy qua câu chuyện Chú lính chì dũng
cảm, Andersen đã mở đầu như sau: “ Ngày xưa, có hai mươi năm chú lính
chì, đều là anh em vì họ được làm từ một chiếc thìa bằng chì cũ kĩ. Họ đều
khoác súng và trông ngay ngắn trong bộ quân phục lộng lẫy với màu đỏ và
màu xanh….”. Hay “Ngày xửa ngày xưa có một vị hoàng đế luôn nghĩ đến
những bộ quần áo mới đến nỗi ông đã tiêu hết cả tiền bạc vào việc mua
chúng. Khao khát duy nhất của ông là luôn được mặc đẹp…” đó là cách mở
đầu mà Andersen viết trong truyện Bộ quần áo mới của hoàng đế. Ngoài ra,
cách mở đầu theo lối truyền thống này xuất hiện trong các truyện: Chuyện
đồng xu bằng bạc, Chuyện về hoàng tử chăn lợn, Đôi giày đỏ, Cô bé tí hon,
Bông hoa đậu,… Trong một số truyện: Chó sói và bảy chú dê con, Người hát
rong tuyệt vời, Mười hai anh em, Nàng Rapunzel… của Truyện cổ Grim cũng
được mở đầu như vậy. “ Ngày xửa ngày xưa có một chị dê già có bảy dê con.
Chị ta yêu các con của mình như bất cứ người mẹ nào yêu con. Một hôm, chị
ta quyết định đi vào trong rừng để kiếm thức ăn…” đó là lối mở đầu của Grim
trong truyện Chó sói và bảy chú dê con. Trong truyện Mười hai anh em trai:
“Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua và hoàng hậu sống bình an bên nhau và

họ có mười hai người con trai”. Hay trong truyện Con rắn trắng: “ Ngày xưa
có một nhà vua nổi tiếng là người thông thái. Không thể giấu nổi ông điều gì,

14


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

cứ như ông nhận được thông tin về những điều bí mật nhất qua không gian
ấy…” Grim cũng mở đầu bằng cụm từ ngày xưa quen thuộc. Qua thống kê,
chúng tôi thu được trong truyện cổ Andersen có 12/47 truyện mở đầu theo lối
kể truyền thống, chiếm 25,53%. Trong truyện cổ Grim có 56/70 truyện mở
đầu bằng cách truyền thống và chiếm 80% tổng số truyện.
“Các bạn có bao giờ nghe kể chuyện về chiếc đèn đường già nua
chưa? Cũng chẳng có gì là thú vị lắm, nhưng có thể bạn cũng nên nghe kể về
nó một lần…”. Đây là cách mở đầu trong truyện Ngọn đèn đường già nua,
Andersen đã khẳng định đây là câu chuyện có thật. Hay như trong truyện
Claus Bé và Claus Lớn, Andersen mở đầu câu chuyện và khẳng định đây là
chuyện hoàn toàn có thật: “Ngày xưa có hai người trùng tên nhau cùng sống
trong một ngôi làng. Cả hai đều được gọi là Claus. Một người có bốn con
ngựa, còn người kia chỉ có một con ngựa; cho nên để phân biệt họ với nhau,
dân làng thường gọi người có bốn con ngựa là “Claus Lớn” và người có một
con ngựa là “Claus Bé”. Giờ xin mọi người nghe những gì xảy đến với họ, vì
đây là chuyện có thật…”. Câu chuyện này là có thật, đây là chuyện hoàn toàn
có thật… là cách mà Andersen mở đầu câu chuyện theo lối kể khẳng định.
Người đọc cũng hiểu đó như là lời thề thốt của một nghệ sĩ đang bông lơn,
đang làm ảo thuật. Ông không “tái hiện cuộc sống” với ý thức buộc độc giả
phải nhập thân, thể nghiệm bằng các giác quan theo kiểu hình tượng hiện thực

chủ nghĩa. Ông chỉ tái tạo cuộc sống rồi như muốn nói to lên với độc giả rằng:
Đó là cuộc sống trong mắt tôi! Theo thống kê, lối mở đầu khẳng định này
trong truyện cổ Andersen có 4/47 truyện, đó là: Ngọn đèn đường già nua,
Claus Lớn và Claus Bé, Chuyện của gió, Cây lúa mạch ba góc và chiếm
8,51% tổng số truyện. Còn trong truyện cổ Grim thì không có truyện nào mở
đầu theo lối kể khẳng định.

