Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

giáo trình công tác ngành giáo dục mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.73 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
- - - - - - - -

Giáo trình đào tạo từ xa
CÔNG TÁC
QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON

CHỦ BIÊN: HỒ THỊ HẠNH

Vinh 2011

1


Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ.
1. Ý nghĩa của công tác quản lý.
Theo quy luật tự nhiên, mọi loài động vật trên trái đất từ bé đến lớn
đều có một con đầu đàn đóng vai trò “thủ lĩnh” hướng dẫn cả đàn sinh sống,
tự vệ…
Loài người cũng nằm trong quy luật ấy. Người đứng đầu một tập đoàn
(bầy đàn) xưa kia gọi là thủ lĩnh thì ngày nay gọi là các nhà quản lý (QL).
Trong xã hội loài người, quản lý là một đặc trưng, ra đời khi xã hội có
phân công lao động, đòi hỏi có sự hợp tác trong lao động chung, có tổ chức,
có ý thức tập thể xã hội. Mỗi con người dù cá nhân hay tập thể, dù trực tiếp
hay gián tiếp luôn mang tính chất tập thể xã hội và hướng tới những giá trị xã
hội nhất định. Đây chính là phương thức và hình thức tồn tại của con người .
Ngay từ thời cộng sản nguyên thuỷ, con người đã có sự hợp tác với
nhau trong săn bắt, hái lượm và tự vệ cho cuộc sống cộng đồng. Sự hợp tác rất
giản đơn phản ánh nền văn minh thấp kém (văn minh đồ đá). Cùng với sự phát
triển văn minh nhân loại, sự gia tăng của lực lượng sản xuất về quy mô và sự


đa dạng hoá về các loại hình lao động, công tác quản lý ngày càng trở nên
phức tạp.
Ngày nay, quản lý được coi là một công việc quan trọng song khó khăn
và phức tạp bậc nhất trong xã hội vì công tác quản lý liên quan đến nhân cách
của nhiều cá nhân trong tập thể xã hội; liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm và cuộc sống nói chung của mỗi người, đòi hỏi phải đáp ứng đuợc
những yêu cầu của xã hội luôn thay đổi và phát triển .
Xã hội loài người càng phát triển thì mối quan hệ với người càng
phong phú, phức tạp về các loại hình hoạt động như học tập, lao động, vui
chơi, chiến đấu, kinh doanh, sản xuất rồi phát triển khoa học kỹ thuật, văn hoá
chính trị, kinh tế, nghệ thuật…và mở rộng ra khỏi phạm vi biên cương đất
nước. Do vậy quản lý ra đời là nhu cầu bức thiết của xã hội loài người.
Vấn đề quản lý là vấn đề phức tạp vì nói đến quản lý là nói đến các
quan hệ được biểu hiện trong quản lý, đó là các quan hệ:
2


- Quan hệ giữa những người lãnh đạo với những người lãnh đạo khác.
- Quan hệ giữa những người dưới quyền với nhau trong một hệ quản
lý.
- Quan hệ giữa người lãnh đạo với người dưới quyền.
Người quản lý phải giải quyết tốt các mối quan hệ, làm cho các quan
hệ đó diễn ra một cách có hiệu quả. Vai trò của người quản lý cực kỳ quan
trọng, nhiều khi quyết định số phận sinh tồn, diệt vong, phát triển của cả một
tập đoàn người.
Quản lý giáo dục với tư cách là một bộ phận của quản lý xã hội (XH)
cũng xuất hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ XH. Cùng với sự phát triển
XH thì mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục cũng luôn thay đổi và phát
triển. Do đó công tác quản lý luôn vận động và phát triển theo.
2. Khái niệm, đặc điểm về quản lý và quản lý giáo dục

2.1. Khái niệm quản lý.
Quản lý là sự tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật
vào hệ thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế- xã hội.
Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên
các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.
Hiểu một cách ngắn gọn thì quản lý là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (tập thể những người lao
động) nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
2.2. Đặc điểm của quản lý.
* Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng bị
quản lý.
Đây là đặc điểm cơ bản, chủ thể quản lý không có thì việc quản lý đặt
ra là vô nghĩa. Thực tế chỉ ra nhiều tổ chức mặc dầu có tồn tại chủ thể quản lý
trên danh nghĩa, nhưng do bất lực về năng lực, vật chất, về pháp lý, hay về
nhân cách, mà chủ thể quản lý đó trở thành hình thức phù phiếm. Hoặc cũng
có trường hợp ngược lại, có những tổ chức do xuất hiện quá nhiều chủ thể
3


