Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Bảo tồn làng cổ đường lâm sơn tây hà nội gắn với phát triển du lịch sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.93 MB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN
--------------o0o--------------

NGUYỄN THỊ HÀ

BẢO TỒN LÀNG CỔ
ĐƯỜNG LÂM – SƠN TÂY – HÀ NỘI GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Sinh thái học

Người hướng dẫn khoa học
TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

HÀ NỘI - 2011


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

LỜI CAM ĐOAN
Với nội dung của đề tài tôi xin cam đoan như sau:
1. Đề tài của tôi không hề sao chép từ bất kỳ một đề tài nào có sẵn.
2. Đề tài của tôi không trùng với một đề tài nào khác.
3. Kết quả thu được trong đề tài là do nghiên cứu thực tiễn đảm bảo tính
chính xác, trung thực.
4. Đề tài là một phần công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu


khoa học và sáng tạo kỹ thuật Việt Nam VIFOTEC năm 2010: “Góp
phần bảo tồn và phát huy bền vững giá trị văn hóa, lịch sử trong kiến
trúc truyền thống ở làng cổ Đường Lâm – Sơn Tây – Hà Nội”

Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2011
Sinh viên

NguyễnThị Hà

Nguyễn Thị Hà

ii

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hoàng Nguyễn Bình và ThS Nguyễn Văn
Hiếu người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm Khoa cùng các thầy
cô giáo và các bạn sinh viên trong khoa Sinh – KTNN đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong thời gian thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình và người thân đã giúp đỡ tôi về mọi
mặt trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học sư phạm Hà Nội 2.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức và kinh nghiệm thực tế của bản thân

còn hạn chế nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự
chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài này được hoàn
thiện hơn.
Kính chúc quý thầy cô và các bạn sức khỏe, thành công và hạnh phúc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2011
Sinh viên thực hiện

NguyễnThị Hà

Nguyễn Thị Hà

iii

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích của đề tài .................................................................................. 1
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 2

4. Điểm mới của đề tài ................................................................................. 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................... 3
1.1. Sơ lược về lịch sử phát triển, vai trò của các làng cổ ở Việt
Nam ............................................................................................................. 3
1.2. Những nét đặc trưng của các di tích lịch sử, truyền thống văn
hóa ở làng cổ Đường Lâm ......................................................................... 4
1.2.1. Một số nét khái quát về làng cổ Đường Lâm ..................................... 4
1.2.2. Những nét đặc trưng của làng cổ Đường Lâm .................................... 5
1.2.2.1. Những nét đặc trưng trong hệ thống kiến trúc đình, chùa................. 5
1.2.2.2. Những nét đặc trưng trong kiến trúc nhà cổ Đường Lâm ................. 9
1.2.2.3. Giá trị kiến trúc, văn hóa, nghệ thuật của nhà cổ.............................. 15
1.3. Những nét đặc trưng về văn hóa, xã hội, phong tục tập quán
của làng cổ ................................................................................................. 15
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI
TƯỢNG NGHIÊN CỨU ............................................................................ 17
2.1. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 17
2.2. Thời gian nghiên cứu............................................................................. 17
2.3. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................. 17
2.4. Đối tượng nghiên cứu............................................................................ 17
CHƯƠNG 3. SƠ LƯỢC VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – VĂN
HÓA – XÃ HỘI CỦA LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM.................................... 18

Nguyễn Thị Hà

iv

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

3.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 18
3.2. Lịch sử hình thành xã Đường Lâm ....................................................... 18
3.3. Vài nét về đặc điểm tự nhiên ................................................................. 21
3.4. Đặc điểm dân cư, kinh tế, văn hóa xã hội ............................................. 21
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................... 23
4.1. Thực trạng số lượng nhà cổ Đường Lâm bị phá vỡ .......................... 23
4.1.1. Số lượng nhà cổ trong những năm gần đây......................................... 23
4.1.2. Nguyên nhân số lượng nhà cổ suy giảm ............................................. 24
4.1.3. Các xóm của làng cổ giữ lại được nhiều nhà cổ và nguyên nhân ........ 24
4.1.4. Các xóm của làng cổ còn lại ít nhà cổ và nguyên nhân ...................... 25
4.2. Nguy cơ làng cổ Đường Lâm bị “biến mất” trong tương lai
gần............................................................................................................... 25
4.3. Những giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy giá trị làng cổ
Đường Lâm................................................................................................. 27
4.3.1. Giải pháp trước mắt ............................................................................ 27
4.3.2. Giải pháp dài hạn................................................................................ 29
4.3.2.1 Xã hội hoá công tác bảo tồn, tôn tạo di tích ...................................... 29
4.3.2.2. Gắn hoạt động du lịch sinh thái – văn hóa – lịch sử tại làng cổ Đường
Lâm với các địa điểm văn hóa – lịch sử ở Sơn Tây và các vùng phụ cận...... 32
4.3.2.3. Kết hợp giới thiệu với du khách thập phương về những nét đặc trưng
của nhà cổ Đường Lâm thông qua các lễ hội lớn của thị xã Sơn Tây............ 34
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................... 36
1. Kết luận.................................................................................................... 36
2. Kiến nghị ................................................................................................. 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 38
PHỤ LỤC