15


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Mở đầu câu chuyện theo lối kể hiện đại tức là đi thẳng vào vấn đề thì
trong truyện cổ Andersen ta có thể thấy ở một số truyện như: Bà chúa băng
tuyết, Cậu bé Ib và Cô bé Christina, Câu chuyện phiếm của trẻ con, Cô bé
chăn cừu và anh chàng quét ống khói… Rõ ràng, Andersen dẫn dắt độc giả
như một người bạn đồng hành tin cậy. Trong truyện Cô bé chăn cừu và anh
chàng quét ống khói, tác giả mở đầu một cách rất tự nhiên: “Có bao giờ bạn
nhìn thấy một cái tủ chạn bằng gỗ cũ kĩ, đen đi cùng thời gian được trang trí
bằng những hình lá và những hình thù kì quái không?”. Hay với Câu chuyện
phiếm của trẻ con, Andersen mở đầu câu chuyện bằng cách đi thẳng vào vấn
đề: “Tại ngôi nhà của người lái buôn giàu có kia đang diễn ra một buổi liên
hoan của trẻ con. Tất cả bọn trẻ con nhà giàu và nhà quan to đều có mặt ở
đó… Giờ đây họ đang tổ chức liên hoan cho bọn trẻ, và có những câu chuyện
phiếm của chúng được nói bột phát từ đáy lòng…”. Với lối dẫn dắt truyện đối
thoại trực tiếp với độc giả như trên chỉ xuất hiện ở những cây bút tài năng –
những nghệ sĩ đã vững tin rằng: ngòi bút của mình đã thuộc về độc giả, thuộc
về nhân dân. Ở trong truyện cổ Grim, truyện Chuyện kể về cậu bé đi tìm sự

hoảng sợ Grim đã mở đầu trực tiếp như sau “Một người cha có hai người con
trai. Người con lớn thông minh và khôn khéo, có thể đương đầu với mọi tình
huống, trong khi đó người em trai ngu đần, không học hành mà cũng chẳng
hiểu biết gì.”. Hay như trong truyện Tình bạn giữa mèo và chuột, nhà văn
cũng mở đầu rất tự nhiên và hóm hỉnh: “Một anh mèo làm quen với một
chuột. anh ta huyên thuyên về tình yêu và tình bạn vĩ đại của mình đối với chị
chuột nên cuối cùng đã thuyết phục được chị chuột về sống với mình trong
cùng một nhà và góp gạo thổi cơm chung”. Hoặc ở một vài truyện khác trong
truyện cổ Grim cũng có cách mở đầu như vậy: Chuyện cô gái không có bàn
tay, Anh Hans thông minh, Anh thợ may trên thiên đường, Con của Đức Mẹ
Đồng Trinh,… Theo nghiên cứu, chúng tôi thống kê được trong truyện cổ

16


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Andersen có 31/47 truyện mở đầu theo lối kể hiện đại, chiếm 65,96%. Còn
trong truyện cổ Grim có 14/70 truyện chiếm 20% tổng số truyện mở đầu theo
lối kể này.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được rằng truyện cổ Andersen có cách
mở đầu đa dạng, phong phú hơn truyện cổ Grim. Truyện cổ Grim chủ yếu là
sưu tầm, can thiệp ít còn Andersen thiên về kể nhiều hơn, can thiệp vào
truyện nhiều hơn. Trong truyện Cây lúa mạch ba góc, Andersen mở đầu câu
chuyện như sau: “Thường xuyên sau một cơn giông bão, thì cánh đồng lúa
mạch ba góc lại trở nên đen sẹm đi, cứ như có một đám cháy tràn qua. Những
người dân quê nói điều này là do sét đánh gây nên. Nhưng tôi xin kể cho các
bạn nghe những gì chú chim nhạn nói, vì chú chim này đã nghe được câu

