Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Chữ viết tiếng việt và luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 80 trang )

TRƯờNG ĐạI HọC SƯ PHạM Hà NộI 2
KHOA giáo dục tiểu học
************

Bùi thị toàn

Chữ viết tiếng việt và luyện chữ
đẹp cho học sinh tiểu học

KHOá LUậN TốT NGHIệP ĐạI HọC
Chuyên ngành: Tiếng Việt

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học
Ths. Lê thị lan anh

Hà Nội - 2010

6


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chữ viết là sáng tạo kì diệu của con người, có vai trò rất to lớn đối với
lịch sử phát triển của cả xã hội loài người. Chữ viết là một công cụ dùng để
giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những
tri thức văn hóa, khoa học và đời sống…giúp con người có thể kế thừa và học
tập lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Do vậy, ở trường tiểu học,
việc dạy học sinh biết chữ để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan
trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập viết nói
riêng.


Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn Tập
đọc, Học vần giúp cho trẻ biết đọc thông thì phân môn Tập viết sẽ giúp trẻ
viết thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo chữ Quốc ngữ sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh
hơn, học tốt hơn.
Ngoài ra, Tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học
sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kiên trì sáng tạo,
tính kỉ luật và khiếu thẩm mĩ. Việc dạy chữ cũng chính là rèn nết người như
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của
nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỉ luật, lòng tự trọng đối với mình…”
Hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển, với sự tiện ích của máy
tính, người ta soạn thảo văn bản bằng máy là chủ yếu thay vì cầm bút viết trên
giấy. Họ cho rằng không nên đầu tư quá vào việc luyện chữ. Ý kiến đó là có
cơ sở nhưng thực tế của cuộc sống hiện đại, của nhịp sống nhanh, tốc độ sống
mạnh, dù con người sử dụng máy tính nhưng vẫn không thể thiếu được cây

7


bút và quyển sổ tay để ghi chép. Viết đúng, viết nhanh, viết đẹp,… vẫn rất cần
thiết đối với mọi người, đặc biệt là đối với các em học sinh tiểu học. “Viết
chữ đẹp” thực sự là nguyện vọng, là lòng mong muốn của mỗi giáo viên và
học sinh nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc dạy chữ và xuất phát từ ước
muốn của người giáo viên tiểu học tương lai dạy “nét chữ”, rèn “nết người”
cho các em học sinh, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu đề tài:
“Chữ viết tiếng Việt và luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu học”. Đề tài này sẽ
đem lại cho chúng tôi những kinh nghiệm quý báu phục vụ cho việc giảng
dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề

Từ lâu chữ viết tiếng Việt và việc rèn luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu
học đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Năm 1974, tác giả Hồng Giao trong cuốn Tạp chí Ngôn ngữ, số 1 đã
tìm hiểu một số đặc điểm của tiếng Việt. Tác giả đưa ra vài ý kiến về một số
đặc điểm của tiếng Việt, đồng thời nêu lên những nét khác biệt giữa tiếng Việt
và mấy ngôn ngữ khác cùng loại hình (chủ yếu là Hán phổ thông), Nùng, Tày,
Thái.
Đến năm 1996, tác giả Lý Toàn Thắng trong cuốn Tạp chí Ngôn ngữ,
số 1 khi nghiên cứu về chữ Quốc ngữ đã trình bày những chặng đường hình
thành và hoàn tất chữ Quốc ngữ cùng với sự đánh giá đóng góp của
Alexandre De Rhodes đối với sự “thành hình” chữ Quốc ngữ.
Trong Tạp chí Giáo dục Tiểu học, số 5, năm 1999, trong diễn đàn về
giảng dạy và chỉ đạo ở tiểu học, tác giả Hoàng Thanh Long và tác giả Nguyễn
Có đều đề xuất một số giải pháp, biệp pháp nhằm nâng cao chất lượng “Vở
sạch - chữ đẹp” ở tiểu học. Cũng trong diễn đàn này, tác giả Văn Thịnh cũng
đề cập đến rèn nề nếp và kĩ thuật viết chữ cho học sinh tiểu học.

8


Đến năm 2000, Tạp chí Giáo dục Tiểu học, số 4, tác giả Nguyễn Hữu
Cao đã đưa ra kinh nghiệm dạy chữ viết, rèn nết người: Bồi dưỡng cho học
sinh lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết, chia chữ ra từng
loại và rèn dứt điểm, đề cao sự gương mẫu về chữ viết của giáo viên, tổ chức
tốt các phong trào thi đua.
Còn trong cuốn Dạy học Chính tả ở Tiểu học, Nxb Giáo dục, năm
2001, tác giả Hoàng Văn Thung - Đỗ Xuân Thảo lại bàn về đặc điểm chữ
tiếng Việt liên quan tới chính tả. Đặc biệt, tác giả nêu ra những chữ cái sử
dụng nguyên mẫu chữ cái La tinh đã đơn giản hóa, những dấu phụ dùng để
tạo chữ mới trên cơ sở chữ cái La tinh nguyên mẫu, các dấu thanh ghi thanh

điệu, các dấu chấm câu, hệ thống chữ số.
Trong cuốn Chữ viết và dạy Chữ viết ở tiểu học, Nxb Đại học Sư
phạm, năm 2002, tác giả Lê A đã nghiên cứu vấn đề chữ viết, nguồn gốc chữ
viết tiếng Việt. Đặc biệt, tác giả bàn kĩ về việc tổ chức dạy Tập viết, Chính tả
ở tiểu học và đưa ra các bước luyện tập để học sinh viết chữ đúng, đẹp,
nhanh.
Tiếp tục đến năm 2003, trong Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, tác giả
Nguyễn Thế Lịch lại bàn về vấn đề: các nguyên tắc triển khai việc dạy chữ và
âm trong Tiếng Việt lớp 1. Tác giả trình bày một số nguyên tắc cơ bản, đó là:
dựa vào hình dáng chữ, dạy theo nguyên tắc dạy loại văn tự ghi âm, dạy theo
nguyên tắc đưa các đơn vị hành chức, dạy trường hợp bình thường vào trước
trường hợp ngoại lệ và dạy theo tần số xuất hiện.
Trong Báo Dạy và học ngày nay, số 5, tháng 3 năm 2003, tác giả
Hoàng Xuân Tâm - Bùi Tất Tươm đã nghiên cứu về việc dạy Tập viết và
Chính tả ở lớp 1. Tác giả cho rằng ở phân môn Tập viết cần dạy cho học sinh kĩ
năng: ngồi đúng tư thế, tay cầm bút đúng kiểu và cách luyện viết chữ đúng,
đẹp, nhanh.

