Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

chương 1 tổng quan về mạng máy tính và vấn đề về giao tiếp nối tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.53 KB, 13 trang )

Chương I
TỔNG QUAN VỀ MẠNG MÁY TÍNH VÀ VẤN ĐỀ VỀ GIAO TIẾP NỐI
TIẾP

A. Tổng quan về mạng máy tính
Mạng máy tính là một tập hợp các máy tính được nối với nhau bởi các đường
truyền vật lý theo một kiến trúc nào đó. Và ngày nay mạng máy tính đã trở thành một
lónh vực nghiên cứu phát triển và ứng dụng cốt lõi của công nghệ thông tin.
I. Các yếu tố của mạng máy tính :
Các yếu tố của một mạng máy tính bao gồm : đường truyền vật lý và kiến trúc
của một mạng máy tính.
1.

Đường truyền vật lý:

Đường truyền vật lý dùng để chuyển các tín hiệu điện tử giữa các máy tính.
Các tín hiệu điện tử đó biểu thò các giá trò dữ liệu dưới dạng các xung nhò phân (ONOFF). Tất cả các tín hiệu được truyền giữa các máy tính đều thuộc một dạng sóng
điện từ (EM) nào đó, trải từ các tần số radio tới các sóng cực ngắn vi baa) và tia hồng
ngoại. Tùy theo tần số của sóng điện từ có thể dùng các đường truyền vật lý khác
nhau để truyền các tín hiệu.
Các tần số radio có thể truyền bằng cáp điện (dây đôi xoắn hoặc đồng trục )
hoặc bằng phương tiện quãng bá (radio broadcasting).
Sóng cực ngắn vi baa) thường được dùng để truyền giữa các trạm mặt đất và
các vệ tinh.
Tia hồng ngoại là lý tưởng đối với nhiều loại truyền thông mạng. Nó có thể
được truyền giữa hai điểm hoặc quãng bá từ một điểm đến nhiều máy thu. Tia hồng


ngoại và các tần số cao hơn của ánh sáng có thể được truyền qua các loại cáp sợi
quang.
Khi xem xét lựa chọn đường truyền vật lý ta cần chú ý tới các đặc trưng cơ bản


của chúng là dải thông, độ suy hao và độ nhiễu điện từ.
2.

Kiến trúc mạng:

Kiến trúc mạng máy tính (network architecture) thể hiện qua cách nối các máy
tính với nhau ra sao và tập hợp các quy tắc, qui ước mà tất cả các thực thể tham gia
truyền thông trên mạng phải tuân theo để đảm bảo cho mạng hoạt động tốt. Cách nối
các máy tính được gọi là hình trạng (topology gọi tắt là topo), còn tập hợp các quy tắc,
quy ước truyền thông thì được gọi là giao thức (protocol) của mạng.
*Topo mạng:
Có hai kiểu nối mạng chủ yếu là: điểm – điểm ( point to point) và quãng bá
broadcaster hay point to multi point).
Theo kiểu point to point, các đường truyền nối thành từng cặp nút với nhau và
mỗi nút đều có trách nhiệm lưu trữ tạm thời sau đó chuyển tiếp dữ liệu đi cho tới đích.
Theo kiểu quãng bá, tất cả các nút phân chia chung một đường truyền vật lý.
Dữ liệu được gởi đi từ một nút nào đó có thể được tiếp nhận bởi tất cả các nút còn lại.
Nơi nhận sẽ kiểm tra xem đòa chỉ đích gởi đến có phải cho mình hay không để có thể
tiếp tục thực hiện việc giao tiếp hay bỏ qua.
*Giao thức mạng:
Việc truyền tín hiệu trên mạng cũng cần phải tuân theo những quy tắc, qui ước
về nhiều mặt: từ khuôn dạng (cú pháp, ngữ nghóa) của dữ liệu tới các thủ tục gởi,
nhận dữ liệu, kiểm soát hiệu quả và chất lượng truyền tin cũng như xử lý các lỗi sự
cố. Tập hợp tất cả những quy tắc, qui ước đó được gọi là giao thức của mạng.
II. Phân loại mạng máy tính :


Có nhiều cách phân loại mạng máy tính khác nhau tùy thuộc vào yếu tố chính
làm chỉ tiêu phân loại. Nếu lấy khoảng cách đòa lý làm yếu tố chính để phân loại thì
ta có các loại sau:

