Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế ở sở thuế ắt ta pư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.92 KB, 84 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING TP. HỒ CHÍ MINH

SÚ LỊ KHAN KẸO PA SỢT

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA, KIỂM
SOÁT THUẾ TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ
Ở SỞ THUẾ ẮT TA PƯ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING TP. HỒ CHÍ MINH

SÚ LỊ KHAN KẸO PA SỢT

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA, KIỂM
SOÁT THUẾ TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ
Ở SỞ THUẾ ẮT TA PƯ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã ngành: 60340102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Mỹ Dung

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật quản lý thuế là một trong những nội dung cơ bản của thu chi Ngân
sách nói chung và của Ngành Thuế nói riêng. Khi áp dụng luật này, mọi đối
tượng nộp thuế có trách nhiệm kê khai, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước
luật pháp về mọi hoạt động của mình. Thực hiện cơ chế này, phương thức
quản lý thuế được đổi mới căn bản, cơ quan thuế chuyển từ việc chủ yếu dùng
quyền lực để quản lý sang chủ yếu hỗ trợ, phục vụ người nộp thuế.
Với chức năng kiểm tra, kiểm soát thuế và việc tôn trọng kết quả tự
tính, tự khai, tự nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện giám sát
hiệu quả vừa đảm bảo khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện, vừa đảm bảo phát
hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Đây là một biện pháp
hữu hiệu nhằm phát hiện, ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp thuế hoàn thành
nghĩa vụ qua đó giúp ngành Thuế giám sát kịp thời và phát hiện những hành
vi vi phạm của người nộp thuế.
Trong thời gian qua, công tác quản lý thu thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư cho
thấy rằng thuế đã góp phần không nhỏ vào động viên nguồn tài chính cho
NSNN, đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và bước đầu đã phát huy
được vai trò công cụ thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Trong những năm
tổ chức thực hiện Luật Thuế đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và không
ngừng được hoàn thiện. Nhưng trước yêu cầu phát triển đồng bộ nền kinh tế
thị trường, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường thu hút đầu
tư nước ngoài, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ đóng góp và phù hợp với yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế (WTO), thì thu thuế ở Ắt Ta Pư đã bộc lộ những
mặt hạn chế nhất định như: giữa các sắc thuế chưa tác động hỗ trợ lẫn nhau,
chưa khai thác hết tiềm năng, chưa thực sự có hiệu quả; trong từng sắc thuế
còn chứa đựng nhiều mục tiêu của các chính sách xã hội, chính sách về ưu đãi
chưa có mục tiêu rõ ràng, quy định thuế suất còn thiếu căn cứ khoa học, chưa
thể hiện rõ sự tương hợp với đường lối hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì lý

do này mà tôi chọn đề tài: “ hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát thuế
trong quản lý thu thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư” để nghiên cứu vừa có tính thực
tiễn hiện tại cũng như trong tương lai.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác thu thuế là một nhu cầu thiết yếu khách quan nhằm tập trung
đủ và kịp thời nguồn thu cho NSNN, đồng thời công tác kiểm tra, kiểm soát
thuế cũng rất quan trọng không kém. Đến nay số lượng các công trình nghiên
cứu khoa học về vấn đề công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu
thuế tại Lào còn hạn chế, chủ yếu chỉ tập trung vào những vấn đề thuộc về
chính sách thuế, đó là: Nâng cao hiệu quả quản lý thuế ở CHDCND Lào của
Phanxay Thammasith (năm 2008); Giải pháp hoàn thiện thuế gián thu ở
CHDCND Lào của Manophap Phonevantha (năm 2009); Sở Công thương
(2010), Báo cáo thống kê việc thành lập doanh nghiệp của tỉnh Ắt Ta Pư năm
2010; Sở Kế hoạch đầu tư (2010), Báo cáo tổng kết việc tổ chức thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm lần thứ VI của tỉnh Ắt Ta Pư năm
2005-2010; Vụ ngân sách nhà nước (2010), Báo cáo tổng kết năm 20092010... Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu vấn đề hoàn thiện công tác kiểm
tra, kiểm soát thuế tại Sở thuế Ắt Ta Pư có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong
phát triển và khai thác các nguồn thu cho ngân sách nhà nước tình nhà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
- Một số lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong
quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ắt Ta Pư.
- Thực trạng công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế tại
Sở thuế Ắt Ta Pư thời gian từ năm 2010 đến nay.
- Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra hệ thống giải pháp
thực thi công tác kiểm tra, kiểm soát thuế trong quản lý thu thuế tại Sở thuế Ắt

Ta Pư.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu số liệu thực tiễn của việc tổ chức thực hiện hoạt
động kiểm tra, thanh ra thuế tại Sở thuế Ắt Ta Pư của Lào trong thời gian 5
năm trở lại đây để làm cơ sở minh chứng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng chủ yếu là thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp các thông tin, số liệu thu thập được trong sở thuế
tỉnh Ắt Ta Pư thời gian qua.
2


5. Đóng góp của luận văn
Nêu những vấn đề lý luận về thuế và công tác kiểm tra, kiểm soát thuế
lồng ghép trong quản lý thu thuế.
Hệ thống hóa số liệu, cập nhật, mô tả thực tiễn công tác kiểm tra, kiểm
soát thuế trên địa bàn tỉnh Ắt Ta Pư theo thời gian.
Làm tài liệu tham khảo tại thư viện trường....để các thế hệ sinh viên sau
làm tài liệu tham khảo học tập và mở rộng đề tài nghiên cứu ở cấp cao hơn.
6. Kết cấu của đề tài
Trong phạm vi đề tài này, ngoài phần mở đầu và kết thúc. Luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về kiểm tra, kiểm soát thuế và quản lý thu thuế.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư từ
năm 2010 đến nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát
thu thuế ở Sở thuế Ắt Ta Pư đến năm 2020.