quản lý mà các chủ thể này thế lực lại tương đồng nhau, nhưng mục tiêu lại
khác nhau thì việc quản lý sẽ rất phức tạp, đối tượng bị quản lý sẽ gặp rất
nhiều khó khăn, khó có thể tồn tại và phát triển bình thường.
* Quản lý liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối liên hệ
ngược lại.
Quản lý diễn ra nhờ thông tin. Thông tin chính là các tín hiệu mới,
được thu nhận, được hiểu và được đánh giá và có ích cho hoạt động quản lý
(cho cả chủ thể và cả đối tượng bị QL). Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối
tượng quản lý thì phải đưa ra các thông tin (mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết,
nghị định...), đó chính là thông tin điều khiển. Đối tượng bị quản lý muốn định

hướng hoạt động của mình thì phải tiếp nhận thông tin điều khiển của chủ thể
quản lý cùng các đảm bảo vật chất khác để tính toán và tự điều khiển bản thân
nhằm thực thi mệnh lệnh của chủ thể. Đối với chủ thể quản lý, sau khi đã đưa
ra các quyết định cùng các bảo đảm vật chất cho đối tượng thực hiện, thì họ
phải thường xuyên theo dõi kết quả thực hiện các quyết định của đối tượng
thông qua các thông tin phản hồi.
* Quản lý có khả năng thích nghi (biến đổi).
Khi đối tượng quản lý mở rộng về quy mô, phức tạp về các mối quan
hệ thì chủ thể không chịu bó tay mà vẫn tiếp tục quản lý có hiệu quả nếu biết
đổi mới quá trình quản lý thông qua việc cấu trúc lại hệ thống và việc ủy
quyền quản lý cho các cấp trung gian. Ngược lại, khi chủ thể quản lý trở nên
cứng nhắc, quan liêu, đưa ra những tác động quản lý độc đoán, lỗi thời, phi lý
thì không phải tất cả đối tượng bị quản lý nản lòng mà họ vẫn có thể thich nghi
tồn tại theo hai cách: Một là họ phải tồn tại tương ứng với các tác động quản lý
của chủ thể; Hai là họ biến đổi bản thân để thích nghi với mệnh lệnh quản lý
của chủ thể.
* Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.
Quản lý là một khoa học vì quản lý có đối tượng nghiên cứu riêng là
các mối quan hệ. Quản lý có phương pháp luận nghiên cứu riêng và chung, đó
là quan điểm triết học Mac - Lênin, là quan điểm hệ thống. Quản lý có các
4


phương pháp nghiên cứu cụ thể: các phương pháp phân tích, phương pháp
toán kinh tế, các phương pháp tổ chức hành chính, các phương pháp xã hội
học, các phương pháp tâm lý, các phương pháp lịch sử... Quản lý là một nghệ
thuật vì tùy thuộc vào tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, bề dày kinh
nghiệm của người lãnh đạo. Quản lý là một nghề với nghĩa các nhà quản lý
phải có tri thức quản lý bằng việc tự học, tự tích lũy kinh nghiệm được đào
tạo.

* Quản lý gắn với quyền lực, lợi ích và danh tiếng.
Người quản lý có ưu thế quan trọng trong tổ chức, họ có khả năng điều
khiển người khác và chi phối các nguồn lực và tài sản của tổ chức. Người quản
lý cũng có điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các mong muốn của mình
thông qua việc sử dụng con người trong quá trình dẫn dắt, thu hút, lôi kéo họ
nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Họ dễ để lại danh tiếng cho người
khác và cộng đồng nếu họ quản lý tổ chức của mình tốt và phát triển.
2.3. Quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội. Đó là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường
của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở
rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng.
Hiểu theo nghĩa tổng quát: Quản lý giáo dục là điều hành phối hợp các
lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo - giáo dục thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội.
Quản lý giáo dục là quản lý việc đào tạo con người, hình thành và hoàn
thiện nhân cách, tái sản xuất nguồn lực con người. Đối tượng quản lý giáo dục
là những con người thực hiện hoặc nhận sự giáo dục đào tạo. Vì không có gì
phức tạp bằng con người cho nên quản lý giáo dục, quản lý việc giáo dục và
đào tạo con người là loại khó khăn nhất, phức tạp nhất đòi hỏi chủ thể QL phải
có những năng lực, phẩm chất tương xứng với công việc.
2.4. Quản lý giáo dục mầm non (GDMN).
5