1. Mạng cục bộ ( Local Area Networks – LAN):
Là mạng được cài đặt trong một phạm vi tương đối nhỏ (ví dụ trong một tòa
nhà, trường học …) với khoảng cách lớn nhất giữa các máy tính nút mạng chỉ trong
vòng vài chục kilo mét trở lại.
Một mạng cục bộ bao gồm cả phần cứng lẫn phần mềm. Phần mềm của nó
bao gồm các trình điều khiển thiết bò và hệ điều hành mạng .
2. Mạng đô thò( Metropolitan Area Networks – WAN):
Là mạng được cài đặt trong phạm vi một đô thò hoặc một trung tâm kinh tế- xã hội có
bán kính khoảng 100 kilo mét trở lại.
3. Mạng diện rộng ( Wide Area Networks – WAN ): Có phạm vi có thể
vượt qua biên giới một quốc gia và thậm chí cả một châu lục.
4. Mạng toàn cầu ( Global Area Networks – GAN ):Phạm vi sử dụng của
mạng trải rộng khắp các châu lục của Trái Đất.
III. Đường truyền và các thiết bò sử dụng trong mạng máy tính:
1. Đường truyền:
a. Cáp truyền:
 Cáp đồng trục:
Có cấu tạo gồm hai dây dẫn, một dây dẫn trung tâm ( thường bằng đồng cứng )
và một dây dẫn tạo thành một ống bao quanh dây dẫn trung tâm, dây dẫn này có thể
là dây bện hay bằng lá kim loại. Giữa hai dây dẫn có một lớp cách ly và bên ngoài
cùng là một lớp vỏ plastic để bảo vệ cáp.
 Cp xoắn đôi:


Cáp này gồm hai đường dây dẫn đồng trục được xoắn vào nhau. Mục đích của
việc xoắn này là nhằm giảm nhiễu điện từ gây ra bởi môi trường xung quanh và gây
ra bởi bản thân chúng với nhau.
Có hai loại cáp xoắn đôi được dùng hiện nay là cáp có bọc kim STP (Shield
Twisted-Pair) và cáp không bọc kim UTP ( Unshield Twisted-Pair). STP có khả năng
chống nhiễu tốt nhờ có vỏ bọc kim, thích hợp cho tốc độ truyền dưới 500Mb/s. Còn

UTP có khả năng chống nhiễu thấp hơn, tốc độ có thể đạt tới là 100Mb/s.
 Cáp sợi quang:
Cáp sợi quang không truyền dẫn các tín hiệu điện mà chỉ truyền dẫn các tín
hiệu quang.
Cáp sợi quang bao gồm một dây dẫn trung tâm ( là một hoặc một bó sợi thủy
tinh hay plastic có thể truyền dẫn tín hiệu quang ) được bọc một lớp áo có tác dụng
phản xạ các tín hiệu trở lại để giảm sự mất mát tín hiệu. Bên ngoài cùng là lớp vỏ
plastic để bảo vệ cáp.
Tín hiệu truyền trên cáp sợi quang có thể đạt tốc độ 2Gb/s và cho phép khoảng
cách truyền khá xa do độ suy hao tín hiệu trên cáp rất thấp. Ngoài ra do tín hiệu
truyền là dạng quang nên nó không bò ảnh hưởng bởi nhiễu điện từ và các hiệu ứng
điện khác. Hơn nữa, tín hiệu truyền trên cáp sợi quang có độ bảo mật rất cao. Tuy
nhiên cáp sợi quang có nhược điểm là khó lắp đặt và giá thành còn tương đối cao.
b. Phương tiện vô tuyến:
 Radio:
Radio chiếm dải tần từ 10KHz đến 1GHz, trong đó có các băng tần quen thuộc
như:
 Sóng ngắn.