chuyện qua cây liễu già mọc gần cánh đồng lúa mạch và hiện nay vẫn ở
đấy…” Một cách mở đầu thật tự nhiên, chân thật mà gần gũi, mang dấu ấn
của cá tính sáng tạo, đó không ai khác chính là nhà văn thiên tài Andersen.
Vậy lối kết thúc câu chuyện của ông thì sẽ như thế nào đây?
2.1.2 Lối kết thúc câu chuyện
Andersen kết thúc các câu chuyện của mình theo hai cách đó là lối kết
thúc đóng và kết thúc mở. Trong lối kết thúc đóng đó có kết thúc có hậu và
kết thúc không có hậu. . Ở lối kết thúc có hậu, những mâu thuẫn, những bế tắc
trong cuộc sống không giải quyết được sẽ có những yếu tố thần kì xuất hiện
lái câu chuyện đi một hướng khác, phù trợ cho các nhân vật thiện, giúp cho họ
vượt qua khó khăn, giải quyết được các mâu thuẫn. Với sự can thiệp của yếu
tố thần kì, bao giờ cái thiện cũng chiến thắng cái ác, nhân vật chính diện bao
giờ cũng chiến thắng nhân vật phản diện. Điều này mang tính chất lí tưởng,
thể hiện ước mơ của con người về sự hoàn thiện và thẩm mĩ cuộc sống.
Trong truyện Bầy chim thiên nga của Andersen, nàng Lidơ xinh đẹp và
các anh của mình đã bị mụ dì ghẻ đuổi ra khỏi cung, các anh còn bị biến

17


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

thành chim để bay đi kiếm ăn. Nàng Lidơ phải chịu rất nhiều đau đớn khi đan
các áo gai cho các anh của mình. Không những vậy nàng còn bị người ta cho
là phù thủy. Truyện kết thúc khi Lidơ đan xong các tấm áo, giải thoát cho các
anh trai và minh oan được cho mình, các anh nàng trở lại thành người và nàng
lấy được nhà vua trẻ, hưởng cuộc đời hạnh phúc. Motif người con riêng bị gì
ghẻ đối sử ngược đãi là một motif rất quen thuộc trong các truyện cổ tích trên

thế giới: Tấm Cám, Lọ Lem, Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn… và kết truyện
bao giờ những người con đó cũng được hưởng một cuộc đời hạnh phúc. Hay
anh lính trong truyện Hộp bật lửa, nhờ gặp được mụ phù thủy, lấy được chiếc
bật lửa thần mà cuộc đời anh đã lật sang trang mới. Từ một anh lính nghèo,
với sự giúp đỡ của ba con chó thần mà anh đã lấy được công chúa, được làm
vua và sống cuộc đời hạnh phúc. Qua thống kê, trong truyện Andersen, ở kết
thúc đóng, chúng tôi thấy có 21/47 truyện kết thúc có hậu, một số truyện như:
Câu chuyện phiếm của trẻ con, Người làm vườn và gia đình quý tộc, Hộp bật
lửa, Cô bé tí hon,… chiếm 44,68%. Trong truyện cổ Grim là các truyện:
Chuyện vua ếch hay là Heinrich trung thành, Chó sói và bảy chú dê con,
Chuyện con rắn trắng, Ba người thợ xe sợi,… có tới 63/70 truyện kết thúc có
hậu, chiếm 90% tổng số truyện. Với kết thúc không có hậu, trong truyện
Andersen có các truyện như: Chuyện của gió, Bà chúa băng tuyết, Cái bóng,
Chú lính chì dũng cảm,… có 13/47 truyện và chiếm 27,66%, ở trong truyện
cổ Grim có 5/70 truyện chiếm 7,14%, đó là các truyện: Tình bạn giữa mèo và
chuột, Kẻ tiện dân, Anh Hans thông minh, Cô Else thông minh, Anh Hans
may mắn.
Những con số biết nói đó cho chúng ta thấy rằng Andersen đã sáng tạo
ra một kiểu cổ tích hiện đại ở phần kết không có hậu. Andersen đã “vi phạm”
khá lớn nguyên tắc của truyện cổ tích dân gian về chức năng của truyện kể ở
hình thái không viên mãn, không có hậu của nó mặc dù nhân vật trung tâm là