Nguyễn Thị Hà

v

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một mảnh đất rất nổi tiếng: “Một ấp hai vua” – Đường Lâm mang
trong mình nhiều nét đặc sắc với những ngôi nhà cổ xây bằng đá ong có niên
đại hàng trăm năm tuổi cùng hàng chục di tích lịch sử văn hóa có giá trị. Ở
mảnh đất quần cư đã lâu đời, con người nơi đây đã gắn kết với nhau thành
một thể thống nhất với phong tục, tập quán và tín ngưỡng hàng ngàn năm nay
không hề thay đổi đã tạo nên những bản sắc riêng của miền quê này.
Trải qua nhiều biến động của lịch sử, xã hội, sự gia tăng dân số, quá
trình phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường và vấn đề đô thị hoá đã
và đang làm cho kiến trúc nhà ở Đường Lâm thay đổi cả về hình thức kiến
trúc và công năng sử dụng. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự phát triển
nhu cầu xã hội, quá trình tác động của đô thị hoá, sự buông lỏng quản lý trong
vấn đề quy hoạch phát triển kiến trúc nhà ở một cách tuỳ tiện đang làm mất đi
hình ảnh văn hoá kiến trúc nhà ở truyền thống dân gian đầy bản sắc của vùng
đồng bằng Bắc Bộ nói chung và kiến trúc nhà ở Đường Lâm nói riêng. Vì
vậy, việc bảo tồn và phát huy bền vững giá trị về văn hóa, lịch sử trong cấu

trúc nhà ở truyền thống của làng cổ Đường Lâm không chỉ là gìn giữ một di
sản văn hóa quý báu của dân tộc trong thời kỳ hội nhập thế giới mà còn là gìn
giữ một di sản vật thể, phi vật thể của địa phương này.
2. Mục đích của đề tài
Hiện nay, ngôi làng Việt Cổ nổi tiếng đang bị mai một từng ngày bởi
sức phá của thời gian, con người, thiên nhiên. Đứng trước một di sản quốc gia
có giá trị to lớn như vậy nếu không có những phương án bảo tồn kịp thời,
đúng đắn thì có thể trong tương lai làng cổ Đường Lâm chỉ còn được mọi
người biết đến qua sách, vở, và những thước phim tư liệu... Để gìn giữ văn
hóa của ngôi làng Bắc Bộ điển hình này, tôi đã lựa chọn đề tài này nhằm:
- Đánh giá lại về giá trị văn hóa – lịch sử của làng cổ Đường Lâm.

Nguyễn Thị Hà

1

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

- Tìm hiểu về những nguyên nhân tác động đến làng cổ, đồng thời đề
xuất các giải pháp tu sửa, phục chế, bảo tồn nguyên vẹn từng cụm nhà cổ và
hướng tới bảo tồn, phục hồi toàn bộ những ngôi nhà cổ trong tương lai. Từ đó
xây dựng Đường Lâm thành một điểm nhấn trong bức tranh du lịch xứ Đoài.
Vì vậy, tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Bảo tồn làng cổ Đường Lâm
– Sơn Tây – Hà Nội gắn với phát triển du lịch sinh thái”.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Tìm hiểu các nguyên nhân tác động đến làng cổ Đường Lâm. Từ đó
đề ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa – lịch sử của
làng cổ.
- Các giải pháp mà đề tài đưa ra có thể áp dụng để bảo tồn và phát huy
bền vững các làng cổ nổi tiếng khác ở Việt Nam.
4. Điểm mới của đề tài.
- Đánh giá tổng quát được giá trị văn hóa – lịch sử trong kiến trúc nhà
truyền thống của làng cổ Đường Lâm – Sơn Tây – Hà Nội.
- Tìm hiểu các nguy cơ khiến làng cổ Đường Lâm bị mai một trong
tương lai gần.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phục chế và bảo tồn nguyên vẹn từng
cụm nhà cổ và hướng tới bảo tồn, phục hồi toàn bộ những ngôi nhà cổ trong
tương lai.
- Các giải pháp mà đề tài đưa ra dễ dàng được người dân địa phương
chấp nhận, có thể áp dụng các giải pháp này để bảo tồn và phát huy bền vững
giá trị văn hóa – lịch sử của các làng cổ nổi tiếng khác ở Việt Nam.