3



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM TRA, KIỂM SOÁT THU THUẾ
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm tra, kiểm soát thuế
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của kiểm tra, kiểm soát thuế
Hoạt động quản lý Nhà nước chính là sự tác động có định hướng của
chủ thể quản lý (cơ quan thuế) tới các đối tượng quản lý (đối tượng nộp thuế)
nhằm đạt mục tiêu động viên một phần thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà
nước (NSNN). Do vậy kiểm tra, kiểm soát thuế là một công đoạn và là một
yếu tố cấu thành của hoạt động lãnh đạo quản lý nhà nước của cơ quan thuế.
Hoạt động quản lý của cơ quan thuế bao gồm từ việc xây dựng các mục tiêu
kế hoạch trong giai đoạn nhất định đến việc tổ chức để thực hiện các mục tiêu
kế hoạch đó và sau cùng là tiến hành kiểm tra, kiểm soát thuế, việc thực hiện
đó như thế nào để từ đó tác động ngược trở lại từ khâu xác định chủ trương kế
hoạch có hợp lý hay không nhằm đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thuế đạt
hiệu quả cao.
Kiểm tra, kiểm soát thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản
lý thuế theo mô hình chức năng. Bên cạnh việc tôn trọng kết quả tự tính, tự
khai, tự nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện các biện pháp
giám sát hiệu quả vừa đảm bảo khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện, vừa đảm
bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Kiểm tra,
kiểm soát thuế là một biện pháp hữu hiệu nhằm phát hiện ngăn ngừa vi phạm,
giúp người nộp thuế nhận thấy luôn có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại
và kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm của họ.
Kiểm tra, kiểm soát thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với
các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình
thực hiện các thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người
nộp thuế, nhằm bảo đảm pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời
sống kinh tế-xã hội.
Kiểm tra và kiểm soát thuế có những điểm giống nhau và khác nhau
chủ yếu sau:

- Kiểm tra, kiểm soát thuế giống nhau:
+ Về mục đích: phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật thuế.
+ Về cách thức tiến hành: xem xét hoạt động thực tế của đối tượng để
phân tích, đánh giá, phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật thuế.
4


+ Về nội dung: đều xem xét doanh thu, chi phí và lợi nhuận.
+ Về phương pháp: đều phải phân tích xác định rủi ro, truy lần lại việc
xử lý dữ liệu, tính toán lại và xác minh.
- Kiểm tra, kiểm soát thuế khác nhau:
+ Về đối tượng: kiểm soát áp dụng cho các đối tượng có ngành nghề
kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, cơ cấu tổ chức phức tạp hoặc
khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế hoặc để giải quyết khiếu nại tố cáo
hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp.
+ Về phạm vi nội dung: kiểm soát thường là nội dung rộng, phức tạp,
có thể liên quan đến nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau.
+ Về biện pháp áp dụng: kiểm soát được áp dụng các biện pháp mạnh
hơn (tạm giữ tang vật; tài liệu; khám nơi cất giữ tang vật, tài liệu-theo quy
định của luật quản lý thuế).
+ Về hình thức tổ chức: Đoàn có thể tổ chức thành các tổ để đi sâu vào
từng nội dung kiểm soát.
+ Về thời gian: kiểm soát thường là không quá 30 ngày, kiểm tra
thường không quá 5 ngày.
1.1.2 Mục tiêu của kiểm tra, kiểm soát thuế
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế
và các cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác
quản lý thu ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành.
Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát thuế nhằm đánh giá việc chấp

hành các luật thuế của các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát
huy nhân tố tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực.
Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả kiểm tra, kiểm soát, cơ quan
thuế các cấp có thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào
cuộc sống thực tế, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng
thời cải cách được các quy trình quản lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn.
Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát thuế nhằm hướng dẫn, giúp đỡ
đối tượng nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện
luật thuế; đồng thời nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi
hành công vụ.
Thông qua công tác kiểm soát nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn, phòng
ngừa những hành vi tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế
5


trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi về
nghiệp vụ chuyên môn.
1.1.3 Nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát thuế
Để công tác kiểm tra, kiểm soát thuế đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo
những nguyên tắc sau:
- Kiểm tra, kiểm soát thuế phải trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu
liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người
nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định các hành vi vi phạm
pháp luật thuế.
- Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát thuế phải tuân thủ theo pháp luật,
đảm bảo tính đúng đắn khách quan, công khai, dân chủ, khi kết luận một vấn
đề phải có chứng lý, không được suy diễn.
- Kiểm tra, kiểm soát thuế phải thực hiện đúng quy trình do ngành đã
quy định.
- Việc tiến hành kiểm tra, kiểm soát thuế phải thực hiện theo kế hoạch

và nội dung đề cương được duyệt.
- Trong khi kiểm tra, kiểm soát thuế phải tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của quần chúng, phát huy dân chủ động viên tham gia cung cấp tài liệu số liệu
thông tin cho đoàn.
- Nghiêm cấm cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát thuế cố ý làm
sai lệch nội dung vụ việc hoặc mở rộng nội dung, phạm vi kiểm tra, kiểm
soát; lợi dụng quyền hạn để sách nhiễu gây phiền hà cho đơn vị, bao che
người vi phạm hoặc truy ép đơn vị trong việc giải trình, trả lời chất vấn.
- Căn cứ vào mục đích của từng cuộc kiểm tra, kiểm soát thuế đòi hỏi
người ra quyết định thành lập đoàn kiểm soát phải cử đúng những người có
trình độ kỹ năng nghiệp vụ phù hợp.
1.1.4 Vai trò của kiểm tra, kiểm soát thuế
1.1.4.1 Kiểm tra, kiểm soát thuế đã góp phần hoàn thiện cơ chế chính
sách pháp luật thuế
Hệ thống thuế ở CHDCND Lào hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác
nhau. Mỗi sắc thuế điều tiết đến một số đối tượng xã hội nhất định và có
những phương pháp quản lý thu khác nhau. Về cơ bản mỗi sắc thuế khi được
ban hành đều đã được nghiên cứu kỹ và chuẩn bị chu đáo nhưng do đặc điểm
nền kinh tế Lào đang ở thời kỳ chuyển đổi từ hành chính, quan liêu, bao cấp
6


sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên không tránh khỏi
những khiếm khuyết, bất cập. Chính vì vậy, kiểm tra, kiểm soát thuế là nơi
cung cấp các căn cứ, các bằng chứng cụ thể phản ánh một cách chân thực,
sống động các hoạt động diễn ra trong thực tế, để phục vụ cho việc hoàn
thiện, bổ sung các chính sách cho phù hợp.
1.1.4.2 Kiểm tra, kiểm soát thuế là phương tiện phòng ngừa hành vi
vi phạm pháp luật và tội phạm nảy sinh trong hoạt động quản lý thuế
Với tư cách là công cụ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, kiểm