Quản lý GDMN là quá trình điều hành phối hợp để tạo ra những điều
kiện tối ưu cho các cơ sở GDMN thực hiện mục tiêu GD- ĐT.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là khâu đầu tiên,
đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Mục tiêu của GDMN

là định hướng, điều khiển toàn bộ công tác quản lý GDMN. Do vậy, công tác
quản lý GDMN có những đặc điểm sau:
- Quản lý giáo dục mầm non là một bộ phận của quản lý giáo dục, quản
lý xã hội, cũng như công tác quản lý giáo dục nói chung, việc quản lý con
người là yếu tố trung tâm của quản lý giáo dục Mầm non. Trình độ và năng lực
của người cán bộ quản lý giáo dục MN thể hiện trước hết ở khả năng làm việc
với những con người, biết đánh giá, bồi dưỡng và phát huy những khả năng
của mỗi người, động viên mọi người làm việc tự giác, tích cực với tinh thần
trách nhiệm cao.
- Trong trường mầm non, đội ngũ giáo viên (GV ) là đối tượng quản lý
quan trọng nhất, đồng thời là chủ thể quản lý giáo dục. Do đó GV phải thực
hiện vai trò giáo dục của mình, thực sự làm chủ nhà trường. Như vậy, đội ngũ
GV phải giữ vai trò chủ thể tham gia vào quản lý nhà trường.
- Mục tiêu cơ bản nhất của giáo dục mầm non là xây dựng nền móng
ban đầu của nhân cách, giáo dục trẻ em là nhiệm vụ hàng đầu. Nội dung,
phương pháp, kế hoạch giáo dục và quản lý giáo dục MN phải dựa trên mục
tiêu giáo dục, dựa trên đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ em và xu hướng
phát triển của xã hội thời đại.
- Cũng như mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu giáo dục mầm non
là một hệ thống phát triển thống nhất. Do đó, công tác QLGD Mầm non cần
phải thống nhất về nội dung, phương pháp, hình thức QL giáo dục giữa gia
đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể xã hội.
- Giáo dục mầm non không mang tính bắt buộc đối với trẻ em. Trong
xã hội phát triển, sự đa dạng hoá các loại hình trường, lớp nuôi dạy trẻ là khó
tránh khỏi. Trường mầm non cần phải làm rõ tính ưu việt của mình trong công
tác nuôi dạy trẻ em, không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
6


2.4.1. Đối tượng, mục đích của quản lý giáo dục mầm non.

2. 4.1.1. Đối tượng quản lý giáo dục mầm non.
Đối tượng quản lý giáo dục mầm non là toàn bộ quá trình giáo dục
mầm non và hệ thống tổ chức để điều khiển quá trình đó. Khoa học quản lý
giáo dục mầm non phải làm rõ bản chất, cấu trúc và quy luật của quá trình
giáo dục mầm non, trên cơ sở đó nghiên cứu cơ chế, hình thức và biện pháp tổ
chức, tác động sao cho quá trình giáo dục mầm non vận động và phát triển có
hiệu quả, đạt tới mục đích.
Quá trình giáo dục Mầm non được tác động bởi 3 yếu tố:
- Quá trình quản lý giáo dục mầm non diễn ra dưới sự chỉ đạo của hệ tư
tưởng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Hệ tư tưởng này được cụ thể hoá trong
đường lối chiến lược và chính sách giáo dục nhà nước.
- Quá trình quản lý giáo dục mầm non được tiến hành dưới tác động
của những tập thể con người, đó là các nhà sư phạm, gia đình trẻ em, trẻ em,
các tổ chức đoàn thể xã hội trong đó quan trọng nhất là tập thể cán bộ quản lý,
các giáo viên và trẻ em.
- Quá trình quản lý giáo dục mầm non được thực hiện trên các điều
kiện vật chất cụ thể (đồ dùng, đồ chơi, dụng cụ sinh hoạt, kinh phí, cơ sở vật
chất khác…)
2.4.1.2. Mục đích của quản lý giáo dục mầm non.
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói
riêng được xem là vấn đề quan trọng hàng đầu. Việc quan tâm, đầu tư cho giáo
dục được xem là quốc sách. Để thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non, công
tác quản lý giáo dục mầm non phải đạt được những mục đích cơ bản sau:
- Củng cố, ổn định và phát triển ngành giáo dục mầm non với nhiều
loại hình đa dạng, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu đổi mới của xã hội.
- Đảm bảo cho cơ sở mầm non nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục trẻ em theo mục tiêu của ngành học và đường lối giáo dục của
Đảng, Nhà nước.