Nguyễn Thị Hà

2

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Sơ lược về lịch sử phát triển, vai trò của các làng cổ ở Việt Nam
Làng xã là nơi cư trú, là một hình thức tổ chức quan trọng của nông
thôn các quốc gia ở châu Á. Suốt nhiều thế kỷ, làng xã là đơn vị tụ cư cổ
truyền lâu đời ở nông thôn. Từ thời Hùng Vương làng được gọi là Chạ. Đơn
vị này được coi tương ứng với Sóc của người khơme, Bản Mường (của các
dân tộc thiểu số phía Bắc), Buôn (của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên –
Trường Sơn). Làng của những người làm nghề chài lưới được gọi là Vạn hay
Vạn chài.
Làng Việt Nam là một phức hợp của các tổ chức xã hội mà trước hết là
dòng họ. Các mối liên kết trong họ hàng có cả tín ngưỡng, tôn giáo, địa vực
láng giềng, xóm giáp, địa vị hành chính làng xã và họ hàng huyết thống
nhưng mối liên kết họ hàng vẫn là bền vững nhất. Quá trình hình thành và
phát triển của một làng ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng
từ khởi đầu cho đến ngày nay là sự chuyển đổi và phát triển từ liên kết hộ gia
đình tiến lên là liên kết họ hàng và các họ hàng với nhau. Đó cũng là mối liên
kết tự nhiên theo hôn nhân và theo sản xuất. Cùng với sự xuất hiện làng xã
trong lịch sử, văn hóa làng xã cũng ra đời trở thành nét đặc trưng của văn hóa
dân tộc. Văn hóa làng xã là một thành tố trong văn hóa truyền thống bên cạnh
những thành tố khác như văn hóa biển, văn hóa cung đình…Văn hóa làng xã
là kết quả của một chế độ riêng ở Việt Nam, một chế độ thống nhất trên cả
nước, nảy sinh trên nền tảng sinh hoạt của con người trong khung cảnh làng
xã ở nông thôn. Văn hóa làng xã mang bản sắc của một lối sống cộng đồng, là
nơi mà quyền lợi của người này gắn với quyền lợi của người khác và với
quyền lợi của cộng đồng. Văn hóa làng xã được thể hiện ở mỗi gia đình với
gia phong đã được chuẩn mực hóa từ lâu, được thể hiện bởi nền văn học dân
gian phong phú, cuộc sống lễ hội sống động. Mỗi làng đều có những ngày

Nguyễn Thị Hà


3

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

đáng nhớ, có những tục lệ riêng, khi làng có việc thì cộng đồng xúm vào lo
toan, hình thành nên thói quen chung, tập quán chung, khiến ai cũng thuộc
lòng lề thói, quy tắc của làng, không ai muốn vi phạm vì sợ mang tiếng xấu...
Những hình ảnh quen thuộc khi nói đến làng là cây đa, bến nước, lũy
tre, đồng ruộng và mối quan hệ giữa họ hàng, bạn bè… là những yếu tố gắn
chặt với người dân trên mọi phương diện như nghề nghiệp, tín ngưỡng đặc
biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là đặc trưng tín ngưỡng của người Việt đã
góp phần không nhỏ vào việc thắt chặt các quan hệ họ hàng, ma chay, cưới
hỏi trong suốt cuộc đời, từ thế hệ này sang thế hệ khác và ngày càng có sắc
thái riêng. Ý thức làng như trên được hình thành trên cơ sở cộng đồng làng đã
ổn định lâu dài, đã tác động sâu sắc vào cuộc sống vật chất và tinh thần của
người dân [8].
1.2. Những nét đặc trưng của các di tích lịch sử, truyền thống văn hóa ở
làng cổ Đường Lâm
1.2.1. Một số nét khái quát về làng cổ Đường Lâm
Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng quê. Hình ảnh làng quê
Việt Nam với luỹ tre xanh, cây đa, giếng nước, sân đình… đã trở nên rất đỗi
thân thuộc trong tâm hồn người Việt. Và đằng sau sự yên bình, êm ấm, của
làng là một bề dày truyền thống, bề dày lịch sử văn hoá đáng trân trọng và
đáng tự hào.

Ngày nay, đất nước đang trên đà phát triển, công cuộc công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ đã làm ảnh hưởng không ít đến cuộc
sống của các làng cổ ở Việt Nam. Một số làng cổ đã có sự thay đổi nhất định,
nhưng cũng có nhiều làng vẫn còn giữ được những đặc điểm cấu trúc và nét
văn hoá xưa. Cũng giống như các xã thôn Việt Nam cổ truyền, các thôn tại xã
Đường Lâm với hơn một nghìn năm lịch sử xây dựng và phát triển còn lưu
giữ được một kho tàng di sản văn hoá rất phong phú, điển hình cả về di sản
văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể. Trên địa bàn xã Đường Lâm

Nguyễn Thị Hà

4

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

hiện nay, tuy đã bắt đầu bị trào lưu đô thị hoá, thương mại hoá tác động
nhưng không gian, cảnh quan môi trường của một làng cổ vẫn còn được gìn
giữ khá nguyên vẹn từ dáng vẻ, cảnh quan của vùng đất thổ canh, thổ cư đến
quy hoạch đường làng, ngõ xóm truyền thống. Có thể khẳng định rằng: Chúng
ta biết đến làng cổ Đường Lâm – Sơn Tây không chỉ nổi tiếng là vùng đất địa
linh nhân kiệt “Một ấp hai vua” lưu danh sử sách mà còn biết đến một Đường
Lâm bảo tồn và phát huy được những vốn cổ về những nét đặc trưng của làng
cổ Việt Nam.
Theo thống kê của sở Văn hóa – Thông tin Hà Tây (cũ) Đường Lâm có