9


Năm 2004, tác giả Hoàng Cao Cương trong Tạp chí Ngôn ngữ, số 1,
khi nghiên cứu về chữ Quốc ngữ hiện nay đề cập đến mối quan hệ giữa âm và
chữ, đưa ra bảng chữ cái hiện thời trong quan niệm của nhiều học giả gồm:
bảng chữ cái bình dân (40 đơn vị) và bảng chữ cái bác học - dân tộc (29 đơn
vị). Tác giả nhấn mạnh trong điều kiện thông tin bùng nổ, việc chúng ta có hệ
chữ viết La tinh hóa là một lợi thế lớn và muốn chủ động tận dụng nó cho sự
phát triển các khu vực chức năng khác của ngôn ngữ thành văn hiện nay thì
cần phải có một bảng chữ cái công cụ được quốc tế hóa, loại đi một số chữ cái
đặc thù Việt thay vào đó là các chữ cái nói chung, phổ biến ở các quốc gia

đang sử dụng hệ chữ cái La tinh. Đó là bảng chữ cái bác học - quốc tế (26
đơn vị).
Và gần với đề tài chúng tôi nghiên cứu là cuốn Dạy và học Tập viết ở
tiểu học, năm 2005, Nxb Giáo dục của tác giả Trần Mạnh Hưởng (chủ biên).
Tác giả đi sâu nghiên cứu về các mẫu chữ viết trong trường tiểu học: chữ cái
viết thường và chữ số, chữ cái viết hoa, từ đó đưa ra các biện pháp tổ chức
dạy học, hướng dẫn học sinh viết chữ. Ngoài ra, tác giả còn dành hẳn một
phần để giới thiệu một vài biện pháp luyện chữ đẹp đối với giáo viên và gợi ý
bài tập luyện viết chữ đẹp.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu nguồn gốc, đặc điểm của chữ viết tiếng Việt, từ đó
đề xuất một số biện pháp luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu học, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học phân môn Tập viết nói riêng và môn Tiếng Việt nói
chung.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Nguồn gốc, đặc điểm chữ viết tiếng Việt, biện pháp luyện chữ đẹp cho
học sinh.

10


4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khóa luận này, chúng tôi đi sâu vào biện pháp luyện chữ đẹp cho
học sinh tiểu học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận chữ viết tiếng Việt, khái niệm và vai
trò của chữ viết, nguồn gốc và đặc điểm của chữ viết tiếng Việt, việc dạy Tập
viết ở trường tiểu học.
- Đưa ra một số biện pháp luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu học nhằm

nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh tiểu học.
- Đưa ra hệ thống bài tập luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu học.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp đọc sách để tìm
hiểu cơ sở lí luận. Sau đó dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để chia các
chữ ra từng loại thuận tiện cho việc luyện chữ đẹp. Và phương pháp tổng hợp
giúp chúng tôi đánh giá, nhìn nhận vấn đề một cách khái quát.
7. Cấu trúc khóa luận
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Một số biện pháp luyện chữ đẹp cho học sinh tiểu học
Phần 3: Kết luận
Phần 4: Phụ lục

11


NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái niệm và vai trò của chữ viết
Chữ viết là hệ thống kí hiệu được thể hiện bằng đường nét dùng để ghi
lại lời nói dưới dạng văn bản có thể truyền đi trong không gian và lưu giữ
trong thời gian.
Chữ viết đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của xã hội loài người.
Trước hết là tác dụng của chữ viết đối với việc biểu đạt thông tin. Phương tiện
vật chất của ngôn ngữ là âm thanh, mà tai nghe của con người chỉ có thể nghe
trong một khoảng không gian nhất định. Mỗi lời nói chỉ thu nhận lúc phát ra,
sau đó không còn nữa. Như vậy, ngôn ngữ âm thanh bị hạn chế cả không gian

lẫn thời gian. Chữ viết dựa trên ấn tượng về thị giác nên có thể vượt qua hạn
chế thời gian và hiện tượng “tam sao thất bản”. Nhờ chữ viết, người đời sau
hiểu được người đời trước, người đời trước có thể nhắn nhủ người đời sau.
Vai trò của chữ viết còn thể hiện trong quan hệ với ngôn ngữ. Khi chưa
có chữ viết, hoạt động ngôn ngữ chỉ dừng lại ở lời nói, tức là nghe và nói. Có
chữ viết, hoạt động ngôn ngữ có thêm một dạng mới - dạng viết: viết và đọc.
Càng ngày hoạt động viết và đọc càng cần thiết, là tiêu biểu cho hoạt động
ngôn ngữ văn hoá. Chữ viết góp phần vào sự phát triển của chính bản thân
ngôn ngữ. Đó là chữ viết góp phần cố định hoá ngôn ngữ âm thanh, lưu giữ
lại sáng tạo kì diệu về mặt ngôn ngữ của các thế hệ trước cho các thế hệ sau
kế thừa và phát triển. Chữ viết còn là phương tiện làm cho việc giáo dục ngôn
ngữ được thực hiện thuận lợi. Chính vì thế mà ở bậc Tiểu học, việc học đọc,
học viết là nhiệm vụ ưu tiên số một.