7



- Thu hút, động viên các lực lượng giáo dục trong và ngoài ngành tham
gia chăm sóc- giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
Để đạt được mục đích trên cần giải quyết các mối quan hệ sau:
- Kết hợp thống nhất giữa chăm sóc và giáo dục .
- Kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội.
- Kết hợp thống nhất giữa các cấp quản lý với các cơ sở giáo dục mầm
non. Ngoài ra người quản lý phải dựa vào mục tiêu giáo dục, tính toán yếu tố
khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu. Đồng thời phải
xác định rõ mục tiêu trước mắt, mục tiêu lâu dài, mục tiêu cơ bản và xây dựng
được chuẩn đánh giá thực hiện mục tiêu.
3. Chức năng quản lý giáo dục mầm non.
3.1. Khái niệm chức năng quản lý .
Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý đặc biệt, thông qua
đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã
xác định.
3.2. Phân loại chức năng quản lý giáo dục .
Bao gồm chức năng chung và chức năng cụ thể.
* Chức năng chung bao gồm:
- chức năng duy trì ổn định hoạt động giáo dục mầm non đáp ứng nhu
cầu của nền KT- XH.
- Chức năng đổi mới phát triển: nhằm biến đổi đối tượng, đưa đối
tượng đến một trình độ phát triển mới về chất.
* Các chức năng cụ thể bao gồm:
1. Chức năng kế hoạch hoá.
Kế hoạch hoá là tổ chức và lãnh đạo công việc theo một kế hoạch.
Thực hiện chức năng kế hoạch hoá là đưa mọi hoạt động giáo dục vào công
việc có kế hoạch với mục tiêu cụ thể, biện pháp rõ ràng, xác định các điều kiện
tương ứng cho việc thực hiện các mục tiêu.

Để thực hiện tốt chức năng kế hoạch hoá, CB quản lý giáo dục phải
nhận thức được cơ hội và nắm bắt được thông tin làm căn cứ cho việc xây
8


dựng kế hoạch; Xác định mục tiêu và phân loại mục tiêu; Xác định các điều
kiện tương ứng cho việc thực hiện các mục tiêu.
2. Chức năng tổ chức.
Tổ chức là sắp đặt con người, công việc một cách khoa học, hợp lý. Tổ
chức bao gồm các nội dung sau:
- Xây dựng bộ máy tổ chức.
- Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho từng bộ phận và cá
nhân.
- Lựa chọn phân công cán bộ.
- Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo bộ máy.
- Xác lập cơ chế phối hợp trong tổ chức.
- Khai thác tiềm năng, tiềm lực của tập thể và cá nhân.
3. Chức năng chỉ đạo.
Chỉ đạo là những hoạt động xác lập quyền chỉ huy và sự can thiệp của
người lãnh đạo trong quá trình quản lý vào việc thực hiện kế hoạch và điều
hành công việc nhằm đảm bảo cho hoạt động giáo dục diễn ra có kỷ cương và
trật tự.
Nội dung bao gồm:
- Nắm quyền chỉ huy điều hành công việc.
- Hướng dẫn cách làm.
- Theo dõi giám sát tiến trình công việc.
- Kích thích động viên.
- Điều chỉnh, can thiệp khi cần thiết .
4. Chức năng kiểm tra.
Kiểm tra là điều tra xem xét, phân tích đánh giá diễn biến và kết quả,

phát hiện sai lầm để điều chỉnh, khích lệ và giúp đỡ đối tượng hoàn thành
nhiệm vụ.
Nội dung bao gồm:
- Đánh giá tình trạng kết thúc của hệ quản lý.
- Phát hiện những lệch lạc sai sót và tìm nguyên nhân của nó.
9


- Tổng kết tạo thông tin cho chu trình quản lý tiếp theo.
4. Nguyên tắc quản lý giáo dục mầm non.
4.1. Khái niệm nguyên tắc quản lý.
Nguyên tắc quản lý là những quy tắc, luận điểm chỉ đạo và là những
tiêu chuẩn hành vi mà hệ thống quản lý phải tuân theo trong quá trình thực
hiện các chức năng quản lý.
4.2. Hệ thống các nguyên tắc quản lý .
4.2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích và tính tư tưởng (đảm bảo
đường lối lãnh- đạo của đảng)
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc này giúp
cho nhà quản lý chỉ đạo tốt việc thực hiện mục tiêu giáo dục theo đúng đường
lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước. Để thực hiện nguyên tắc này
đòi hỏi mọi chủ thể quản lý phải nghiên cứu, nắm vững các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng về giáo dục và có trách nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm túc trong
phạm vi toàn đơn vị. Giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục
Mầm non nên cần phải coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho
họ nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng và tự giác thực hiện các nghị quyết
của Đảng trong quá trình đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ. Tập trung xây dựng đội
ngũ giáo viên mạnh về tổ chức, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có đầy
đủ những phẩm chất và năng lực cần thiết để hiện thực hoá mục tiêu giáo dục
mầm non .
Tóm lại: Chính trị là yếu tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động quản lý.

Trong mọi hoàn cảnh người CB quản lý phải giữ vững lập trường tư tưởng
trong công tác điều hành công việc, đảm bảo việc thực hiện chủ trương đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
4.2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc này đòi hỏi sự kết hợp thống nhất hai mặt. Một mặt tăng
cường sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cơ quan nhà nước. Mặt khác phát
huy mở rộng tính chủ động sáng tạo của quần chúng. Tập trung- dân chủ là sự
kết hợp lãnh đạo tập trung ở chế độ quản lý một lãnh đạo. Người lãnh đạo có
10



×