21 di tích bao gồm đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ họ, phủ thờ, lăng mộ…
trong đó có 8 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia và 1 di tích cấp tỉnh,
thành phố (Phụ lục 1). Làng cổ Đường Lâm nổi tiếng với nhiều di tích, kiến
trúc đẹp như cổng làng Mông Phụ, đình Đông Sàng, chùa Mía, đình Phùng
Hưng, đền và lăng Ngô Quyền… và đặc biệt là những ngôi nhà cổ tiêu biểu
với vòm cổng và tường xây bằng đá ong. Người dân quanh vùng quen gọi là
“Làng Việt cổ đá ong” cũng bởi đặc trưng này. Với những khuôn cổng cổ
kính đã có từ mấy trăm năm, cây đa cổ thụ, bến nước đậm chất Bắc Bộ…
cũng góp phần tạo cho Đường Lâm vẻ rêu phong hiếm có, không giống với
những làng Việt khác.
Hiện nay, trong xu thế mở cửa hội nhập, hẳn mọi làng quê, thôn xóm
cũng đi theo với tốc độ không phải là chậm của cuộc sống công nghiệp hóa –
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhưng Đường Lâm vẫn giữ được giá trị
vô giá vốn có do chính các thế hệ người ở đây sản sinh ra.
1.2.2. Những nét đặc trưng của làng cổ Đường Lâm
1.2.2.1. Những nét đặc trưng trong hệ thống kiến trúc Đình, Chùa.
Làng Đường Lâm nằm trên đất thềm nền của núi Ba Vì, đây là một
một miền đất cổ, một địa đầu của người Việt khởi động trong cuộc trường
chinh tiến xuống vùng đồng bằng châu thổ thấp, khai mở ra nước Việt với

Nguyễn Thị Hà

5

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

ThS. Nguyễn Văn Hiếu

những nền văn minh của thời trung cổ. Vượt qua các di tích khác của Đường
Lâm, với đình Phùng Hưng và Ngô Quyền, thì đình Mông Phụ và Chùa Mía
có thể coi là hai điểm sáng văn hóa rực rỡ của miền quê nông nghiệp này.
Dân gian xưa có câu:
“Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”
Đình làng Mông Phụ là ngôi đình thuộc loại có tiếng ấy! Trải qua bao
năm tháng thời gian, trải qua bao biến động và thăng trầm của lịch sử. Đình
Mông Phụ hiện vẫn là ngôi đình đẹp của xứ Đoài. Đình tọa lạc giữa làng nơi
cao nhất của một trái đồi thấp đông đúc cư dân quần tụ. Trước cửa đình xưa là
một khoảnh sân rộng lớn bằng phẳng là nơi quy tập của mọi con đường trong
làng đến đình. Ngược lại, sân đình là một ngã sáu xòe ra như một bông hoa
tỏa đến mọi ngõ ngách trong làng. Có một điều đặc biệt là dù đi hay đến và
bắt đầu từ xóm nào không ai phải quay lưng lại với hướng chính của đình.
Đây quả là sự tinh tế trong quy hoạch xây dựng cổ, lối kiến trúc ấy biểu hiện
sự thành kính về mặt tâm linh của dân làng.
Người Đường Lâm thờ thần Tản Viên ở đình bởi ngài đại diện của chân
lý, của đạo đức, một chỗ dựa tinh thần, một trung tâm đoàn kết cộng đồng để
bảo vệ và xây dựng xóm làng. Đình quay hướng Tây Nam, với hướng Nam
mang đúng tư cách “Thánh nhân nam diện” nhằm đề cao thần như một ông
vua của làng, xã, hướng Nam là hướng chứa đầy sinh lực, mát mẻ và cũng là
hướng của thiện tâm trên nền tảng trí tuệ. Hướng Tây mang yếu tố âm, mặt
thần (mặt đình) mang yếu tố dương, nên giữa kiến trúc thần và không gian đã
tạo thành một thể âm dương đối đãi khiến thần luôn yên vị. Đó là ước vọng
thường trực trong nhận thức của người Việt trước đây. Như vậy nhìn về
hướng Tây Nam đã mang tính tổng hòa của mọi ý nghĩa nêu trên, khiến đình
Mông Phụ được coi như nằm ở miền đất thánh thiện.
Đình Mông Phụ là một đình lớn trong hệ thống “đình Đoài”. Đình
không có niên đại cổ kính như đình Thụy Phiêu (Thụy An – Ba Vì – Hà Nội),