18


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

người lương thiện, tốt bụng như: em bé bán diêm, Ruydy,… Ngoài ra còn có

chim, chó hay chú lính chì tan chảy,…
Ta có thể thấy một kết thúc không có hậu trong Nữ thần băng giá. Bé
Ruydy mồ côi cha mẹ ở với ông bà ngoại. Nữ thần Băng giá sai thần Choáng
váng rình bắt em mà không được. Tám tuổi em sang nhà chú ruột ở để học đi
săn. Sau này em trở thành một chàng trai khỏe mạnh, săn bắn tài giỏi nhất
vùng. Babet là con gái ông chủ cối xay rất xinh đẹp và khó gần vì nhà giàu.
Có cuộc thi bắn, Ruydy giành giải nhất vì vậy được người bố chủ cối xay và
con gái đón tiếp. Sau đó, họ yêu nhau nhưng bố Babet thử thách bắt Ruydy
phải mang tổ chim ưng mãi trên đỉnh núi cheo leo về. Được các bạn giúp đỡ,
Ruydy đã thành công. Họ được bố chấp thuận. Hai người đi du lịch bằng tàu
hỏa đến nhà mẹ đỡ đầu của Babet. Tới đó Ruydy lại phải vượt qua một
chướng ngại nữa: người anh họ của Babet cũng mê nàng. Kết thúc hiểu lầm,
ghen tuông đôi vợ chồng sắp cưới ra đảo chơi. Ruydy bơi ra kéo thuyền và bị
Nữ thần Băng giá dìm chết.
Hay trong truyện Nàng tiên cá nhỏ, Nàng tiên cá đã dành trọn tình yêu
cho hoàng tử. Nàng say sưa ngắm nhìn con tàu và hoàng tử trong đêm thanh
vắng. Thế rồi một cơn bão ập tới nhấn chìm con tàu với biết bao sinh mạng và
cả “ hoàng tử mắt đen”. Nàng thấy chàng chìm xuống biển sâu. Mới đầu nàng
thấy vui vì chàng chìm xuống phía nàng, nhưng rồi nàng chợt nhớ ra là con
người không sống được dưới nước, chàng sẽ chỉ là một cái xác chết khi xuống
tới cung điện vua cha. Nàng lao xuống thật sâu, ngoi lên giữa các ngọn sóng,
không hề nghĩ đến sự nguy hiểm của mình, cuối cùng nàng tìm thấy hoàng tử
đang ngoi ngóp giữa biển động. Nàng đưa hoàng tử lên khỏi mặt nước rồi để
mặc sóng đưa đẩy cả hai người. Người đọc không ngờ được rằng hoàng tử và
công chúa thủy cung gặp nhau trong hoàn cảnh này. Thật bất ngờ và lãng

19


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

mạn. Thế nhưng Nàng tiên cá không thể ở được bên hoàng tử lâu, nàng phải
mang chàng vào bờ để mong có ai cứu giúp hoàng tử tội nghiệp.
Cuộc gặp gỡ này tạo nên những thay đổi lớn cho cuộc đời Nàng tiên cá,
làm cho tình yêu của Nàng tiên cá càng sâu đậm hơn. Nàng quyết định đánh
đổi tất cả để được ở bên hoàng tử. Mụ phù thủy độc ác đã giúp nàng toại
nguyện. Mụ đã lấy đi giọng nói và tiếng hát của nàng. Tuy được ở bên hoàng
tử nhưng mọi sự diễn ra không như nàng mong đợi. Hoàng tử đã không cưới
nàng, chàng sẽ cưới công chúa xinh đẹp của nước láng giềng. Sự kiện này cũng
là bước ngoặt lớn trong cuộc đời Nàng tiên cá. Ngày cưới của hoàng tử cũng là
ngày nàng phải tan thành bọt biển. Nàng hoàn toàn có thể trở lại thủy cung để
sống tiếp ba trăm năm của một tiên nữ nếu nàng giết chết hoàng tử. Trong giây
phút phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, nàng phải đấu tranh, tình yêu cao
cả đã chiến thắng, nàng quyết định chết đi để hoàng tử được sống, được hạnh
phúc bên công chúa xinh đẹp. Tuy yếu tố thần kì không giúp cho Nàng tiên cá
được toại nguyện như ước mơ, được sống bên hoàng tử mãi mãi, nhưng yếu tố
thần kì đã giúp cho nàng tránh khỏi cái chết khủng khiếp, giúp nàng không bị
tan thành bọt biển nữa mà trở thành một trong số những người con gái của
không chung, có thân hình trong suốt, có giọng nói nhẹ nhàng, và hơn thế nữa
– nàng có thể có một linh hồn bất diệt nếu nàng làm được điều thiện trong ba
trăm năm, khi đó nàng sẽ được bay lên thiên đàng. Kết thúc truyện không làm
cho người đọc bị hẫng vì cái chết của nàng tiên cá. Vì tuy không được ở bên
hoàng tử nhưng nàng biết hoàng tử sẽ sống hạnh phúc bên nàng công chúa
chàng yêu, và nàng cũng có một linh hồn bất diệt như nàng mơ ước, nàng còn
có thể bay đi khắp nơi để giúp đỡ mọi người. Câu chuyện tưởng tượng mang
tính nhân văn sâu sắc, hoang đường nhưng lại phù hợp với quy luật tự nhiên –
thần tiên không thể sống chung với con người nhưng sẽ luôn ở bên phù trợ cho
con người, mang lại hạnh phúc cho con người.