tra, kiểm soát thuế chính là việc xem xét tại chỗ việc làm của các tổ chức, cơ
quan và các cá nhân có đúng quy định của chính sách, pháp luật thuế hay
không ? Qua đó sử dụng các biện pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết
định hành chính nhằm ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng
nộp thuế.
Thực tế cho thấy không có hệ thống pháp luật nào có thể đảm bảo là
không khiếm khuyết. Đây chính là nguyên nhân để các đối tượng lợi dụng, cố
tình lách luật để trục lợi cá nhân. Kiểm tra, kiểm soát thuế phải phát hiện hành
vi tham nhũng, tiêu cực để ngăn ngừa kịp thời.
Ngoài ra, kiểm tra, kiểm soát thuế còn có vai trò quan trọng trong việc
cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện. Thông qua
hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế giúp giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy
chế không cần thiết gây phiền hà đến nhân dân và doanh nghiệp.
1.2 Các hình thức và nội dung về kiểm tra, kiểm soát thuế
1.2.1 Các hình thức kiểm tra, kiểm soát thu thuế
1.2.1.1 Theo tính kế hoạch
Nếu xét theo tính kế hoạch, hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế có hai
hình thức là kiểm tra, kiểm soát thuế theo chương trình, kế hoạch và kiểm tra,
kiểm soát đột xuất.
Kiểm tra, kiểm soát thuế theo chương trình, kế hoạch được tiến hành
theo chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt. Căn cứ vào nguồn lực hiện
có, tình hình chấp hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế,
cơ quan thuế xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thuế và trình cấp thẩm
quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thuế được
phê duyệt.
7


Kiểm tra, kiểm soát thuế đột xuất được tiến hành khi đã phát hiện cơ
quan, tổ chức cá nhân có dấu hiệu vi phám pháp luật thuế, theo yêu cầu của

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền giao.
1.2.1.2 Theo nội dung và phạm vi kiểm tra, kiểm soát thuế
Theo tiêu thức này, kiểm tra, kiểm soát thuế được chia thành hai loại là
kiểm tra, kiểm soát toàn diện và kiểm tra, kiểm soát hạn chế.
+ Kiểm soát toàn diện: với chức năng này, cơ quan chức năng tiến hành
kiểm soát toàn diện sẽ thực hiện các cuộc kiểm soát toàn diện hoặc kiểm soát
tổng hợp về mọi sắc thuế thu nhập, GTGT, TTĐB và các sắc thuế khác trên
cơ sở tờ khai thuế hàng năm.
Đây là loại hình kiểm soát sâu và phạm vi rộng cho phép kết luận về
những vấn đề mà đối tượng nộp thuế chưa tuân thủ pháp luật thuế. Kiểm soát
toàn diện liên quan đến:
- Nhiều sắc thuế-nghĩa là kiểm soát tổng hợp các sắc thuế thu nhập,
GTGT, TTĐB và các sắc thuế khác theo pháp luật thuế.
- Nhiều kỳ tính thuế-đối với những sắc thuế nộp tờ khai năm thì thời kỳ
kiểm tra là những kỳ tính thuế gần nhất và chỉ khi có các phát hiện trong quá
trình kiểm soát thấy cần thiết mới mở rộng phạm vi kiểm soát. Đối với những
sắc thuế nộp tờ khai tháng thì thời kỳ kiểm soát thường là kỳ tính thuế gần
nhất cộng với 2 kỳ tính thuế nữa, tuy nhiên kiểm soát dạng này thường là
ngoài lệ.
- Phạm vi kiểm soát không hạn chế hoặc rộng-các cuộc kiểm soát dạng
này sử dụng các kỹ thuật chọn mẫu thích hợp và sẽ quyết định mở rộng phạm
vi kiểm soát (trên cơ sở rủi ro) và thời kỳ kiểm tra khi các kết quả của công
tác đánh giá rủi ro hoặc các phát hiện trong quá trình kiểm soát chứng minh
sự cần thiết.
- Nhóm đối tượng nộp thuế trọng điểm-phần lớn là đối tượng kiểm soát
toàn diện là các đối tượng nộp thuế lớn.
- Địa điểm tiến hành-thường ở trụ sở của đối tượng nộp thuế chứ không
ở cơ quan thuế.
- Thời gian/độ dài cuộc kiểm soát-thời gian kiểm soát một đối tượng

nộp thuế lớn là 60 ngày (2 cán bộ x 30 ngày) và thời gian kiểm soát toàn diện
đối tượng nộp thuế vừa là 30 ngày (2 cán bộ x 15 ngày).
8


+ Kiểm soát hạn chế (kiểm soát hoàn thuế, một sắc thuế, dự án, phạm
vi hạn chế...)
- Kiểm soát hạn chế là loại kiểm soát bị hạn chế về phạm vi, có thể là
kiểm soát hoàn thuế GTGT, kiểm soát dự án về hạng mục chi phí hoặc một
chỉ tiêu nào đó trên bảng cân đối kế toán hoặc báo cáo lỗ lãi.
- Một cách khác để xác định kiểm soát hạn chế là công việc kiểm soát
chỉ hạn chế đối với một số chỉ tiêu nhất định và không bao gồm các phép thử
hay các bước tuần tự kiểm soát cần thiết cho phép cán bộ kiểm soát đánh giá
được tổng thể mức độ tuân thủ hay không tuân thủ pháp luật thuế của ĐTNT
bị kiểm soát. Thông thường kiểm soát bao gồm việc rà soát lại các chứng từ
liên quan trực tiếp đến (các) vấn đề được kiểm tra. Loại hình kiểm soát này
thường được bắt đầu từ một trong những nguồn sau:
• Đề xuất của bộ phận rà soát các tờ khai
• Một dự án hay chương trình liên quan đến vấn đề cụ thể cần được
kiểm tra
• Hướng dẫn của cán bộ kiểm soát cấp cao hơn
• Kiểm soát 1 ĐTNT khác về 1 vấn đề cụ thể
Kiểm soát hoàn thuế cần tập trung vào các hồ sơ hoàn thuế rủi ro cao,
và chỉ kiểm soát thời kỳ yêu cầu hoàn thuế. Tính tin cậy và chính xác của hồ
sơ hoàn thuế cần được kiểm tra thử trên cơ sở chọn mẫu. Đối với kiểm soát
hoàn thuế, chỉ khi kết quả chọn mẫu cho thấy cần mở rộng kiểm soát thêm thì
mới cần tiến hành xác minh thêm. Thông thường, kiểm soát hoàn thuế ĐTNT
lớn hoàn tất trong 15 ngày, ĐTNT vừa là 10 ngày.
1.2.1.3 Theo địa điểm tiến hành kiểm tra, kiểm soát
Kiểm tra, kiểm soát tại bàn