Nguyễn Thị Hà

6

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

nhiều giá trị nghệ thuật như đình Đông Viên (Đông Quang – Ba Vì), đình Tây
Đằng (Tây Đằng – Ba Vì), song đình Mông Phụ có nét độc đáo trong kiến
trúc đó là ngôi đình mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt – Mường có sàn
gỗ cách mặt đất (mô phỏng nhà sàn). Có thể nói đây là một bông hoa về nghệ
thuật kiến trúc của người xưa. Đáng quan tâm nhất là kiến trúc toà đại đình.
Hiện nay, kiến trúc này được dựng theo kiểu chữ Công. Bằng khảo sát thực
địa và qua nghệ thuật chúng ta có thể thấy rằng: Trước đây đình được dựng
theo kiểu chữ Nhị mà toà trong có phần sớm hơn toà ngoài. Theo các cụ già
trong làng thì phần hậu cung được xây dựng từ thế kỷ XII đến nay đã hỏng
sửa lại không còn dấu ấn của thời đó phía ngoài thượng điện được làm từ thời
Lê Trung Hưng, đình được tôn tạo nhiều lần ở thế kỷ XIX. Đình ngoài (đình
chính) gồm 5 gian 2 chái phía sau là hậu cung gồm 3 gian nhà nối 3 gian giữa
của đình ngoài như hình chuôi vồ, mái đình hơi cong có chạm khắc rồng, hổ,
cá, hoa, lá, mây bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, Tùng, Cúc, Trúc, Mai, bức
chạm khắc Lão Long Huấn Tử (Rồng già dạy con) người xưa có ý nhắc nhở
mọi người luôn chăm lo đến sự học hành của con cháu. Hai bên tả hữu mạc
còn nguyên vẹn. Phía ngoài cổng là nhà xích hậu, lòng nhà ba gian hai chái bẻ

góc cong bốn mái rất duyên dáng đặt bên tả tòa đại đình. Trước kia, ngôi nhà
là nơi đón tiếp khách về dự lễ [7].
Giai thoại xưa kể rằng: Đình Mông Phụ đặt trên đầu một con rồng mà
giếng làng là hai mắt rồng, sân đình đào thấp hơn mặt bằng xung quanh có vẻ
như là một nghịch lý so với kiến trúc hiện đại, song thực ra đó là một dụng ý
của người xưa. Khi trời mưa xuống, nước từ 3 phía ồ ạt đổ vào phải chăng đó
là một khát vọng về một cuộc sống ấm no của người xưa (Tụ thuỷ sinh tài).
Sau đó nước từ từ thoát ra theo 2 cống nhỏ chạy dọc theo nách đình, từ xa
nhìn lại trong mưa 2 rãnh nước vẽ nên 2 râu rồng vừa thật lại vừa ảo đây nhìn
lại quả thật là một ý tưởng kiến trúc hết sức tài hoa của những nghệ nhân cổ.

Nguyễn Thị Hà

7

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

Chùa Mía (tức Sùng Nghiêm Tự) là di tích được Bộ văn hóa thông tin
xếp vào loại đặc biệt. Hiện nay, Chùa có 287 pho tượng gồm 6 tượng đồng,
107 tượng mộc và 174 tượng đất nung (làm bằng đất sét, thân và rễ cây si)
được sơn son thiếp vàng. Ngoài giá trị về tâm linh, tượng phật Chùa Mía đã
khắc họa lại nét văn hóa của thời xa xưa, góc cạnh cuộc sống đời thường được
bàn tay nghệ nhân mô phỏng sống động từ đường gân sắc mặt đến xiêm áo,
cân đai...đều được thể hiện rõ nội tâm con người trong mọi đẳng cấp xã hội.

Các pho tượng Chùa Mía đều lấy đề tài trong sự tích nhà Phật nhưng vẫn thể
hiện con người Việt Nam rất hiện thực tạo cho du khách có cảm giác vui buồn
vượt ra ngoài giá trị vật thể tạo nên hình tượng. Vì vậy mà Chùa Mía từng
được mệnh danh là: “Bông hoa nghệ thuật kiến trúc tạo hình Việt Nam thế kỷ
XVII”.
Chùa có niên đại vào cuối những năm 20 và đầu những năm 30 của thế
kỷ XVII (khoảng niên đại và nghệ thuật với đình Tường Phiêu – Tích Giang –
Phúc Thọ – Hà Tây (cũ) – một ngôi đình gần như duy nhất của những năm
đầu thế kỷ này). Chùa được tạo dựng lại vào năm 1642 qua sự hưng công của
bà Nguyễn Thị Ngọc Dao (nguyên phi của chúa Thanh Đô Vương Trịnh
Tráng). Cổng chùa nhìn ra một sân rộng. Sân chùa có tháp đá ở phía trước,
phía sau là khu thờ. Khu thờ gồm Tiền đường ở phía trước Thượng điện ở
phía sau. Tiền đường là một ngôi nhà lớn được xây dựng năm Tự Đức thứ 6
(1853). Thượng điện có cấu trúc cột lớn, mái hiên nặng và thấp, được suy
đoán là xây dựng vào thời điểm lập chùa nửa sau thế kỷ XVII. Việc sử dụng
mái hiên thấp với hệ thống cột rất lớn và bàn thờ bố trí kiểu hang động tạo
nên một không gian sâu và trang nghiêm. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía
trong hình chữ Công, còn phía ngoài có khung bao quanh như chữ Khâu hay
chữ Quốc:

Nguyễn Thị Hà

8

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

ThS. Nguyễn Văn Hiếu
“Kết cấu ngoại quốc, nội công

Hành lang thăm thẳm nối thông hậu đường
Tòa ngang nối dọc vấn vương
Tạo thành chữ “Mục” tinh tường thiện tâm”.
Ở lĩnh vực phong thủy, chùa Mía được nằm trên một mảnh đất cao, xa
xa có sông Tích chảy từ bên hữu sang bên tả mang nghĩa đem dòng sinh lực
từ dương về âm để muôn loài muôn vật trong không gian này phát sinh, phát
triển. Chùa được quay hướng Tây Nam vừa hướng đến trí tuệ để hành thiện
(Nam) vừa có ý thức cầu mong thần linh yên vị (Tây).
Về với Chùa Mía dâng hương lễ phật, cầu tài, cầu lộc, thưởng ngoạn
cảnh chùa và một số di tích lịch sử khác của làng cổ Đường Lâm đã để lại
trong lòng du khách thập phương một ấn tượng sâu sắc về giá trị lịch sử,
nghệ thuật kiến trúc cũng như không gian tĩnh lặng thiêng liêng đặc trưng của
vùng quê xứ Đoài này [2][3].
1.2.2.2. Những nét đặc trưng trong kiến trúc nhà cổ Đường Lâm
Trong tâm thức của mỗi người dân, nhà cổ là một loại hình di tích đặc
biệt, là một trong những yếu tố cấu thành tạo nên nét đặc sắc tiêu biểu cho
quần thể di tích ở làng cổ Đường Lâm. Nói đến nhà cổ là nói tới kết cấu kiến
trúc, các hạng mục công trình, quá trình hình thành, kiểu thức, sắc thái của
nhà cổ trong tổng thể làng cổ ở Đường Lâm. Trải qua thời gian và diễn trình
lịch sử, mỗi một ngôi nhà cổ hiện tồn ở Đường Lâm hiện nay đều có nét riêng
biệt, đặc trưng riêng.
Có một điểm dễ nhận thấy ở Đường Lâm là ngoài việc nhà ở được xây
rất sát nhau do phải thích nghi với điều kiện hạn chế về đất đai thì tường nhà
và tường rào quanh vườn được xây khá cao, bó kín lấy không gian ngôi nhà,
cửa và cánh cổng cũng thường làm khá chắc và chỉ có thể mở được từ bên
trong. Điều này được giải thích bằng nguyên nhân do Đường Lâm vốn ở vị trí
nhiều rừng, nhiều trộm cướp, việc ngôi nhà kiên cố và kín đáo cũng là một


Nguyễn Thị Hà

9

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

yếu tố đảm bảo hơn cho cuộc sống những người chủ của ngôi nhà. Đây cũng
là nguyên nhân lý giải cho việc tại sao trong tục lệ của người Mông Phụ có rất
nhiều điều quy định cụ thể về việc phòng và chống trộm cướp, quy định trách
nhiệm, hình thức xử phạt đối với những người được giao nhiệm vụ tuần
phòng mà để xảy ra mất trộm.
Nhà cổ ở Đường Lâm được xây dựng với những đường nét kiến trúc từ
thế kỷ XVII – XVIII thường có bốn dạng bình đồ kiến trúc: dạng chữ Đinh,
chữ Nhất, chữ Nhị và chữ Môn – tùy vào điều kiện kinh tế của gia đình và
diện tích đất sở hữu. Việc xây dựng nhà ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ được
đặc biệt chú ý đến điều kiện giải quyết vi khí hậu cho ngôi nhà, đón hướng
gió mát cho ngôi nhà và che hướng gió lạnh, hướng có nhiều bức xạ mặt trời.
Theo quan niệm phương Đông, hướng Nam là hướng sinh khí, hướng hưng
thịnh, hướng cho gió nồm – mát về mùa hè (Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng
Nam); hướng Đông là hướng của thần linh, nơi có ánh bình minh chiếu vào
mỗi buổi sáng làm cho không khí ngôi nhà quang sạch; hướng Bắc là hướng
có gió lạnh về mùa Đông, hướng Tây nóng do bức xạ nên hai hướng này
thường không được chọn làm hướng xây dựng cửa. Theo quan niệm đó, nhà

cổ ở Đường Lâm phần lớn làm theo hướng Nam và hướng Đông Nam, một số
ít nhà tọa lạc theo hướng Tây Bắc, Đông Bắc. Trong các ngôi nhà cổ, có hình
thức tổ chức không gian, các hạng mục công trình phụ: sân bếp, khu chăn
nuôi, vườn tược... được bố trí hài hòa trong tổng thể diện tích đất sở hữu. Bố
trí khuôn viên thường là nhà chính nhìn ra vườn cây xanh, hai bên là giếng
nước và khu nhà phụ. Nhà chính và nhà phụ vuông góc với nhau theo kiểu
“Thước thợ” hoặc kiểu nhà chính và nhà phụ song song với nhau “Tiền
khách, hậu tự” thường là gia đình giàu có, nhà trưởng họ. Ngoài ra, còn có
kiểu nhà chính, nhà phụ, bếp nằm xung quanh ba phía của sân. Những chi tiết
làm lên “linh hồn” của nhà cổ gồm: Tường đá ong, cổng đá ong, lối đi lát
gạch nghiêng, bậu cửa cao và gian thờ tổ tiên. Bởi vậy mỗi ngôi nhà là một đồ