12


1.2. Nguồn gốc và đặc điểm chữ viết tiếng Việt
1.2.1. Nguồn gốc chữ viết tiếng Việt
Chữ viết tiếng Việt thường được gọi là chữ Quốc ngữ. Gọi là chữ Quốc
ngữ, còn có tác dụng phân biệt với chữ Hán (chữ viết tiếng Hán của Trung
Quốc) và chữ Nôm (chữ viết tiếng Việt được tạo ra trên cơ sở chữ Hán). Chữ
Hán và chữ Nôm tồn tại trong thời kì phong kiến, có phạm vi sử dụng hạn
chế. Chữ Hán là văn tự ngôn ngữ chính thức trong giao dịch hành chính, giáo
dục và nhiều lĩnh vực khác (văn, sử, địa lí,…) dưới các triều đại vua chúa
Việt Nam hay chính quyền đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Tuy vậy, chữ
Hán không ghi hết tên người, tên địa phương, tên núi, các loại sản vật của
Việt Nam bởi một số khuôn hình ngữ âm tiếng Việt không tìm thấy trong
tiếng Hán. Tiếp sau đó là chữ Nôm ra đời. Tuy là một thứ chữ Quốc ngữ
nhưng chưa bao giờ chữ Nôm được thực hiện chức năng một ngôn ngữ quốc

gia thống nhất. Chữ Nôm chỉ dựa vào cấu tạo chữ Hán để ghi âm tiếng Việt,
mang tính chủ quan của người sáng tạo và người sử dụng. Do đó, chữ Nôm
không thống nhất về cách viết, có nhiều chữ khó hiểu.
Chữ viết tiếng Việt hiện nay có nguồn gốc ở chữ viết một số ngôn ngữ
châu Âu bởi sự giống nhau ở bộ chữ cái La tinh (như chữ Bồ Đào Nha, chữ
Ý, chữ Pháp,…), được du nhập vào nước ta từ đầu thế kỉ XVII nhằm phục vụ
cho việc truyền giảng đạo Thiên chúa. Đó là chữ Quốc ngữ. Tiến trình của
chữ Quốc ngữ từ khi khởi thảo đến khi hoàn tất là cả một quãng thời gian gần
2 thế kỉ, gồm bốn chặng chính:
1. Thời kì sơ khởi, phôi thai của chữ Quốc ngữ, từ 1620 đến 1631, với
các tài liệu viết tay của J. Roiz (1621), Gaspar Luis (1626), Alexandre de
Rhodes (1625), Antonio De Fontes (1626), Francisco Buzomi (1626) và cuốn
sách của Christopho Borri (in năm 1631).

13


2. Thời kì hình thành chữ Quốc ngữ, từ 1631 - 1648 với những thư từ
và tài liệu của Alexandre de Rhodes (1631, 1636, 1644, 1647), của Gaspar
d’Amaral (1632, 1637) và hai tài liệu viết tay khác (1645, 1648). Ngoài ra có
thể kể đến một số chữ Quốc ngữ dùng để phiên âm chữ Nôm trong 40 tác
phẩm viết tay bằng chữ Nôm do G. Maiorica biên tập từ 1634 -1640.
3. Thời kì phát triển chữ Quốc ngữ, từ 1651 - 1659 với những tài liệu
quan trọng biên soạn vào năm 1659 của Igesico Văn Tín và Bento Thiện.
4. Thời kì hoàn tất chữ Quốc ngữ, từ 1772 - 1838 với bản thảo viết tay
Từ điển Việt - La của Pigneau de Béhaine (1772) và việc ấn hành Từ điển Việt
- La của Taberd có thể thấy chữ Quốc ngữ đã có thể thức và diện mạo như
đang sử dụng hiện nay. Trong giai đoạn này, còn phải kể đến những tiến bộ
của chữ Quốc ngữ trong 26 cuốn sách viết tay (khoảng 4000 trang) của
Philiphê Bỉnh sao chép từ 1796 đến 1830 (ở Lisboa).

Như vậy, sự chế tác chữ Quốc ngữ là một công việc tập thể của nhiều
linh mục Dòng Tên người châu Âu, trong đó ngoài Alexandre de Rhodes nổi
bật lên vai trò của các giáo sĩ Bồ Đào Nha: Francisco de Pina, Gaspar
d’Amaral và Antonio Barbasa. Trong công việc này có sự cộng tác tích cực và
hữu hiệu của nhiều người Việt Nam, trước hết là của thầy giảng Việt Nam
(giúp việc cho các Linh mục người châu Âu). Alexandre de Rhodes không
phải là người châu Âu đầu tiên sáng tạo ra chữ Quốc ngữ song ông có công
lao rất to lớn đã góp phần sửa sang, hoàn chỉnh để thành hình bộ chữ Quốc
ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu
tiên cuốn “Từ điển Việt - Bồ - La” và “Phép giảng tám ngày”. Cuốn “Phép
giảng tám ngày” có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng
chữ Quốc ngữ, sử dụng lời ăn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt
Nam thế kỉ XVII.

14


Vì tính ưu việt của chữ Quốc ngữ nên nó trở thành một công cụ giao
tiếp thuận lợi, được nhân dân ta chấp nhận. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử, địa
vị chữ Quốc ngữ còn phải trải qua một thời gian lâu dài mới được khẳng định
là chữ viết chính thức của dân tộc ta như ngày nay.
1.2.2. Đặc điểm chữ viết tiếng Việt
Chữ viết tiếng Việt là chữ ghi âm. Nói chung đó là một hệ thống chữ
viết tiến bộ. Nguyên tắc cơ bản của kiểu chữ này là nguyên tắc ngữ âm học.
Về cơ bản, nguyên tắc đảm bảo sự tương ứng một - một giữa âm và chữ, tức
là mỗi âm chỉ ghi lại một chữ, mỗi chữ chỉ có một cách phát âm. Ngoài ra, về
mặt chữ viết, các âm tiếng Việt đều rời, có cấu tạo đơn giản nên việc đánh
vần không phức tạp lắm. Trong dạy Học vần, việc dạy viết (nhất là những tiết
đầu) có một số khó khăn nhất định do cấu tạo của hệ thống chữ viết tiếng Việt
còn tồn tại một số bất hợp lý:

Thứ nhất, một âm ghi bằng nhiều con chữ. Ví dụ:
- Âm / k / ghi bằng ba con chữ c, k, q
- Âm / i / ghi bằng hai con chữ i, y
- Âm / / ghi bằng hai con chữ g, gh
- Âm / / ghi bằng hai con chữ ng, ngh
- Âm / ie / ghi bằng bốn con chữ iê, yê, ia, ya
- Âm / uo / ghi bằng hai con chữ uô, ua
- Âm / / ghi bằng hai con chữ ươ, ưa
Thứ hai, một chữ dùng để ghi nhiều âm. Ví dụ:
- Chữ g khi biểu thị âm / / ( ghế,…), khi biểu thị âm / z / (gì, gìn,…).
- Chữ a chủ yếu dùng biểu thị âm / a /, nhưng đứng trước u và y là âm
tiết lại biểu thị âm / ă /, còn trong tổ hợp ia thì a biểu thị yếu tố thứ hai của
nguyên âm đôi / ie / , trong tổ hợp ua thì a biểu thị yếu tố thứ hai của nguyên
âm đôi / uo /.

15


- Chữ o chủ yếu dùng để biểu thị nguyên âm / / nhưng khi đứng ngay
sau a, e với tư cách là âm cuối thì biểu thị bán âm / u / (gạo, kẹo,…), khi đứng
trước a, e lại biểu thị là âm đệm / u / (hoa, hoe…).
Thứ ba, ghép nhiều con chữ để biểu thị một âm như các trường hợp sau: ch,
tr, gh, ngh, kh, nh, ph, th.
Tuy nhiên, chữ viết tiếng Việt có cấu tạo đơn giản từ các nét cơ bản và
tiếng Việt có tính thống nhất cao nên việc dạy chữ đối với học sinh lớp 1 ở
Việt Nam có thể giải quyết trọn vẹn trong vòng hai, ba tháng.
Khi hướng dẫn học sinh viết chữ, giáo viên thường sử dụng tên gọi các
nét cơ bản để mô tả hình dạng, cấu tạo và quy trình viết một chữ cái tiếng
Việt. Nét cơ bản là nét bộ phận dùng để tạo thành nét viết hay hình chữ cái.
Nét cơ bản có thể đồng thời là nét viết hoặc kết hợp hai, ba nét cơ bản để tạo

thành một nét viết. Nét viết là một đường liền mạch, không phải dừng lại để
chuyển hướng ngòi bút hay nhấc bút. Nét viết có thể là một hay nhiều nét cơ
bản tạo thành. Việc xác định hệ thống nét chữ được phân tích trên cơ sở số
lượng nét càng ít càng tốt để dễ dạy và dễ học. Đồng thời hệ thống nét đó lại
phản ánh được toàn bộ hệ thống chữ cái và chữ số tiếng Việt.
- Đối với chữ cái viết thường gồm 5 loại nét chính:
Loại nét cơ bản

Dạng - kiểu
- Thẳng đứng

1. Nét thẳng

- Thẳng ngang
- Thẳng xiên
- Cong kín

2. Nét cong

- Cong hở

+ Cong trái
+ Cong phải

16

Nét minh hoạ


- Móc xuôi (móc trái)

3. Nét móc

- Móc ngược (móc phải)
- Móc hai đầu

4. Nét khuyết

- Khuyết xuôi
- Khuyết ngược

5. Nét hất
- Do chữ cái viết hoa có nhiều nét cong, nét lượn tạo thẩm mĩ của hình
dáng chữ cái nên các nét cơ bản ở chữ cái viết hoa thường có biến điệu. Nét
cơ bản trong bảng chữ cái viết hoa chỉ có 4 loại chính. Mỗi loại có thể chia ra
các dạng, kiểu khác nhau (kể cả biến điệu - BĐ).
Loại nét

Dạng - kiểu

Nét minh hoạ

cơ bản
- Thẳng đứng (BĐ: Lượn ở
một đầu hay cả đầu)

1. Nét thẳng - Thẳng ngang (BĐ: Lượn
hai đầu – làn sóng)

- Thẳng xiên (BĐ: Lượn ở
một đầu hay cả hai đầu)


17


- Cong kín (BĐ: Lượn một
đầu vào trong)

+ Cong phải
- Cong hở

2. Nét cong

(BĐ:
Lượn một
đầu hay
cả hai đầu
vào
trong)

+ Cong trái

+ Cong trên

+ Cong dưới
Móc xuôi trái

Móc xuôi phải

- Móc xuôi


Móc ngược trái

3. Nét móc

Móc ngược phải

- Móc ngược

- Móc hai đầu

- Khuyết xuôi
4. Nét
khuyết
- Khuyết ngược

18

Móc hai
đầu trái

Móc hai
đầu phải

Móc hai đầu
trái - phải


Chú ý: Một số nét ghi dấu phụ của chữ cái thường giống như chữ cái hoa:
- Nét gẫy (trên đầu các chữ cái â, ê, ô) tạo bởi hai nét thẳng xiên ngắn (trái phải) hay còn gọi là dấu mũ.
- Nét cong dưới nhỏ (trên đầu chữ ă) hay gọi là dấu á.