Việc kiểm soát hoặc kiểm tra tại bàn có thể áp dụng đối với bất kỳ tờ
khai thuế nào, bao gồm kiểm tra các chỉ tiêu thu nhập, chi phí hoặc hoàn thuế.
Kiểm soát tại bàn không cần đến tận cơ sở ĐTNT. Phạm vi kiểm soát
thường hạn chế chỉ để xác minh một số vấn đề cụ thể đã được cán bộ rà soát
tờ khai lưu ý hoặc được lưu chuyển qua các khâu (xử lý trước đó).
Kiểm soát tại bàn thực hiện đối chiếu chéo những thông tin kê khai
trong tờ khai cụ thể, xác minh các phép tính về trừ chi phí sử dụng vốn và
kiểm tra chéo dữ liệu thông qua việc yêu cầu ĐTNT mang đến và xuất trình
9


sổ sách, chứng từ mua vào, bán ra tại cơ quan thuế. Thông thường kiểm soát
tại bàn đối với ĐTNT lớn hoàn tất trong 3 ngày, đối với ĐTNT vừa là 1 ngày.
Kiểm tra, kiểm soát tại bàn bao gồm:
+ Một sắc thuế hoặc một chỉ tiêu - chỉ kiểm soát hoặc xác minh một sắc
thuế như thuế lợi tức, thuế lương, thuế khấu trừ tại nguồn. Kiểm soát tại bàn
cũng được áp dụng để kiểm tra một hạng mục chi phí hoặc chỉ tiêu nào đó
trên tờ khai.
+ Một kỳ tính thuế.
+ Phạm vi hạn chế hoặc hẹp - đối chiếu chéo những thông tin kê khai
trong tờ khai cụ thể, xác minh các phép tính về trừ chi phí sử dụng vốn và
kiểm tra chéo dữ liệu thông qua việc yêu cầu ĐTNT mang đến, xuất trình sổ
sách, chứng từ mua vào, bán ra tại cơ quan thuế.
+ Nhóm ĐTNT trọng điểm - cả nhóm ĐTNT lớn và vừa.
+ Địa điểm tiến hành - cơ quan thuế.
+ Thời gian/độ dài cuộc kiểm soát - kiểm soát tại bàn đối với ĐTNT
lớn hoàn tất trong 3 ngày, đối với ĐTNT vừa là 1 ngày.
Kiểm tra, kiểm soát tại cơ sở của đối tượng kiểm tra, kiểm soát
Kiểm tra, kiểm soát thuế tại cơ sở là một công cụ chủ yếu trong chương
trình kiểm soát của Cơ quan thuế. Thời gian cần thiết để thực hiện công việc

này là từ một vài giờ cho đến vài tuần tuỳ thuộc bản chất của cuộc kiểm soát,
và hoặc quy mô và tính phức tạp của hoạt động của đối tượng nộp thuế. Kiểm
soát tại cơ sở thường là việc kiểm tra chi tiết nhưng cũng có lúc chỉ là việc
kiểm tra một phần sổ sách kế toán thông thường của ĐTNT ngay tại trụ sở
làm việc của ĐTNT. Kiểm soát tại cơ sở có thể được tiến hành bởi một cán bộ
kiểm soát hoặc một đội kiểm soát. Đội kiểm soát sử dụng từ hai cán bộ kiểm
soát trở lên và có thể bao gồm những thành viên có những kỹ năng khác nhau.
Đặc điểm của kiểm tra, kiểm soát tại cơ sở của ĐTNT:
+ Kiểm tra và sử dụng các kỹ thuật kiểm soát đối với những chứng từ
kế toán được ĐTNT lưu giữ.
+ Trao đổi với đối tượng nộp thuế
+ Quan sát đánh giá.
+ Có thể yêu cầu bất cứ người nào thuộc ĐTNT đang kiểm soát cung
cấp thông tin;
+ Có thể yêu cầu thông tin từ bên thứ ba.
10


1.2.2 Nội dung kiểm tra, kiểm soát thuế
Căn cứ vào kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thuế, nhóm phân tích phải
thực hiện quá trình tập hợp và phân tích rủi ro các thông tin chuyên sâu tại cơ
quan thuế, nhằm kiểm tra tính xác thực đối với các hồ sơ khai thuế, báo cáo
tài chính thông tin, các nghi vấn cần doanh nghiệp cung cấp thêm thông tin
hoặc những nội dung nghi ngờ cần tiếp xúc với doanh nghiệp để làm rõ
(thông tin chung về doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức hạch
toán, liên doanh liên kết, đối tác kinh doanh, hợp đồng mua bán hàng, tăng
giảm tài sản, biên bản xác nhận công nợ nội bộ, công nợ người bán, người
mua...).
Việc kiểm tra, đối chiếu số liệu tổng hợp tại trụ sở của NNT được thực
hiện tuỳ theo phạm vi, quy mô, nội dung cuộc kiểm soát, kiểm tra . Các nội

dung kiểm tra đối chiếu số liệu tổng hợp gồm:
+ Kiểm tra hồ sơ đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, mã số thuế,
tình hình đăng ký sử dụng hoá đơn...
+ Kiểm tra đối chiếu tài liệu, hồ sơ gửi cơ quan thuế với thực tế xuất
trình của doanh nghiệp: báo cáo quyết toán tài chính quí, năm; tờ khai thuế
Giá trị gia tăng, bản xác định số thuế Thu nhập doanh nghiệp tạm nộp theo
qúy, tờ khai thuế Thu nhập doanh nghiệp tự quyết toán năm và các tờ khai
quyết toán thuế khác liên quan đến nội dung ghi tại quyết định kiểm soát,
kiểm tra.
+ Kiểm tra việc mở sổ sách và tính hợp pháp: sổ cái, các sổ theo dõi chi
tiết theo các chuẩn mực kế toán nhà nước quy định, đối chiếu số liệu tổng hợp
giữa sổ chi tiết với bảng cân đối số phát sinh và bảng tổng kết tài sản.
+ Ngoài ra, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể cần kiểm tra xem xét các
tài liệu, hồ sơ liên quan khác: số thuế đầu kỳ trước chuyển sang, xác nhận của
cơ quan thuế, cơ quan kho bạc nhà nước về số nộp ngân sách trong kỳ, các tài
liệu liên quan đến hoàn thuế, miễn giảm thuế ...
Kiểm tra chi tiết, lập hồ sơ chứng lý tại trụ sở NNT gồm các nội dung
sau:
+ Kiểm tra sổ sách, chứng từ và các hồ sơ liên quan đến nội dung kiểm
tra, kiểm soát thuế.
+ Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh: đối chiếu số liệu
hạch toán, số liệu tính, kê khai, thu nộp thuế và hạch toán thực tế của doanh
11


nghiệp với các chuẩn mực nhà nước quy định (quy định luật, pháp lệnh thuế
và các văn bản hướng dẫn thi hành; các cơ chế tài chính và chuẩn mực kế toán
Nhà nước ban hành...).
+ Thực hiện lập hồ sơ chứng lý kiểm soát, kiểm tra, hồ sơ chứng lý
được coi là tài liệu gốc để lập biên bản kiểm soát, kiểm tra, gồm: Các biên