20


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Với lối kết thúc mở, Andersen có 13/47 truyện và chiếm 27,26%, đó là
một số truyện như: Chuyện về hoàng tử chăn lợn, Người tuyết, Súp làm từ
xiên xúc xích, Chiếc kim mạng,… Đối với Grim, có hai truyện kết thúc mở là:
Freddy và Katy, Rampelstiltskin tí hon chiếm 2,86% tổng số truyện. Trong
truyện của Andersen, người đọc sẽ tự tìm cho mình một kết thúc riêng.
Andersen đã tạo cơ hội cho bạn đọc suy nghĩ, sáng tạo tìm ra một kết thúc
phù hợp. Bởi có những kết thúc với người này là thỏa đáng nhưng với người
khác lại chưa phù hợp hay chưa hợp tình hợp lí.
Ngoài ra, ta có thể đọc được những kết thúc truyện đầy sự hóm hỉnh và
sáng tạo của Andersen. Trong truyện Cây lúa mạch ba góc, sau khi kể về việc
cây liễu già kể cho độc giả nghe về sự ngạo nghễ, lâng láo của cây lúa mạch
ba góc, tác giả kết thúc bằng một giọng văn tự nhiên, hóm hỉnh: “Đây là câu
chuyện mà những con chim nhạn đã kể cho tôi nghe vào một buổi tối khi tôi
van nài họ kể một câu chuyện gì đó cho mình nghe”. Hay một kết thúc của
truyện Cô bé tí hon cũng đầy sự thú vị độc đáo: “- Từ biệt, từ biệt nhé! –
Chim nhạn nói, lòng buồn trĩu nặng khi chú phải rời những miền đất ấm áp
để đến Đan Mạch. Nơi đó chú có một chiếc tổ bên cửa sổ của ngôi nhà trong
đó có nhà văn viết truyện cổ tích đang ở. Chim nhạn hót “ Tu huýt! Tu huýt”
và qua tiếng hót của chim là cả một câu chuyện”. Người đọc luôn nhìn thấy
Andersen như một người nói dối có duyên vậy.
2.1.3 Nghệ thuật kể
Hầu như tất cả các truyện kể trong truyện cổ Grim đều được kể theo

trình tự thời gian. Nhưng trong truyện kể Andersen thì lại khác. Một số truyện
được kể theo trình tự thời gian đó là: Chuyện của gió, Bà chúa băng tuyết,
Cậu bé Ib và cô bé Christina, Câu chuyện phiếm của trẻ con,.. Ngoài ra có
một số truyện như là: Cánh hoa rơi từ thiên đường, Chuyện về hoàng tử chăn
lợn, Những bông hoa của bé Ida,… được kể không theo trình tự thời gian.

21


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Qua thống kê, trong truyện cổ Andersen có 37/47 truyện được kể theo trình tự
thời gian chiếm 78,72%. Ngoài ra có 10/47 truyện được kể không theo trình
tự thời gian. Còn trong truyện cổ Grim thì 100% các truyện đều kể theo trình
tự thời gian. Như vậy, thời gian trong truyện cổ Andersen và truyện cổ Grim
là một “tàn tích” và còn lưu lại rõ rệt và thủy chung nhất với gốc gác truyện
cổ tích dân gian ở tính chất biên niên, kể theo đường thẳng, chuyện gì trước
kể trước chuyện gì sau kể sau và đó cũng là đặc trưng để dễ dàng nhớ và kể
lại được của truyện dân gian. Thời gian cốt truyện của Cô bé bán diêm chỉ
trong khoảng từ chập tối đến đêm giao thừa cho đến sáng hôm sau mồng một
đầu năm. Bắt đầu truyện với: “Rét dữ dội, tuyết rơi. Trời đã tối hẳn. Đêm nay
là đêm giao thừa” và kết thúc truyện bằng: “Ngày mồng một đầu năm hiện
lên trên tử thi em bé…” Còn trật tự kể vẫn tuân theo thứ tự trước sau của thời
gian tự nhiên như trong truyện cổ tích thuần túy.
Thời gian cũng là một trong những yếu tố cơ bản để phân biệt truyện kể
dân gian với truyện kể hiện đại mà ở đó thời gian bị đảo lộn một cách cố ý.
Có thể thấy điều này trong truyện Con lợn kim loại, Andersen đã đảo lộn thời
gian trong truyện. Mở đầu truyện, ông kể về thành phố Florence, nơi có một