Nguyễn Thị Hà

10

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

gia bảo, là lịch sử, văn hóa và cũng là nơi thờ tự thiêng liêng của mỗi dòng
họ.
Nét cổ kính, thuần Việt của những ngôi nhà cổ Đường Lâm được thể
hiện ngay từ hạng mục cổng. Theo quan niệm của tiền nhân khi thiết kế hạng
mục cổng thì tuyệt đối không để hướng và mặt của cổng nhìn thẳng vào gian
giữa của ngôi nhà chính nếu không của cải, phúc đức... sẽ theo đó đi ra. Theo

nguyên tắc ấy, cổng nhà được thiết kế chếch bên phải (hoặc trái) nhà chính
tùy theo thửa đất. Kiểu thức kết cấu cổng của các ngôi nhà cổ trong làng
thường là: “Thượng gia hạ môn” (Phụ lục Hình 8). Nghĩa là phần thượng là
mái cổng được cấu thành từ xà thế hoành, hoành, rui, mè... tạo thành hai mái
chảy và lợp ngói, phần hạ là lối đi, cánh cửa cổng bên trong ngoài then cài
chắc chắn còn có then xoay (gọi là kiểu xoay con chấy) để chủ nhà, khách đến
có thể đóng mở dễ dàng. Đây là một thực thể quan trọng tạo nên nét đặc trưng
riêng của nhà cổ ở Đường Lâm, khác biệt với nhà cổ từ miền Trung trở vào
(không có cổng kiểu “thượng gia hạ môn”, chủ yếu là một hàng rào cây xanh
thấp hoặc một chà gai vững chắc để kéo ngang đủ chắn gió). Hơn nữa, một số
cổng nhà quan thì có sự khác biệt và tinh tế hơn các ngôi nhà khác ở chỗ
muốn đi vào nhà chính phải đi qua hai lớp cổng. Hai lớp cổng này được thiết
kế theo môtip tương tự nhau, kiểu truyền thống. Nghĩa là phần thượng là mái
cổng được cấu thành từ xà thế hoành, hoành, rui, mè... tạo thành hai mái chảy
và lợp ngói, phần hạ là lối đi (lớp cổng thứ nhất là không gian dành để đi, lớp
cổng thứ hai được bưng bởi cánh cửa kiểu xoay con chấy). Có trường hợp
cổng nhà được xây bằng đá ong có mặt hồ phù (Phụ lục Hình 11), hoặc được
quét vôi, cánh cổng bằng gỗ hẹp, khi đóng lại tạo nên tính độc lập cho ngôi
nhà so với thế giới bên ngoài. Chính những bức tường đá ong của ngôi nhà,
tường bao và cổng chạy dọc hai bên đường làng đã tạo nên vẻ hấp dẫn riêng
của làng cổ Đường Lâm.

Nguyễn Thị Hà

11

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

Qua lớp cổng là tới sân, là một khoảng không gian tương đối rộng được
sử dụng làm nơi phơi thóc lúa, rơm rạ... là không gian chuyển tiếp từ ngoài
nhà vào trong nhà.
Ngôi nhà chính được làm bằng gỗ, đá ong, lợp ngói mũi (ngói ri), mặt
bằng ngôi nhà phần lớn có kết cấu năm gian (ba gian giữa, hai gian buồng),
hai dĩ, một tầng hai mái chảy lợp ngói ri, bờ nóc để trơn, một số nhà hai đầu
bờ nóc có đắp hai đấu nắm nhô cao. Phần mái với ngói ri ở trên, tiếp đó là
ngói lót, hoành, rui, tạo không gian trong lành, êm ả cho ngôi nhà truyền
thống. Do dạng một tầng hai mái lợp bằng ngói dày chồng lên nhau, xen giữa
là lớp không khí có tác dụng hạn chế ảnh hưởng của tia bức xạ nhiệt. Ở bộ
phận che chắn của ngôi nhà này, cho thấy sự khác biệt của nhà cổ ở Đường
Lâm với các ngôi nhà ở miền Nam (chủ yếu lợp bằng rơm, lá hay cành dừa),
qua đó thể hiện sự “ăn chắc, mặc bền” theo quan niệm của người Đường
Lâm: có “an cư” mới “lập nghiệp”. Tường nhà được xây bằng chất liệu đá
ong, một chất liệu truyền thống của làng Việt Cổ theo kiểu tường hồi bít đốc.
Theo các cụ già kể lại các gia đình làm được ngôi nhà phải chuẩn bị công phu
trong thời gian rất dài. Đá ong là vật liệu sẵn có ở trong lòng đất của địa
phương do quá trình laterit hóa tạo nên, người thợ đánh đá phải đào lớp đất
màu khoảng một mét thì đến lớp đá ong. Họ phải thăm dò chỗ nào đá già thì
mới khai thác, dụng cụ khai thác chỉ là một cái thuốc, thợ thuốn đá ong phải
có sức khỏe, mỗi ngày một người thợ chỉ đào được khoảng 40 – 50 viên đá.
Đá được đào thành viên đem phơi nắng một thời gian gặp không khí và ánh
nắng đá càng cứng, có độ bền rất cao khi xây tường do thành phần chủ yếu
của đá ong là Fe khi gặp không khí sẽ xảy ra phản ứng chuyển Fe2+  Fe3+,
còn vữa xây tường là hỗn hợp đất trộn với trấu loại đất cát ở địa phương. Một
số nhà nghèo họ lấy đất bùn ao nhào nặn đóng thành viên gạch phơi khô gọi