 VHF ( Very High Frequency ) : Dùng cho truyền hình và FM
radio.
 UHF ( Ultra High Frequency ) : Dùng cho truyền hình.
Các phương thức truyền theo tần số radio là : Công suất thấp tần số đơn, công
suất cao tần số đơn và trải phổ.
 Viba (Microwave ):
Có hai dạng truyền thông vi ba là mặt đất và vệ tinh. Các hệ thống vi ba mặt
đất thường hoạt động ở băng tần 4-6GHz và 21-23GHz, tốc độ truyền dữ liệu từ 110Mb/s
 Các hệ thống tia hồng ngoại (Iinfrared System ):
Các mạng điểm – điểm hoạt động bằng cách chuyển các tín hiệu hồng ngoại từ

một thiết bò tới một thiết bò kế tiếp, dải tần hoạt động là 100GHz đến 1000GHz với
tốc độ khoảng 100Kb/s đến 16b/s.
Các mạng quãng bá hồng ngoại cũng có dải tần như trên nhưng có tốc độ
truyền thực tế chỉ đạt dưới 1Mb/s.
2. Thiết bò mạng:
a. Các bộ giao tiếp mạng:
Các bộ giao tiếp mạng có thể được thiết kế ngay trong Mainboard của máy tính
hoặc ở dạng các tấm giao tiếp mạng ( Network Interface Card- NIC ) hoặc là các bộ
thích nghi đường truyền.
Một NIC có thể được cài đặt vào một khe cắm (slot ) của máy tính . Đây là loại
thiết bò thông dụng nhất để nối máy tính với mạng. Trong NIC có bộ thu phát với một
số kiểu đầu nối. Bộ thu phát chuyển đổi các tín hiệu bên trong máy tính thành các tín
hiệu mà mạng đòi hỏi và cũng biến đổi ngược lại các tín hiệu truyền trên mạng thành
các tín hiệu mà máy tính có thể làm việc được.


Bộ thích nghi đường truyền là thiết bò có chức năng làm thích nghi một kiểu
đầu nối nào đó trên máy tính với một kiểu đầu nối khác mà mạng đòi hỏi. Có các bộ
thích nghi đường truyền như là: transceiver, media filter, parallel port adapter, SCSI
port adapter.
 Hub ( bộ tập trung ):
Hub là bộ chia hay còn gọi là bộ tập trung ( concentrators) dùng để đấu mạng.
Có các loại Hub như sau: Passive Hub, Active Hub, và Intelligent Hub.
 Repeater ( bộ chuyển tiếp ):
Repeater có chức năng tiếp nhận và chuyển tiếp các tín hiệu dữ liệu thường
được dùng nối hai đoạn cáp mạng Ethernet ( để mở rộng mạng).
Một số repeater chỉ có chức năng đơn giản là khuếch đại tín hiệu. Tuy nhiên
lúc đó mọi tiếng ồn trên mạng cũng bò khuếch đại theo. Ngoài ra nếu tín hiệu gốc đã
bò nhiễu thì repeater này cũng khuếch đại luôn nhiễu.
Các loại repeater tiên tiến hơn có thể mở rộng phạm vi của đường truyền mạng

bằng hai cách: khuếch đại và tái sinh tín hiệu. Chúng đònh danh dữ liệu trong tín hiệu
nhận và dùng dữ liệu đó để tái sinh tín hiệu gốc.
 Bridge ( Cầu ):
Bridge là một thiết bò mềm dẻo hơn rất nhiều so với repeater. Một repeater
chuyển đi tất cả các tín hiệu mà nó nhận được. Còn Bridge thì có chọn lọc và chỉ
chuyển đi các tín hiệu có đích ở phần mạng phía bên kia.
 Multiplexor (bộ dồn kênh ):
Multiplexor là thiết bò có chức năng tổ hợp một số tín hiệu để chúng có thể
được truyền với nhau và sau đó khi nhận lại được tách ra trở thành tín hiệu gốc.
 Modem:


Modem ( Modulation/ demodulation ) là thiết bò có chức năng chuyển đổi tín
hiệu số thành tín hiệu analog và ngược lại để kết nối các máy tính qua đường điện
thoại.
Modem cho phép trao đổi thư điện tử, truyền tệp và trao đổi dữ liệu theo yêu
cầu. Tuy nhiên modem không phải là thiết bò liên mạng nên nó không thể nối kết các
mạng ở xa với nhau. Để khắc phục điều này ta có thể kết hợp với router để nối kết
các mạng qua mạng điện thoại chuyển mạch công cộng.
 Router :
Router ( bộ chọn đường ) là thiết bò có chức năng tương tự như bridge, tuy
nhiên nó đa năng hơn bridge vì có thể thực hiện các giải thuật chọn đường đi tối ưu
theo một chỉ tiêu nào đó.
B. Giao tiếp nối tiếp:
Những thiết bò thực hiện việc giao tiếp bao gồm hai loại là : DCE ( Data
Communications Equipment ) và DTE ( Data Terminal Equipment ).
DTE ( còn gọi là thiết bò đầu cuối dữ liệu ) là một thuật ngữ chung để chỉ các
máy của người sử dụng cuối, chúng có thể là máy tính hoặc một trạm cuối (terminal ).
Như vậy tất cả các ứng dụng của người sử dụng điều nằm ở DTE. Mục đích của mạng
máy tính chính là để nối các DTE lại cho phép chúng phân chia tài nguyên, trao đổi