bản ghi nhận kết quả đối chiếu; các bản sao chụp các tài liệu có liên quan kể
cả các bức ảnh, đoạn băng ghi lại những việc làm sai của DN (phân tán kho
quỹ, cất giấu chứng từ, tài liệu...)
+ Trường hợp cần thiết phải giám định tài liệu, cần lập biên bản thu giữ
tài liệu ghi rõ tình trạng của tài liệu đó (kể cả hiện vật nếu có) để yêu cầu cơ
quan có trách nhiệm giám định.
1.2.3 Quy trình kiểm tra, kiểm soát thuế
Quy trình kiểm tra, kiểm soát thuế là các trình tự và các bước công việc
cụ thể bắt buộc phải tuân thủ khi thực hiện một quyết định kiểm tra, kiểm soát
thuế, một chương trình kiểm tra, kiểm soát hay một kế hoạch kiểm tra, kiểm
soát cụ thể. Ngoài công tác lập kế hoạch kiểm tra, kiểm soát hàng năm và
công tác báo cáo thực hiện kết quả kiểm tra, kiểm soát thì kiểm tra, kiểm soát
bao gồm một loạt các bước lôgich với nhau từ lúc cán bộ kiểm tra, kiểm soát
nhận hồ sơ cho đến khi hoàn thành, được thể hiện dưới dạng sơ đồ như sau:

12


Sơ đồ 1.1: Quy trình kiểm tra, kiểm soát thuế
Giao hồ sơ cho cán bộ kiểm soát
Rà soat hồ sơ tại bàn
Liên hệ với:
- Đối tượng nộp thuế
- Kế toán viên
- Người đại diện

Gặp mặt lần đầu với ĐTNT
- Phỏng vấn lần đầu
- Tham quan cơ sở kinh doanh
- Xem xét sổ sách và chứng từ


Công việc kiểm soát:
- Áp dụng những kỹ thuật kiểm soát
- Quy mô cuộc kiểm soát
Kiến nghị/lập biên bản:
- Phỏng vấn kết thúc
- Công văn thông báo biên bản
Báo cáo kiểm soát và các báo cáo khác
Đóng hồ sơ
(Nguồn: quy định của luật quản lý thuế sửa đổi năm 2005)
1.2.4 Tổ chức kiểm tra, kiểm soát thuế
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát thuế được tổ chức theo hệ thống dọc gắn
với mô hình tổ chức cơ quan thuế.Hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế được
13


phân cấp theo mô hình tổ chức cấp trung ương và địa phương (Cục thuế vùng,
tỉnh).
Bộ phận kiểm soát ở trung ương chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch
kiểm soát quốc gia, chuyển tải các mục tiêu của kế hoạch cho các cán bộ kiểm
soát địa phương và giám sát việc thực hiện kế hoạch.
Kiểm soát của Trung ương chịu trách nhiệm chung về việc xây dựng kế
hoạch kiểm soát quốc gia hàng năm, các cơ quan địa phương sẽ chịu trách
nhiệm cung cấp đầu vào liên quan đến các ĐTNT mà họ quản lý để xây dựng
kế hoạch kiểm soát quốc gia. Các cơ quan địa phương chịu trách nhiệm kiểm
tra, kiểm soát các ĐTNT lớn và vừa.
1.2.5 Kiểm tra, kiểm soát thuế trong hệ thống tự khai tự nộp
Trong quản lý thuế, trên thế giới có hai phương thức chủ yếu là kiểm
tra trước khi chấp nhận và tự khai tự nộp:
- Kiểm tra trước khi chấp nhận là phương thức mà trong đó tờ khai thuế

phải được kiểm tra soát xét ở một mức độ nhất định trước khi thông báo chính
thức số thuế phải nộp của ĐTNT.
- Tự khai tự nộp là phương thức mà trong đó tờ khai thuế được chấp
nhận ngay (ngoại trừ trường hợp có những sai sót về tính toán hoặc trình bày).
Sau đó các tờ khai thuế sẽ được chọn mẫu để kiểm tra, kiểm soát.
Mặc dù còn những tranh luận nhất định, phương thức tự khai tự nộp
được xem là một phương thức có nhiều ưu điểm hơn và được áp dụng ngày
càng rộng rãi với mục đích cải thiện tính tuân thủ và tính hiệu quả thông qua
việc thu được tiền thuế sớm hơn, thực hiện một chương trình kiểm tra, kiểm
soát có trọng tâm.
Hệ thống tự khai tự nộp nhấn mạnh đến sự tự giác tuân thủ của ĐTNT
nhưng nó phải đi kèm với một hệ thống kiểm tra, kiểm soát thuế chặt chẽ và
các hình phạt nghiêm khắc cho các hành vi vi phạm. Do đó, một trong những
vấn đề cốt lõi đểbảo đảm tính tuân thủ hệ thống tự khai tự nộp là việc kiểm
tra, kiểm soát thuế có hữu hiệu hay không.
Việc kiểm tra, kiểm soát thuế trong hệ thống tự khai tự nộp nhằm thỏa
mãn các mục tiêu sau:
- Phát hiện các hành vi ẩn lậu thuế và thu hồi số thuế bị ẩn lậu.

14


- Thúc đẩy sự tự giác tuân thủ. Bởi lẽ khi ĐTNT hiểu rằng nếu sai
phạm trong việc khai thuế thì sẽ bị phát giác và bị phạt, họ sẽ quyết định lực
chọn việc tuân thủ luật thuế.
- Thu thập thông tin cho việc hoàn thiện hệ thống. Với các dữ liệu thu
thập được qua quá trình kiểm tra, kiểm soát thuế sẽ hình thành được một hệ
thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phát triển các công cũ đánh giá rủi ro sai
lệch thuế, đồng thời điều chỉnh những điểm chưa rõ ràng trong luật định.
Kiểm tra, kiểm soát thuế trong hệ thống tự khai tự nộp, việc lựa chọn