bức tượng con lợn bằng đồng ngay trước chợ bán rau xanh. Có một cậu bé
nghèo khổ tới bên con lợn kim loại đó và có những giấc mơ đẹp. Sau này,
cậu ta trở thành một họa sĩ nổi tiếng, tác giả đã kể về xuất xứ của cậu họa sĩ
đó và lí giải những bức tranh của cậu. Rõ ràng, Andersen đã quay ngược thời
gian, đang ở cuộc triển lãm tranh mà ông trở về với quá khứ lí giải hai bức
tranh tuyệt vời của cậu họa sĩ trẻ tài ba đó. Nhưng trong mấy ngày qua, người
họa sĩ trẻ đó đã qua đời. Hay trong câu chuyện Xúp làm từ xiên xúc xích,
Andersen đang kể về cuộc nói chuyện giữa các chị chuột với nhau. Các chị
chuột bàn tán về món xúp làm từ xiên xúc xích, mỗi người đã được cử ra
ngoài để thu thập thông tin cần thiết cho việc nấu món xúp đó. Thế là các chị

22


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

chuột kể về các cuộc chu du của mình. Cuộc chu du của chị chuột thứ nhất,
thứ hai, thứ ba,… Tóm lại thời gian trong câu chuyện đã bị xáo trộn,
Andersen đã đảo lộn nó một cách cố ý để tạo nên những truyện kể hiện đại,
hấp dẫn mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
2.1.4 Nghệ thuật kể kết hợp tả
Trong nghệ thuật tả, có nghệ thuật tả thiên nhiên và tả tâm lí nhân vật.
Ta có thể bắt gặp trong truyện cổ Grim: Câu đó hắc búa, Ba người thợ xe sợi,
Kẻ tiện nhân, Ba chiếc lá rắn, Mẹ Holle,… hầu như tất cả các truyện đều kể
kết hợp tả tâm lí nhân vật. Ta có thể thấy trong truyện Tình bạn giữa mèo và
chuột, Grim miêu tả một anh mèo tham lam. Anh ta cùng chị chuột về sống
chung và dự trữ một liễn nhỏ đựng đầy mỡ. Nhưng anh ta thật xấu tính và
tham lam đã ăn vụng hết liễn mỡ và nói dối chị chuột, chị chuột nói: “Chà,

giờ em biết điều gì xảy ra rồi. Nó rõ như ban ngày rồi còn gì nữa. Anh thật là
một người bạn tử tế quá! Anh đã ăn sạch sành sanh khi anh đi làm cha đỡ
đầu rồi còn gì. Trước hết là lớp váng da, rồi đến nửa chõ mỡ đó, rồi…”
Nhưng chưa kịp hết câu thì chị chuột đã bị anh mèo tóm chặt và nuốt chửng.
Còn trong truyện cổ Andersen có 33/47 truyện miêu tả tâm lí nhân vật, chiếm
70,21%, đó là các truyện như: Chuyện đồng xu bằng bạc, Bộ quần áo mới của
hoàng đế, Đôi giày đỏ, Cái bóng, Gia đình nhà cò,… Ngoài ra một số truyện
miêu tả thiên nhiên trong không gian rộng gồm: Chuyện của gió, Bà chúa
băng tuyết, Cậu bé Ib và cô bé Christina, Câu chuyện của năm, Nàng tiên cá
nhỏ,... chiếm 10,64%. Và có 9/47 truyện miêu tả thiên nhiên trong không gian
hẹp chiếm 19,15% tổng số truyện. Đó là một số truyện như: Câu chuyện
phiếm của trẻ con, Người làm vườn và gia đình quý tộc, Cây táo kiêu ngạo,
Ngôi nhà cũ, Gia đình hạnh phúc…
Hãy nghe Andersen miêu tả thiên nhiên trong truyện Cây táo kiêu
ngạo: “Gió vẫn còn lạnh giá, nhưng từ trong bụi cây và từ trên cây, cánh