dữ liệu và lưu trữ thông tin dùng chung.
DCE ( còn gọi là thiết bò cuối kênh dữ liệu ) là thuật ngữ chung dùng để chỉ các
thiết bò nối các DTE với các đường ( mạng) truyền thông. Nó có thể là một Modem,
Transducer, Multiplex…DCE có thể được cài đặt ngay bên trong DTE hoặc đứng riêng
như một thiết bò độc lập. Chức năng chính của DCE là chuyển đổi tín hiệu biểu diễn
dữ liệu của người sử dụng thành dạng tín hiệu chấp nhận được bởi đường truyền và
ngược lại.


Việc truyền dữ liệu, chủ yếu được thực hiện thông qua mạng điện thoại, phải
tuân theo những nguyên tắc nhất đònh, và thường là dùng các chuẩn truyền được quốc
tế hóa. Có nhiều chuẩn truyền thông khác nhau, trong đó có các chuẩn thuộc họ RS- (
ngày nay đã đổi thành họ EIA- ) của EIA ( Electronics Industries Association ) được
sử dụng rất phổ biến là: RS-232C, RS-422A, RS-423, RS-485. Chúng ta sẽ lần lượt
khảo sát từng chuẩn trên.

I. Đặc điểm của các chuẩn truyền thông RS-232C, RS-422A, RS-485:

Thông số
Chiều dài

RS-232C
15m

RS-422
1.2km

RS-423
1.2km


RS-485
1.2km

cáp

(50 ft)

(4000ft )

(4000ft)

(4000ft)

20Kbs/15

10M

100Kbs/9

10Mbs/12

m

bs/12m

m

m

1Mbs/120


10Kbs/90

1Mbs/120

m

m

m

100Kbs/1.2k

1Kbs/1.2k

100Kbs/1.2k

Unbalance

m
Balanced

m
Balanced

m
Balanced

d


Differenti

Differenti

Differentia

1
1

al
1
10

al
1
10

l
32
32

Length
(max)
Baud rate
(Tốc

độ

Baud)


Mode

Driver No.
Receiver


Logic 0

+3V-

+2V->+5V

+3.6V-

+1.5V-

Logic 1

>+25V
-3V
->-

-2V-> -5V

>+6V
-3.6V ->-

>+5V
-1.5V ->-


Communit

25V
2V

1.8V

6V
3.4V

5V
1.3V

y
Cable/sign

1

2

2

2

al
Methode
Phương

Simplex
Half-


Simplex
Half-

Simplex
Half-

Simplex
Half-

thức

duplex

duplex

duplex

duplex

Full-

Full-

Full-

Full-

duplex
500mA


duplex
150 mA

duplex
150mA

duplex
150mA

Short
circuit

current
1. Chuẩn RS-232C :
Là chuẩn của EIA nhằm đònh nghóa giao diện vật lý giữa DTE và DCE (ví dụ
như giữa một máy tính và một modem ). Chuẩn này sử dụng đầu nối 25 chân, tuy
nhiên chỉ có một số ít chân là thực sự cần thiết cho việc liên kết. Về phương diện
điện , chuẩn này quy đònh các mức logic 0 và 1 tương ứng với các điện thế nhỏ
hơn -3V và lớn hơn +3V. Tốc độ đường truyền không được vượt quá 20Kbs và
khoảng cách nhỏ hơn 15m.
Chuẩn RS-232C có thể chấp nhận phương thức truyền song công ( full-duplex
).
Một trong những yêu cầu quan trọng của RS-232C là thời gian chuyển từ
mức logic này sang mức logic khác không vượt quá 4% thời gian tồn tại của một


bit. Giả sử với tốc độ truyền 19200 baud thì thời gian chuyển mức logic phải nhỏ
hơn 0.04/19200 = 2.1µs. Điều này làm giới hạn chiều dài đường truyền. Với tốc độ
19200baud ta có thể truyền xa nhất là 50ft (15.24m ).