- Nét râu (ở chữ cái ơ, ư) hay gọi là dấu ơ, dấu ư.
- Nét chấm (trên đầu chữ cái i) hay gọi là dấu chấm.
- Nét cơ bản trong bảng mẫu chữ số chỉ có 2 loại chủ yếu nét thẳng và
nét cong, được chia thành nhiều dạng kiểu khác nhau.
Loại nét cơ bản

Dạng - kiểu
- Thẳng đứng
- Thẳng ngang

1. Nét thẳng
(Biến điệu: Lượn ở một đầu,
lượn hai đầu - làn sóng)
- Thẳng xiên

- Cong kín
- Cong hở
2. Nét cong

+ Cong phải
+ Cong trái
+ Cong trên
+ Cong dưới

19

Nét minh hoạ


1.3. So sánh chữ viết tiếng Việt và một số chữ viết khác

Chữ viết tiếng Việt hay còn gọi là chữ Quốc ngữ cũng như những chữ
viết khác trên thế giới: chữ viết tiếng Anh, chữ viết tiếng Trung (chữ Hán phổ
thông), chữ viết tiếng Nga, chữ viết tiếng Nhật… đều thực hiện chức năng
một ngôn ngữ quốc gia thống nhất. Tuy nhiên, chữ viết tiếng Việt giống với
một số chữ viết ở châu Âu ở bộ chữ cái La tinh. Do đó trong phần này, chúng
tôi chỉ đưa ra một số điểm giống và khác giữa chữ viết tiếng Việt và chữ viết
tiếng Trung.
Khi nhìn hai loại chữ này, hình thể của chúng đều do các nét chữ tạo
thành. Số lượng nét chữ cũng khá nhiều gồm cả nét cơ bản và nét biến điệu.
Khi viết, chúng đều được thực hiện theo quy tắc từ trái qua phải, mỗi lần nhấc
bút được tính là một đơn vị nét.
Song, cấu tạo và cách viết chữ tiếng Việt đơn giản hơn rất nhiều so với
chữ tiếng Trung. Chữ viết tiếng Việt gồm 5 nét cơ bản: nét thẳng, nét cong,
nét móc, nét khuyết, nét hất và các nét biến điệu của nó để cấu tạo nên chữ cái
hoa. Từ những nét viết cơ bản đó hợp thành bộ chữ cái gồm 29 chữ và 9 chữ
số. Hầu hết các chữ cái trong tiếng Việt đều được cấu tạo từ nét cong và nét
móc làm cho chữ viết mềm mại hơn. Còn đối với chữ tiếng Trung gồm 8 nét
cơ bản : nét ngang, nét sổ, nét phẩy, nét mác, nét chấm, nét hất, nét sổ móc,
nét sổ hất và các nét biến điệu của nó. Nhìn chung, chữ viết tiếng Trung
thường được cấu tạo từ những nét thẳng nên chữ viết cứng hơn chữ tiếng
Việt. Bộ chữ Hán cũng nhiều hơn, gồm 214 bộ từ bộ 1 nét đén bộ 17 nét. Do
vậy, việc nhớ mặt chữ của từ tiếng Việt cũng dễ hơn từ tiếng Trung.
Về quy tắc viết cơ bản của chữ Hán phức tạp hơn nhiều so với chữ
Quốc ngữ. Trong khi chữ Việt được viết theo quy tắc từ phải sang trái, thì chữ
viết tiếng Trung được viết theo 6 quy tắc: ngang trước, sổ sau; phẩy trước,
mác sau; trên trước, dưới sau; trái trước, phải sau; từ ngoài vào trong.

20



Như vậy, chữ viết tiếng Việt là thứ chữ khá đơn giản, dễ viết nên trẻ em
Việt Nam rất dễ học. Không chỉ có vậy, người Việt còn có thể học tiếng Anh,
tiếng Pháp,… hay bất kì một thứ chữ nào đó có cấu tạo từ bộ chữ cái La tinh
một cách thuận lợi.
1.4. Việc dạy Tập viết ở trƣờng tiểu học
1.4.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn Tập viết
1.4.1.1. Mục tiêu
Cụ thể hóa mục tiêu của môn Tiếng Việt, phân môn Tập viết có mục tiêu
trang bị cho học sinh bộ chữ cái La tinh và những yêu cầu kĩ thuật để sử dụng
bộ chữ cái ấy trong hoạt động giao tiếp, góp phần rèn luyện một trong các kĩ
năng hàng đầu của việc học tiếng Việt trong trường tiểu học: kĩ năng viết.
1.4.1.2. Nhiệm vụ
a. Về kiến thức
Truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về chữ viết và kĩ thuật
viết chữ, dòng kẻ, tọa độ viết chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí
dấu thanh, dấu phụ, các khái niệm liên kết chữ cái… Từ đó hình thành ở các
em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối tính thẩm mĩ của các
chữ viết.
b. Về kĩ năng
Rèn cho học sinh các kĩ năng viết chữ (trên bảng hoặc trên vở) từ đơn giản
đến phức tạp: kĩ năng viết nét, viết nét liên kết nét tạo chữ cái, liên kết chữ cái
tạo chữ ghi âm / vần / tiếng; kĩ năng xác định khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên
vở kẻ ô li; kĩ năng viết đúng quy trình, đúng mẫu, rõ ràng, viết nhanh, viết
đẹp. Ngoài ra, tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở, cách trình bày bài
viết cũng là một kĩ năng đặc thù của việc dạy tập viết mà giáo viên cần
thường xuyên quan tâm.

21



c. Về thái độ
Ngoài ra, phân môn Tập viết còn góp phần rèn luyện cho học sinh
những phẩm chất tốt như tính cẩn thận, sự kiên trì, tính kỉ luật, khiếu thẩm mĩ.
1.4.2. Nội dung chƣơng trình và phân bố thời lƣợng
Nội dung dạy học Tập viết ở Tiểu học được phân bố trong 6 học kì (của
các lớp 1, 2, 3).
1.4.2.1. Lớp 1
Tập viết đúng tư thế, hợp vệ sinh. Viết các chữ cái cỡ vừa và nhỏ: tập
ghi dấu thanh đúng vị trí: làm quen với chữ cái hoa cỡ lớn và cỡ vừa, theo
mẫu chữ quy định, tập viết các số đã học. Do quy định của chương trình, ở
lớp 1, nội dung tập viết được triển khai ở hai phần kết tiếp nhau là phần Học
vần và phần Luyện tập tổng hợp.
Phần Học vần có hai hình tức tập viết:
- Tập viết khi học các âm, vần mới: viết các chữ ghi âm / vần / tiếng
hoặc từ trong bài học vần.
- Tập viết cuối tuần (bài tập viết độc lập). Tiết tập viết cuối tuần có tác
dụng củng cố những chữ ghi âm, vần đã học trong tuần, vì thế không có phần
tập viết các chữ ghi âm, ghi vần mà chỉ có phần luyện viết ứng dụng.
Ở phần Học vần, các bài học tập viết có thể được chia thành 3 nhóm
tương ứng với 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (6 bài đầu): Giúp học sinh nắm được những thao tác
chung của cả quá trình tập viết, luyện động tác cầm bút, cách để vở, tư thế
ngồi viết, cách xác định đường kẻ trên vở tập viết và trên khung chữ cần tập
viết, tập tô các nét chữ, chữ cái, chữ ghi tiếng.
- Giai đoạn 2 (từ bài 7 đến bài 27): Kết hợp tập tô và tập viết các chữ
cái viết thường theo đúng quy trình. Mỗi tiết học chữ ghi âm đều có tập tô, tập