đối tượng kiểm tra là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành
công của các mục tiêu đề ra cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế. Cụ thể là:
- Nếu chọn các đối tượng có rủi ro sai lệch thuế thấp để kiểm tra sẽ tốn
kém thời gian nhưng không phát hiện được các trường hợp ẩn lậu thuế, không
thu hồi được các khoản thuế bị ẩn lậu.
- Nếu các đối tượng được chọn để kiểm tra theo một khuôn mẫu có
định, một số ĐTNT có thể không bao giờ được chọn để kiểm tra, đều này sẽ
không khuyến khích được sự tuân thủ.
- Việc thu thập thông tin để đánh giá mức độ tuân thủ luật thuế, xây
dựng cơ sở dự liệu chuẩn cũng như phát triển các công cụ đánh giá rủi ro theo
lậut định và hoàn thiện các quy định thuế đòi hỏi cách thức lựa chọn các đối
tượng kiểm tra, kiểm soát phải tính toán để có được các kết quả phù hợp.
1.2.6 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát
thuế
1.2.6.1 Hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thuế
Trong lĩnh vực thuế, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế
không chỉ xét đơn thuần theo giá trị bằng tiền. Hiệu quả của công tác kiểm
tra, kiểm soát thuế là hiệu quả thực hiện các chính sách thuế, phát huy các tác
dụng vốn có của mỗi loại thuế đối với sản xuất và đời sống xã hội, phục vụ
công tác quản lý các đối tượng nộp thuế trong quá trình chấp hành pháp luật
về thuế trên cơ sở công tác quản lý thuế đạt được hiệu quả là tối đa với chi phí
quản lý ở mức tối thiểu. Hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát thuế phải
được xem xét trên các góc độ hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả
chính trị.
- Hiệu quả kinh tế: Khai thác đầy đủ kịp thời các khoản thu Luật định
về thuế vào Ngân sách nhà nước.
15


- Hiệu quả xã hội: Công tác kiểm soát góp phần thực hiện bình đẳng,

công bằng xã hội.
- Hiệu quả chính trị : Là hiệu quả thực hiện các chủ trương, chính sách
kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước
Để đánh giá được hiệu quả của công tác kiểm soát, kiểm tra thuế cần
phải căn cứ vào hệ thống các tiêu chuẩn, chỉ tiêu đánh giá. Chúng ta sẽ cùng
xem xét hệ thống các tiêu chí đó trong mục tiếp theo.
1.2.6.2 Các tiêu chuẩn đánh giá
Các tiêu chí định lượng
Các tiêu chí định lượng thể hiện ở kết quả thực tế của nghiệp vụ kiểm
tra, kiểm soát thuế đã được tiến hành. Đó là kết quả cụ thể của việc thực hiện
nhiệm vụ được giao hoặc kết quả đem lại của các nghiệp vụ kiểm tra, kiểm
soát thuế. Các tiêu chí này thường gồm:
+ Tình hình thực hiện kế hoạch kiểm soát: Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch
về số đối tượng kiểm soát, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành về
số thời gian so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số vụ việc
khiếu tố giải quyết được so với kế hoạch năm...
+ Tình hình vi phạm pháp luật thuế đã phát hiện qua kiểm tra, kiểm
soát: Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ vi phạm
pháp luật thuế/Tổng số đối tượng kiểm soát, kiểm tra bình quân/kiểm soát
viên hàng năm; chi phí bằng tiền trực tiếp cho kiểm soát, kiểm tra...
+ Hiệu quả trực tiếp của kiểm tra, kiểm soát : Đánh giá tiêu chí này
thường dựa vào các chỉ tiêu như: Chi phí kiểm tra, kiểm soát so với số thuế
truy thu đã nộp NSNN; Tỷ lệ giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định truy
thu thuế theo biên bản kiểm soát, kiểm tra thuế khi giải quyết khiếu nại của
đối tượng kiểm tra, kiểm soát; Tỷ lệ trường hợp đối tượng kiểm tra, kiểm soát
chấp nhận hoàn toàn kết luận kiểm tra, kiểm soát; Tỷ lệ số thuế truy thu được
nộp vào NSNN/tổng số thuế truy thu....
Mặc dù có thể tính toán cụ thể được một số chỉ tiêu đã kể trên, song
trên thực tế đa số các chỉ tiêu không thực sự phản ánh rõ hiệu quả kinh tế của
công tác kiểm tra, kiểm soát. Bên cạnh việc tính toán các chỉ tiêu này trong

năm, để đánh giá chính xác hơn tính hiệu quả, cần phải so sánh với các năm
trước để đánh giá xu hướng biến động của các chỉ tiêu, có như thế mới thấy rõ
những tiến bộ của từng khâu công tác.
16


Các chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính thường là hệ quả của hoạt động kiểm tra, kiểm
soát mà không thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là những hiệu
quả có tính xã hội, chính trị như:
+ Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật. Tiêu chí này có thể đo
lường được thông qua so sánh tỷ lệ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng
kiểm tra, kiểm soát thuế qua các năm, đặc biệt là những đối tượng đã được
kiểm tra, kiểm soát (mức độ tái phạm).
+ Tác dụng ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế; tạo sự công
bằng giữa các ĐTNT; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Có thể đánh giá
tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ đối tượng vi phạm bị xử lý truy thu thuế
và xử phạt hành chính thuế (chia theo mức xử phạt).
+ Tác dụng phòng chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan thuế và tạo
lòng tin của ĐTNT vào hoạt động kiểm soát, kiểm tra. Có thể đánh giá qua
chỉ tiêu: Tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật trong kiểm soát, kiểm tra; tỷ lệ
cán bộ thuế vi phạm pháp luật bị xử lý (chia theo hình thức); những vụ việc vi
phạm quan trọng và nhạy cảm được phát hiện và xử lý...
Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát được
đánh giá theo kỳ (quý, năm) và được chia theo nhiều sắc thuế; theo hình thức
kiểm soát; theo loại đối tượng nộp thuế và từng nội dung kiểm soát, kiểm tra
tương ứng.
1.3 Quản lý thuế và mô hình quản lý thuế
1.3.1 Khái niệm quản lý thuế
Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan

thuế nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào Ngân
sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quản lý thuế có vai trò bảo đảm cho chính sách thuế được thực thi
nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Chính sách thuế thường
được thiết kế nhằm thực hiện những chức năng của thuế như điều tiết kinh tế
vĩ mô phục vụ mục tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu nhập
nhằm bảo đảm sự công bằng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy
nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực nếu quản lý thuế thực hiện
điều hành, giám sát tốt để ai là người nộp thuế thì phải nộp thuế và người nộp
thuế phải nộp đúng, nộp đủ và nộp đúng hạn số thuế phải nộp vào NSNN. Vì
17


vậy, có thể khẳng định Quản lý thuế có vai trò quyết định cho sự thành công
của từng chính sách thuế.
1.3.2 Mục tiêu quản lý thuế
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận
lợi cho người nộp thuế nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà
nước và cơ quan quản lý thuế kiểm tra thu đúng, thu đủ tiền thuế.
- Quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ
quan quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý
thuế.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ
ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà
nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế.
1.3.3 Nguyên tắc quản lý thuế
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo
quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Tất
cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đều có trách nhiệm tham gia
quản lý thuế.

- Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của Luật quản lý thuế
và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
1.3.4 Nội dung quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp thuế
1.3.4.1 Khái niệm về cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
Tự kê khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó người nộp thuế
tự giác tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế: người nộp thuế căn cứ vào các
qui định tại các Luật thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính
xác, nộp tờ khai thuế và nộp thuế đúng thời hạn. Cơ quan thuế không can
thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế nếu người nộp thuế
tự giác tuân thủ nghĩa vụ. Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ,
hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng
thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế và
thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát thuế để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng
đắn những hành vị gian lận, trốn thuế của người nộp thuế.
18


1.3.4.2 Mục tiêu quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
Mục tiêu của việc thực hiện cơ chế tự kê khai - tự nộp thuế là nhằm
nâng cao năng lực, hiệu quả và hiện đại hóa công tác quản lý thuế để cơ quan
thuế có đủ năng lực thực hiện tốt các luật thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu
kịp thời các khoản thuế vào ngân sách nhà nước, dựa trên cơ sở cơ quan thuế
thực hiện được tốt việc tuyên truyền, hướng dẫn cho đối tượng nộp thuế hiểu
rõ và tự giác thực hiện tốtnghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát, kiểm tra chặt chẽ
việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế để phát hiện, xử lý kịp
thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của đối tượng nộp thuế.
1.3.4.3 Yêu cầu quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
Để thực hiện được tốt cơ chế tự khai - tự nộp thuế đòi hỏi phải có đầy

đủ và đồng bộ nhiều yếu tố như: trình độ và sự nhận thức của người dân về
nghĩa vụ thuế, chính sách thuế, tổ chức quản lý thuế, nghiệp vụ quản lý thuế,
trình độ của cán bộ và các thẩm quyền cần thiết của cơ quan thuế trong quản
lý thuế:
+ Người dân phải có được hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ thuế, đối tượng
nộp thuế có ý thức tuân thủ nghĩa vụ thuế, cộng đồng xã hội lên án những
hành vi gian lận trốn thuế.
+ Chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện như: thuế
GTGT chỉ có 1 mức thuế suất, ít miễn giảm trong thuế TNDN..., các qui định
về kê khai, nộp thuế thuận lợi, phù hợp với điều kiện kinh doanh của đối
tượng nộp thuế.
+ Cơ quan thuế có đủ thẩm quyền về điều tra, khởi tố, cưỡng chế thuế
để xử phạt nghiêm, kịp thời những trường hợp gian lận, trốn thuế, chây ỳ, nợ
thuế, thu hồi đủ tiền thuế cho NSNN và đảm bảo sự công bằng trong quản lý
thuế.
+ Bộ máy quản lý thuế ở cơ quan thuế các cấp phải tổ chức tập trung
theo các chức năng: tuyên truyền, hướng dẫn đối tượng nộp thuế; theo dõi, xử
lý việc kê khai thuế; đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra, kiểm soát
thuế để nhằm chuyên môn hoá, nâng cao năng lực quản lý thuế ở từng chức
năng.
+ Hệ thống xử phạt nghiêm khắc. Cơ quan thuế có đủ thẩm quyền về
điều tra, đủ điều kiện về cưỡng chế thuế để phát hiện và xử lý nghiêm, kịp
19


thời những trường hợp gian lận, trốn thuế, chây ỳ nợ thuế, thu hồi đủ tiền thuế
cho NSNN và đảm bảo sự công bằng trong quản lý thuế
+ Hệ thống giải quyết khiếu nại hoạt động hiệu quả.
+ Đối tượng nộp thuế cần phải tin rằng các chương trình kiểm tra, kiểm
soát thuế hiệu quả đang tồn tại.

+ Quản lý thuế phải dựa trên kỹ thuật quản lý hiện đại - kỹ thuật quản
lý rủi ro, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả quản lý thông qua việc tập trung
phân bổ nguồn lực quản lý đối với các đối tượng nộp thuế không tuân thủ
nghĩa vụ thuế gây rủi ro cao, có ảnh hưởng lớn đến nguồn thu NSNN.
Để thực hiện được quản lý thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro, cơ quan
thuế cần phải có:
+ Thông tin đầy đủ và liên tục về đối tượng nộp thuế trong một khoảng
thời gian nhất định (ít nhất là 3 năm), gồm: thông tin về tình hình sản xuất,
kinh doanh (vị trí, qui mô, cơ cấu tổ chức của công ty hoặc tập đoàn trên
phạm vi cả nước hoặc trên toàn cầu, tình hình tài chính), về tình hình tuân thủ
nghĩa vụ thuế... Trên cơ sở các thông tin đó cơ quan thuế phân tích, phân loại
đối tượng nộp thuế để xác định biện pháp quản lý phù hợp với từng đối
tượng: đối tượng nào cần tập trung tuyên truyền, hỗ trợ, hỗ trợ với hình thức
nào là phù hợp; đối tượng nào cần tập trung kiểm tra, kiểm soát nội dung gì,
cách thức nào; đối tượng nào cần tăng cường thu nợ, kế hoạch, biện pháp
nào...
+ Các thông tin này phải đầy đủ, kịp thời và tin cậy, từ các nguồn: tờ
khai thuế, báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thông tin từ các bên có liên
quan (cơ quan quản lý đầu tư, ngân hàng, hải quan, hiệp hội ngành nghề kinh
doanh...) trong và ngoài nước
+ Các thông tin này phải được chuẩn hoá, thống nhất trong toàn ngành,
được quản lý tập trung ở trung ương và cơ quan thuế ở các cấp của địa
phương đều có thể cùng khai thác, sử dụng để vừa đáp ứng được yêu cầu lập
kế hoạch, giám sát, chỉ đạo của cấp trung ương đối với hoạt động quản lý thuế
của toàn ngành, cũng như hoạt động quản lý trực tiếp đối tượng nộp thuế của
cơ quan thuế địa phương.
Do đó, cần phải ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tập hợp, khai
thác, sử dụng thông tin về đối tượng nộp thuế và ở tất cả các hoạt động quản
lý thuế của cơ quan thuế. Mặt khác, cán bộ thuế phải được đào tạo, có đủ kiến
20



thức, năng lực để thực hiện kỹ năng quản lý thuế chuyên sâu (tính chuyên
nghiệp cao) theo từng chức năng quản lý.
1.3.4.4 Nội dung quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp
Quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế gồm các nội dung sau:
- Các thủ tục hành chính thuế, bảo đảm các điều kiện cho người nộp
thuế thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, bao gồm các nội
dung: Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế,
miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
- Giám sát việc tuân thủ pháp luật thuế của cơ quan quản lý thuế đối
với người nộp thuế, bao gồm các nội dung: Quản lý thông tin về người nộp
thuế; kiểm tra thuế, kiểm soát thuế.
- Các chế tài bảo đảm các chính sách thuế được thực thi có hiệu lực,
hiệu quả, bao gồm các nội dung: cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
Sơ đồ 1.2: Quy trình quản lý thuế theo cơ chế cơ sở kinh doanh
Cơ quan thuế
Tuyên truyền pháp luật
thuế và hỗ trợ người
nộp thuế
Quản lý nợ thuế và
cưỡng chế thu thuế