Một trong những vấn đề quan trọng cần chú ý là khi sử dụng RS-232C là mạch
thu phát không cân bằng ( đơn cực ), tức là tín hiệu vào và ra được so với đất.
2. Chuẩn RS-422A:
Một cải tiến quan trọng của chuẩn RS-232C là chuẩn RS-422A. Chuẩn này sử
dụng việc truyền dữ liệu sai lệch differential data ) trên những đường truyền cân
bằng. Một dữ liệu sai lệch cần hai dây, một cho dữ liệu không đảo (non-inverted) và
một đường cho dữ liệu đảo (inverted). Dữ liệu được truyền trên đường dây cân bằng,
thường là cặp dây xoắn với một trở ở đầu cuối. Một IC lái (driver) sẽ biến đổi các
mức logic thông thường thành một cặp tín hiệu sai lệch để truyền. Bên nhận sẽ có
một mạch chuyển đổi tín hiệu sai lệch thành các mức logic tương ứng. Các IC lái
RS-422A hầu hết hoạt động với nguồn +5V như các chip logic khác. Với chuẩn mới
này, tốc độ cũng như khoảng cách truyền được cải thiện rất nhiều.
3. Chuẩn RS-485 :
Giao tiếp EIA RS-485 là một cải tiến của chuẩn RS-422A. Đặc tính điện của
nó giống như chuẩn RS-422A. RS-485 là chuẩn truyền vi sai, sử dụng hai dây cân
bằng. Với RS-485 tốc độ truyền có thể đạt đến 10Mbs và chiều dài cáp có thể lên đến
1.2km. Điện áp vi sai ngõ ra từ +1.5V-> +5V nếu là logic mức 0 và mức logic 1 sẽ là
từ -1.5V-> -5V. Một đặc điểm quan trọng của RS-485 là có thể cung cấp đến 32
drivers và receivers trên cùng một đường truyền. Điều này cho phép tạo thành một
mạng cục bộ. Để có khả năng như vậy, ngõ ra driver RS-485 phải là ngõ ra 3 trạng
thái. Và do đó một slave sẽ ở trạng thái tổng trở cao khi nó không được chọn để giao
tiếp cùng với master.


Chỉ có một trạm được chọn làm master, các trạm còn lại đều là slave. Master
được quyền truyền bất cứ lúc nào, nó sẽ chỉ đònh một slave bất kì giao tiếp với nó.
Slave chỉ có thể truyền sau khi nhận được lệnh của master. Mọi slave có một đòa chỉ
riêng trên đường truyền và sẽ không được phép truyền nếu không có yêu cầu từ
master.
II. Các phương thức truyền thông:

Có 3 phương pháp truyền được dùng trong mục đích truyền thông tin: Đơn
công, bán song công, và song công. Ta sẽ lần lượt khảo sát các phương pháp truyền
trên.
1. Đơn công:
Đường truyền đơn công có khả năng truyền dữ liệu chỉ theo một hướng.
Nguyên nhân không phải do tính chất của đường dây đơn giản chỉ vì một đầu cuối
chỉ có một máy phát và đầu cuối kia cũng chỉ có một máy thu. Cấu hình này ít được
sử dụng trong các máy tính vì không có cách nào để máy thu phát tín hiệu nhận biết
tới máy phát cho biết thông điệp đã nhận đúng. Phát thanh và truyền hình là một
trong những thí dụ về đơn công.
2. Bán song công(Half-duplex Communication):
Đường truyền bán song công có thể phát và nhận dữ liệu theo cả hai hướng
không đồng thời. Trong suốt một cuộc truyền, một modem là máy phát và modem
còn lại sẽ là máy thu. Ví dụ như một thiết bò A là máy phát gởi dữ liệu đến thiết bò B
là máy thu, sau đó A và B đổi vai trò cho nhau, B là máy phát gởi tín hiệu báo dữ liệu
nhận được có lỗi hay không đến máy thu A. Nếu không có lỗi thì A và B sẽ lại đổi vai
trò cho nhau và A tiếp tục gởi dữ liệu đến máy thu B. Nếu máy thu B báo dữ liệu có
lỗi thì máy phát A sẽ gởi lại dữ liệu cũ cho đến khi B báo là dữ liệu không có lỗi.