22



viết các chữ cái ghi âm, tập viết các chữ ghi tiếng. Tiết tập viết mỗi tuần luyện
viết từ 4 đến 6 dòng.
- Giai đoạn 3 (từ bài 29 đến bài 103): Luyện viết chữ ghi vần, viết từ
ngữ ứng dụng (cỡ chữ vừa). Mỗi tiết học vần đều có tập viết nhóm chữ ghi
âm, vần, tập viết từ ngữ ứng dụng có chứa vần mới học.
Ở phần luyện tập tổng hợp, bài tập viết một mặt có tác dụng rèn kĩ năng
viết chữ thường (cỡ vừa và cỡ nhỏ), làm quen với chữ hoa (bằng hình thức tập
tô), mặt khác góp phần ôn luyện một số vần khó, mở rộng vốn từ cho học sinh.
Mỗi tuần có hai bài tập viết, mỗi bài học trong một tiết (2 tiết tập viết / 1 tuần).
1.4.2.2. Lớp 2, 3
Lớp 2: Tập viết đúng mẫu và đều nét các chữ thường theo cỡ nhỏ, tập
viết chữ hoa cỡ vừa và nhỏ.
Lớp 3: Viết đúng nhanh các kiểu chữ thường và chữ hoa cỡ nhỏ, viết rõ
ràng, đều nét một đoạn văn ngắn.
Nội dung và yêu cầu tập viết trong tiết học tập viết ở lớp 2, 3 luôn bám
sát nội dung bài học của sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 và sách giáo khoa
Tiếng Việt lớp 3. Theo đó, trong cả năm học, học sinh sẽ được học toàn bộ
bảng chữ cái viết hoa do Bộ Giáo dục - Đào tạo mới ban hành, gồm có 29 chữ
cái viết hoa kiểu 1 và 5 chữ cái viết hoa kiểu 2.
Bài viết ứng dụng ở lớp 2, 3 là các tên riêng, sau đó là các câu ca dao,
thành ngữ tục ngữ. Nội dung bài viết luôn đảm bảo tính kế thừa: khi viết, học
sinh có thể ôn lại kĩ năng viết các chữ đã luyện ở các bài viết trước đó.
Ngoài các bài tập viết được bố trí chính thức trong quỹ thời gian của
phân môn Tập viết, nội dung dạy tập viết còn được tích hợp trong các phân
môn khác như Chính tả và Tập làm văn. Chính vì vậy, mặc dù ở lớp 4, lớp 5
không có giờ tập viết nhưng nhiệm vụ dạy tập viết vẫn cần được thực hiện, kĩ
năng viết vẫn được rèn luyện ở mức độ cao hơn và tổng hợp hơn.

23



1.4.3. Điều kiện vật chất cần thiết cho việc dạy học tập viết
Để việc tập viết của học sinh được thực hiện một cách thuận lợi, không
gây ảnh hưởng xấu đến mắt, tay, cột sống… của các em, ta cần chú ý tới các
điều kiện vật chất cụ thể:
- Ánh sáng phòng học: Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, độ
chiếu sáng trong không gian lớp học từ 200 - 500 lux (lux: đơn vị đo độ chiếu
sáng quốc tế). Ở những nơi thiếu ánh sáng tự nhiên ta có thể dùng ánh sáng
nhân tạo (ví dụ: đèn điện) phân đều ở các phía lớp học. Chú ý treo nền cách
khoảng 2,8m và không để ánh sáng đèn làm lóa bảng lớp hoặc khuất tầm mắt
của học sinh khi các em viết vào vở.
- Bảng lớp: Nếu có điều kiện nên trang bị bảng từ tính và chống lóa.
Trên bảng có đường kẻ cự li 4 - 5cm. Ở phần phía dưới ngang tầm viết của
học sinh và ở phần bên trái của bảng cần kẻ thêm các đường kẻ mô phỏng ô li
để học sinh tập viết và để giáo viên viết mẫu. Bảng cần phải được treo ở độ
cao vừa phải: cạnh dưới của bảng ngang tầm đầu học sinh ngồi trong lớp.
- Bàn ghế học sinh: Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao trung
bình của học sinh các khối lớp. Tỉ lệ chiều cao của bàn - ghế phải tương xứng
để khi ngồi, khuỷu tay các em ngang với mặt bàn. Học sinh ngồi viết đúng tư
thế phải đặt hai chân bám đất một cách thoải mái. Mép dưới của bàn, nhìn từ
trên xuống gần thẳng hàng với mặt trước của ghế để tạo cho học sinh dáng
ngồi ngay ngắn, tránh bị cong vẹo cột sống.
- Bảng viết của học sinh (bảng con), phấn viết bảng: Nên dùng loại
bảng viết phấn, không nên dùng loại bảng Foormica và bút dạ vì loại bảng
này trơn và bút không vừa tay học sinh. Cần chọn loại bảng phẳng, mặt bảng
nhẵn nhưng không trơn, một mặt kẻ ô vuông, một mặt kẻ ngang (mô phỏng
các đường kẻ trong vở ô li). Phấn viết tốt là phấn có độ cứng vừa phải, không
bụi. Cần dùng khăn lau bảng ẩm và sạch.