23


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

đồng và hoa vọng lại âm thanh chào đón “mùa xuân đến rồi”. Những bông
hoa dại mọc tràn lan, phủ đầy hàng rào,…”. Hay Andersen tả về Nữ thần
Băng giá: “Bên trong sông băng có những hang động bao la, những vực sâu
suốt đến tận trong dãy núi An-pơ. Nơi ấy có một lâu đài tuyệt đẹp. Đó là cung
điện của Nữ thần Băng giá, bà chúa của địa hạt âm u này. Mụ thích phá
phách, đè bẹp và nghiền nát mọi vật. Không chung là của mụ. Mụ có thể lao
nhanh hơn nai lên những đỉnh núi tuyết vĩnh cửu mà người liều lĩnh nhất

cũng phải đẽo bậc thang vào băng mới leo lên được. Có những lần mụ trút
xuống những cành cây thông những thác nước hung dữ nhất để rồi nhảy từ
mỏm đá này sang mỏm đá khác, mớ tóc dài trắng xóa tỏa phất phơ quanh
mình; mụ khoác một áo choàng màu hồ thủy giống như nước các hồ vùng
Hen-vê-chi” Đó là sự nhân cách hóa đầy chất thơ những sức mạnh của thiên
nhiên trên dãy núi An-pơ hiểm trở và hùng vĩ, với những sông băng, thác
nước, bão lốc, những làn tuyết vĩnh cửu…trên đất nước Thụy – sĩ mà nhà thơ
đã từng sống một thời gian.
2.2 Thế giới nhân vật
 Khái niệm nhân vật:
Qua tìm hiểu tài liệu tham khảo chúng tôi thấy có nhiều định nghĩa
khác nhau của các nhà nghiên cứu về nhân vật.
Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử: “ Nói đến nhân vật văn học là nói
đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn
học”.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “ Nhân vật văn
học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học, nhân vật văn
học có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng. Nhân vật văn học là một đơn
vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất với nó với con người thật
trong cuộc sống”.

24


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Nguyễn Thị Quế K35A-GDTH

Còn Lại Nguyên Ân nhận định: “ Nhân vật văn học là hình tượng nghệ
thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự toàn vẹn của con người

trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi là các
con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho những đặc
điểm giống con người. Nhân vật văn học là phương thức nghệ thuật nhằm
khai thác những nét thuộc đặc tính con người, nhân vật có ý nghĩa trước hết ở
các loại hình văn học tự sự và kịch. Các thành tố tạo nên văn học gồm: Hạt
nhân tinh thần của cá nhân, tư tưởng, lợi ích đời sống, thế giới xúc cảm, ý
chí, các ý thức và hành động. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó
mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thực ngay khi tác
giả xây dựng nhân vật với những nét gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật
văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người, nó có
thể xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Nhân vật văn học là một trong
những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh
hướng, một trường phái hay dòng phong cách”.
Các khái niệm trên đã nêu ra những đặc điểm của nhân vật văn học,
nhưng khái niệm nhân vật của tác giả Lại Nguyên Ân - 150 thuật ngữ văn học
– Nhà xuất bản Văn học, là đầy đủ và chuẩn xác hơn cả vì nhân vật văn học
không chỉ bó hẹp trong phạm vi con người mà còn có các con vật, các loài
cây, các loài sinh thể hoang đường được gắn cho những đặc điểm giống với
con người để tái hiện cuộc sống phong phú, phức tạp của con người. Nếu
nhân vật trong các tác phẩm chỉ đơn thuần là con người, xoay quanh mối quan
hệ giữa con người với con người thì văn học nghiêng về sự sao chép đơn điệu
cuộc sống thực. Như vậy sẽ trái với bản chất của văn học, vì văn học là một
loại hình nghệ thuật mang tính ước lệ và sáng tạo, phản ánh hiện thực cuộc
sống.
 Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học

25



×