Nhược điểm của phương pháp này là thời gian cần để chuyển đường truyền bán
song công từ hướng này sang hướng khác có thể dài gấp nhiều lần thời gian truyền
một kí tự. Sự chuyển động của xe trên đường ray là một thí dụ về phương pháp này.
3. Song công ( Full-duplex Communication):
Ngược lại so với truyền bán song công, đường truyền song công có khả năng
phát và nhận dữ liệu đồng thời theo cả hai hướng. Một cách khái quát, đường truyền
song công tương đương với 2 đường truyền đơn công, một đường cho mỗi hướng.
Vì hai đường truyền có thể tiến hành song song, một đường cho mỗi hướng, nên
truyền song công có thể phát nhiều thông tin hơn truyền bán song công với cùng tốc
độ truyền dữ liệu. Truyền song công không mất thời gian để thay đổi hướng truyền.

III. Truyền thông tuần tự:
Hầu hết các máy tính lưu trữ dữ liệu và thao tác dữ liệu theo cách song song.
Nghóa là khi gởi một byte từ bộ nhận này tới bộ nhận khác của máy tính, nó không
truyền từng bit một mà một lúc một byte trên những cáp sợi song song nhau. Số các
bit truyền đi cùng một lúc thay đổi tùy thuộc vào từng máy tính nhưng thông thường là
8 hoặc bội của 8.
Tuy nhiên việc truyền dữ liệu từ máy tính này đến máy tính hay một thiết bò
khác thì xảy ra theo kiểu tuần tự, nghóa là dữ liệu được gởi đi từng bit một. Một bộ
giao tiếp tuần tự sẽ đảm nhận nhiệm vụ chuyển đổi dữ liệu từ song song sang nối tiếp
trước khi chúng gởi đi hoặc đổi từ nối tiếp sang song song khi chúng nhận về.
Có hai hình thức truyền thông tuần tự: truyền thông đồng bộ và không đồng bộ.
 Truyền thông bất đồng bộ ( Asynchronous communication):
Khoảng thời gian giữa hai kí tự truyền đi không cố đònh, mặc dù khoảng thời
gian giữa hai bit liên tiếp trong một kí tự là không thay đổi nhưng khoảng thời gian


giữa hai kí tự liên tiếp không phải là hằng số. Sự biến thiên tốc độ này làm nảy sinh
vấn đề là phải làm sao máy thu phân biệt được giữa bit 0 và không có dữ liệu.
Để giải quyết vấn đề trên , người ta phát trực tiếp một bit start ngay trước một
kí tự và một hoặc hai stop bit ngay sau mỗi kí tự được truyền đi.
Để kiểm tra lỗi đường truyền, người ta sử dụng bit chẵn lẻ( parity bit), tức kiểm
tra tổng số bit trong 1 byte dữ liệu được truyền.

Phương thức này thường được sử

dụng trong các máy tính PC vì tính đơn giản của nó. Hạn chế của phương pháp này là
tốc độ truyền thấp do phải truyền thêm một số bit start, bit stop và bit parity.
 Truyền thông đồng bộ ( Synchronous Communications):
Phương thức truyền này không dùng các bit start, stop để đóng khung mỗi kí tự
mà chèn các kí tự đặc biệt như SYN ( Synchronization), EOT (End Of Transmission)

hoặc một cờ giữa các dữ liệu của người sử dụng để báo hiệu cho bên nhận biết rằng
có dữ liệu đang đến hay đã đến.
Truyền đồng bộ thường được tiến hành ở tốc độ dưới 4800Bps,9600Bps hoặc
thậm chí còn cao hơn. Trong phương pháp này, một khi đã đồng bộ, các modem vẫn
tiếp tục gởi các kí tự để duy trì đồng bộ, ngay cả lúc không phát dữ liệu. Một kí tự
“idle” được gởi đi khi không có dữ liệu phát. Trong phương pháp truyền đồng bộ
không giống như phương pháp truyền bất đồng bộ, khoảng thời gian giữa hai kí tự
luôn bằng nhau.
Truyền thông đồng bộ đòi hỏi các xung clock trong máy phát và thu phải duy
trì đồng bộ những khoảng thời gian dài. Thời gian truyền có thể tiếp tục lâu mà không
có sự tái đồng bộ của máy thu với pha của máy phát tùy thuộc vào sự ổn đònh của
xung clock.



×