24



- Bút viết: Để viết chữ đẹp thì cây bút cũng có vai trò cực kì quan trọng.
Cây bút chính là công cụ để tạo ra chữ viết. Việc lựa chọn một cây bút phù
hợp để viết đẹp là việc làm không dễ, nhất là đối với học sinh.
Đối với lớp 1, trong ba tuần đầu học sinh sẽ sử dụng bút chì để viết.
Yêu cầu bút chì luôn được gọt cẩn thận, ngòi bút không nhọn quá hoặc tày
quá để viết rõ nét chữ.
Tuần thứ tư trở đi, học sinh sẽ sử dụng bút mực để viết. Yêu cầu chọn
bút máy có ngòi gọn nét, có độ trơn vừa phải, mực xuống đều, kích thước
thân bút phải vừa tay học sinh. Một số loại bút có vỏ bằng kim loại, khi cầm
bút viết khiến cho học sinh nhanh mỏi tay và khó đìều khiển bút nhịp nhàng,
linh hoạt. Do vậy nên chọn bút vỏ nhựa và khi viết không nên đóng nắp bút
vào cuối thân bút. Loại bút này được sử dụng để viết các kiểu chữ nét đều.

Lên lớp 2, học sinh đã thành thạo viết các chữ thường nét đều. Lúc này
các em có thể dùng bút ngòi mài để viết kiểu chữ nét thanh, nét đậm. Yêu cầu
gần giống với bút máy nét trơn đều, chỉ khác ngòi bút mài phải có nét thanh,
nét đậm rõ ràng, không bị gai. Mặt dưới và trên ngòi bút đã được mài nhẵn.
Một số loại bút hiện nay được sử dụng rộng rãi:

25


- Vở Tập viết: Vở Tập viết do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành hàng
năm là phương tiện luyện chữ chủ yếu của học sinh (theo chương trình của
môn Tiếng Việt). Ngoài ra, mỗi học sinh cũng nên rèn thêm trong vở rèn chữ
ở nhà. Hiện nay, trong bộ chữ cái đang được dạy ở Tiểu học, chữ cái cao nhất
có độ cao (dài) 2,5 đơn vị chữ. Vì vậy, vở ô li để học sinh luyện viết chữ thích
hợp nhất là vở 6 đường kẻ (5 li) như các loại vở Hồng Hà, Hải Tiến 5 sao

hoặc 6 sao,…

Chú ý: Khi học sinh viết chữ nên có một tờ giấy trắng sạch kê dưới bàn tay
phải để thấm mồ hôi tay, tránh cho vở bị ướt làm nhoè chữ và mực bẩn dây ra
vở viết.
1.4.4. Phƣơng pháp dạy Tập viết
Trong mỗi tiết học, học sinh luôn là người giữ vai trò trung tâm còn
giáo viên giữ vai trò chỉ đạo, định hướng và hướng dẫn các em học tập. Để

26


gây hứng thú học tập cho học sinh và tạo được sự thành công đối với mỗi tiết
dạy, người giáo viên cần lựa chọn và phối hợp nhịp nhàng các phương pháp
dạy học và các hình thức tổ chức hoạt động. Đối với phân môn Tập viết, các
phương pháp được sử dụng thường xuyên phải kể đến phương pháp trực quan
kết hợp phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp giao tiếp, phương
pháp luyện tập - thực hành, phương pháp kể chuyện nêu gương.
1.4.4.1 Phƣơng pháp trực quan kết hợp phƣơng pháp phân tích ngôn ngữ
Để khắc sâu biểu tượng về chữ cho học sinh, giáo viên sử dụng phương
tiện trực quan là chữ mẫu. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có
các hình thức mẫu chữ: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng, chữ mẫu
trong vở tập viết, hộp chữ mẫu hoặc một bài viết đẹp, chữ của giáo viên khi
sửa chấm bài. Chữ mẫu phải đúng quy định, rõ ràng và đẹp.
Trong phân môn Tập viết, giáo viên sử dụng phương pháp phân tích
ngôn ngữ để phân tích cấu tạo chữ, kích thước chữ, mối liên kết giữa các nét
chữ trong chữ cái hoặc mối liên kết các chữ cái, dấu thanh trong chữ ghi tiếng.
Khi dạy về chữ viết, việc đưa chữ mẫu phóng to treo trên bảng sẽ giúp
học sinh dễ quan sát, cung cấp cho các em biểu tượng về chữ viết (hình dáng,
kích thước, cấu tạo của chữ).

Trong quá trình dạy viết chữ, giáo viên vừa viết vừa phân tích từng nét
của chữ cái hoặc kĩ thuật nối liền các con chữ trong một chữ có tác dụng tạo
niềm tin cho học sinh. Mặt khác, học sinh cũng dễ tiếp thu hơn, tạo điều kiện
cho việc rèn luyện kĩ năng viết liền mạch, viết nhanh.
Khi chấm bài, chữa bài, lời phê, chữ viết của giáo viên được học sinh
quan sát như một loại chữ mẫu. Do đó, giáo viên cũng phải chú ý rèn chữ viết
đúng mẫu, rõ ràng, đều đẹp.
Ngoài ra, khi dạy viết chữ, giáo viên cũng cần chú ý đọc đúng mẫu chữ
đó. Đọc đúng cũng góp phần quan trọng để đảm bảo viết đúng.