Người nộp thuế

Kho bạc

Kê khai và kế toán
thuế

Kiểm tra, kiểm soát
thuế

(Nguồn: quy định của luật quản lý thuế sửa đối năm 2005)
1.3.5 Một số mô hình quản lý thuế
Mô hình tổ chức quản lý thuế là bộ máy quản lý thuế được khái quát
theo một nguyên tắc cơ bản nhất, bao trùm và chi phối việc xác định số lượng
các bộ phận, chức năng, nhiệm vụ quản lý thuế của từng bộ phận trong cơ cấu
tổ chức. Các nhà nghiên cứu chính sách và quản lý thuế (chuyên gia của Quĩ
21


Tiền tệ Quốc tế) đã tổng kết các mô hình và đánh giá ưu nhược điểm các mô
hình tổ chức quản lý thuế đã được các nước trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên,
trong thực tế một số các mô hình đều được áp dụng rời rạc trong từng cấp
quản lý thuế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, nhưng hầu hết
các mô hình được vận dụng kết hợp với nhau để phát huy ưu điểm và khắc
phục nhược điểm của từng mô hình riêng rẽ.
1.3.5.1 Mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế
Là mô hình lấy việc quản lý theo sắc thuế là nguyên tắc bao trùm. Theo
đó, cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (gọi chung là phòng) quản lý một
hoặc một số loại thuế cụ thể (VD: phòng thuế Thu nhập cá nhân; phòng Thuế
thuế thu nhập doanh nghiệp, phòng thuế Giá trị gia tăng, phòng thuế Tiêu thụ
đặc biệt…).
Mỗi phòng thực hiện tất cả các chức năng để quản lý loại thuế mà
phòng đó được phân công quản lý thu đối với tất cả các đối tượng nộp thuế.
Ưu điểm:
- Tạo điều kiện để chuyên sâu quản lý từng sắc thuế, hiểu rõ phương
pháp quản lý sắc thuế một cách hiệu quả nhất, cho phép từng phòng tự phát
triển các chương trình chuyên sâu phù hợp nhất theo yêu cầu quản lý của từng

sắc thuế.
- Phản ứng kịp thời với những thay đổi của luật thuế hay những biện
pháp quản lý đối với từng sắc thuế. Khi một chính sách thuế nào đó có sự bổ
sung, sửa đổi hoặc thay đổi qui trình quản lý thì chỉ phải thay đổi trong một
phòng quản lý sắc thuế đó hoặc khi có sắc thuế mới phát sinh thì chỉ cần
thành lập thêm một phòng mới để quản lý sắc thuế đó, các phòng khác không
thay đổi.
- Mô hình này thuận lợi và phù hợp với các nước có nền kinh tế đang
chuyển đổi, có môi trường tài chính không ổn định và có các qui định khác
nhau về thủ tục quản lý đối với từng loại thuế.
Nhược điểm:
- Chi phí quản lý cao, hiệu suất quản lý thấp vì chức năng quản lý bị
chồng chéo giữa các bộ phận. Mỗi bộ phận đều phải thực hiện đầy đủ các
chức năng quản lý trong khi có những chức năng có thể chỉ do một bộ phận
quản lý hoặc mỗi bộ phận phải có một hệ thống chương trình phầm mềm
riêng phục vụ quản lý…
22


- Gây khó khăn trong việc tuân thủ luật thuế của NNT vì để hiểu và
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế (nghĩa vụ nộp nhiều loại thuế khác nhau), họ
phải cần đến sự hỗ trợ của nhiều bộ phận trong cùng một cơ quan thuế. Dẫn
đến chi phí tuân thủ pháp luật của NNT và của cơ quan thuế cao.
- Dễ xảy ra sự thông đồng giữa NNT và cán bộ quản lý thuế do mỗi
phòng hoạt động độc lập với các phòng khác, làm cho sự kiểm tra, kiểm soát
giữa các phòng hoặc không có hoặc kém hiệu quả.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh.
Trong quá trình áp dụng, mô hình quản lý theo sắc thuế vẫn đan xen
với quản lý thuế theo chức năng, bởi lẽ, trong bộ phận quản lý theo sắc thuế
lại hình thành các bộ phận thực hiện từng chức năng riêng biệt để quản lý đối

với sắc thuế đó (như: hỗ trợ người nộp thuế, kê khai thuế, kiểm tra, kiểm soát
thuế...). Mặt khác, mỗi chức năng quản lý còn phải điều chỉnh theo từng nhóm
giao dịch (như: thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển dịch tài sản,
thu nhập từ kinh doanh bất động sản, vốn...
1.3.5.2 Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm NNT
Là mô hình tổ chức lấy quản lý theo nhóm NNT làm nguyên tắc bao
trùm. Theo đó, cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (phòng) quản lý theo
từng nhóm NNT. Một số nước phân loại nhóm NNT theo qui mô, một số
nước khác phân loạitheo ngành nghề kinh doanh hoặc theo hình thức sở hữu.
Từ đó, hình thành các phòng quản lý thu thuế theo đối tượng (qui mô) kết hợp
với theo ngành nghề kinh doanh của đối tượng đó (Ví dụ: Phòng quản lý thuế
các doanh nghiệp lớn, phòng quản lý thuế các doanh nghiệp vừa, nhỏ; phòng
quản lý thuế doanh nghiệp ngành công nghiệp, phòng quản lý thuế ngành
Hàng không, Điện lực… hoặc phòng quản lý thuế khu vực kinh tế quốc
doanh, phòng quản lý thuế khu vực kinh tế dân doanh…)
Mỗi phòng thực hiện tất cả các chức năng quản lý để quản lý thu tất cả
các sắc thuế mà NNT được phân công quản lý phải có nghĩa vụ với Nhà nước.
Ưu điểm:
- Đáp ứng yêu cầu quản lý thuế phù hợp với đặc điểm của từng loại đối
tượng nộp thuế.
- Tạo điều kiện thực hiện phương pháp quản lý và phân bổ nguồn lực
phù hợp với những rủi ro về quản lý thuế đối với các nhóm NNT khác nhau,
tạo sự an toàn cho Ngân sách. Thông thường, phòng quản lý các đối tượng
23


×