27


1.4.4.2. Phƣơng pháp giao tiếp
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu tiết học để
hướng dẫn học sinh phân tích, nhận xét cấu tạo của chữ cái, độ cao, độ rộng
con chữ, nét giống nhau và khác biệt giữa con chữ với con chữ đã học từ
trước. Giáo viên đặt câu hỏi và định hướng cho học sinh trả lời.
1.4.4.3. Phƣơng pháp luyện tập - thực hành
Đây là phương pháp rất quan trọng vì phân môn Tập viết có tính chất
thực hành. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ cần được tiến hành đồng bộ ở lớp
cũng như ở nhà, ở phân môn khác cũng như các môn học khác cũng cần chữ
viết để ghi nội dung bài. Các bài tập cho học sinh luyện tập cần chú ý các chữ
có nét giống nhau thì cùng xếp vào một nhóm để rèn. Giáo viên cho học sinh
rèn chữ với số lượng ít nhưng lặp lại nhiều lần với yêu cầu cao dần. Khi học
sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần uốn nắn để các em cầm bút và ngồi
đúng tư thế.
Có nhiều hình thức luyện tập cụ thể:
- Tập viết chữ trên bảng lớp: Hình thức này thường dùng khi kiểm tra
bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyên tập viết chữ ở lớp.

- Tập viết chữ và bảng con của học sinh: Trước khi tập viết, giáo viên
cần hướng dẫn các em cách lau bảng từ trên xuống, cách sử dụng và bảo quản
phấn, cách lau tay sau khi viết để giữ vệ sinh. Khi viết xong, học sinh cần giơ
bảng lên cho giáo viên kiểm tra. Chú ý giữ trật tự khi sử dụng hình thức này
và nên tận dụng hai mặt bảng khi viết.
- Luyện viết trong vở tập viết: Giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung
và yêu cầu về kĩ năng của từng bài viết giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng
đầu tiên ở mỗi phần bài viết. Trước khi học sinh viết, giáo viên cần nhắc nhở
một lần nữa cách cầm bút, tư thế ngồi và cách để vở sao cho đúng.

28


Đối với những học sinh viết chữ chưa quen, còn xấu, giáo viên cần uốn
nắn nét chữ cho từng bàn tay nhỏ xíu của các em. Tay các em còn non nên rất
dễ bắt tay để uốn nét cho tới khi các em viết đúng và đẹp hơn.
- Luyện tập viết chữ khi học các môn học khác: Giáo viên phải có
những yêu cầu về chữ viết của học sinh khi học những môn học khác. Coi chữ
viết là một trong những tiêu chuẩn kiểm tra, đánh giá tất cả các môn học.
1.4.4.4. Phƣơng pháp kể chuyện, nêu gƣơng
Khi dạy tập viết, điều quan trọng là phải gây được hứng thú, làm cho
học sinh yêu thích rèn viết chữ đẹp. Từ đó, các em say mê và quan tâm rèn
chữ cho đẹp hơn. Giáo viên có thể nêu những gương sáng về rèn chữ qua thực
tế được nhìn những trang vở trước và sau khi rèn chữ của thầy, của anh chị,
các bạn, các em thêm tin tưởng và quyết tâm say mê rèn luyện.
1.4.5. Quy trình lên lớp chung cho một bài Tập viết
A. Kiểm tra, củng cố bài cũ
Có thể thực hiện bước này bằng hai cách chủ yếu:
- Một số học sinh viết bảng lớp, các học sinh khác viết bảng con các
chữ đã học ở bài trước, theo yêu cầu của giáo viên.

- Giáo viên nhận xét chữ viết của học sinh trong bài tập viết của học
sinh đã thu từ buổi trước rút kinh nghiệm, cho học sinh luyện viết bảng một
số chữ khó học sinh hay viết sai.
B. Dạy bài mới
1. Giới thiệu bài mới
Để giới thiệu bài Tập viết, giáo viên cần đọc gộp cả tiếng, có thể giải
nghĩa từ và dòng chữ viết ứng dụng một cách ngắn gọn, súc tích. Sau đó cho
học sinh đọc lại toàn bài: riêng ở lớp 1 và giai đoạn đầu lớp 2, học sinh cần
phải kết hợp đọc và đánh vần.

29


2. Hướng dẫn học sinh viết
2.1. Phân tích cấu tạo chữ
Tùy vào nội dung bài tập viết, giáo viên có thể gợi ý để học sinh phân
tích cấu tạo chữ theo các nội dung cụ thể.
a. Phân tích chữ cái
Giáo viên gợi ý đặt câu hỏi và thông qua chữ mẫu trên bảng lớp để học
sinh nhận biết và phân tích cấu tạo chữ cần luyện viết, so sánh để tìm điểm
tương đồng và điểm khác biệt giữa chữ cái cần luyện viết với chữ cái đã luyện
viết trước đó (Ví dụ: có thể đặt câu hỏi về độ cao, cấu tạo của chữ, sự tương
đồng, khác biệt giữa chữ đang học với chữ đã học, điểm đặt bút, dừng bút…).
b. Phân tích tập hợp chữ ghi âm, vần, từ ngữ và câu ứng dụng
Bước này gồm một số việc chủ yếu:
- Giáo viên củng cố lại một số chữ viết khó hoặc một số chữ cái mà học
sinh hay viết sai.
- Xác định các chữ cái viết hoa (nếu có) và quan hệ giữa chữ viết hoa
với chữ cái tiếp sau trong trường hợp thuận lợi và không thuận lợi.
2.2. Giáo viên viết mẫu

- Giáo viên phân tích và minh họa cách viết (điểm đặt bút, chiều hướng
nét chữ, thứ tự viết nét, liên kết chữ cái thành tổ hợp chữ ghi âm, vần, tiếng,
điểm dừng bút), cần chú ý phân tích cả quy trình viết dấu phụ, dấu thanh,
khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng.
- Trong quá trình viết mẫu, giáo viên chú ý giảng giải cho học sinh
cách viết liên kết các chữ cái trong trường hợp thuận lợi (liên kết hai đầu) và
liên kết không thuận lợi (liên kết một đầu hoặc không có nét liên kết); hướng
dẫn cho các em kĩ thuật viết liền mạch (viết dấu phụ, dấu thanh sau khi viết
các nét chữ cơ bản, sử dụng kĩ thuật lia bút, rê bút) một cách hợp lí.

30


×