là gạch mộc đem xây nhà, có những ngôi nhà hay bức tường được xây bằng
loại gạch này đến nay ở làng Đường Lâm vẫn còn tồn tại hàng trăm năm. Ở

Nguyễn Thị Hà

12

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

Đường Lâm còn loại nhà tường trình, đó là hỗn hợp đất bùn, tro và rơm đắp
lên bức đan bằng tre, nứa. Nền nhà lát gạch Bát Tràng, cũng nhiều nhà làm
nền đất nện. Phần gỗ có thể là gỗ xoan, gỗ rừng hoặc gỗ tứ thiết tùy theo kinh
tế của từng gia đình, gỗ tươi phải được ngâm bùn 6 tháng đến 1 năm, vớt lên
làm phải để phơi trong dâm mát, thoáng cho khô mới làm nhà. Có gia đình
làm nhà phải nuôi thợ làm công nhật 2 đến 3 năm mới xong .
Vào bên trong ứng với bộ khung nhà là các bộ vì trên kết cấu 5 hàng
chân cột, tiền kẻ hậu bảy (một số nhà có 6 hoặc 7 hàng chân cột, một số ngôi
nhà kiến trúc dạng chữ Môn thì nhà chính thường có kiểu “nội tự ngoại
khách”, bộ vì kết cấu trên bốn hàng chân cột). Sở dĩ là 5 hàng chân – chốn
hàng cột quân hậu để dành không gian cho nơi bài trí bàn thờ ở gian giữa. Các
hàng chân là thành phần quan trọng, thành phần chịu lực, trọng lượng của
mái, thành phần cấu tạo các bộ vì. Tuy nhiên, các hàng chân có thể được liên
kết với nhau nhờ chức năng của hệ giằng đó là quá giang, xà dọc... bằng cách
thức ăn mộng hoặc chồng đè của các cấu kiện.

Thông thường, các công trình kiến trúc cổ phục vụ tôn giáo và tín
ngưỡng, phần hạ của bộ vì (tức là vì hiên) chủ yếu dưới dạng bảy hiên ngắn
nên không gian tính từ cửa ra tàu mái thường hẹp, bởi lẽ loại hình kiến trúc
này đề cao không gian thờ phụng hơn cả, còn đối với loại hình kiến trúc nhà
cổ phục vụ dân sinh như phần lớn nhà cổ ở Đường Lâm thì phần không gian
hiên được cấu thành từ kẻ và bẩy nhằm tạo không gian rộng để phục vụ sinh
hoạt. Hơn nữa, ở các kẻ và bảy hiên còn được các nghệ nhân xưa chạm các
hoa văn vân xoắn, các đao mác tia lửa... tương đối tinh xảo có giá trị thẩm mỹ
cao tạo cho tổng thể ngôi nhà không còn sự cứng nhắc.
Do kết cấu kiến trúc, lề thói sinh hoạt nên nhà được chia thành ba
không gian. Ba gian giữa: gian chính giữa là nơi bài trí bàn thờ, ngai thờ và
các đồ tế tự với chức năng thờ cúng, hai gian bên bài trí dành làm nơi tiếp
khách, sinh hoạt chung của gia đình, dạy dỗ con cái, sập gỗ để làm chỗ nghỉ

Nguyễn Thị Hà

13

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

ngơi của đàn ông trong nhà, khách nam giới... với tính chất đa năng trong đó
việc thờ cúng là quan trọng nhất. Hai gian bên (hai gian chái) có dạng không
gian kín là nơi sinh hoạt của phụ nữ trong gia đình (hoặc nơi ở vợ chồng con
trai mới ở riêng), nơi dự trữ lương thực giống má, cất giữ đồ dùng... hai gian

này có cửa đi nhỏ mở ra hiên và qua vách bức thùng.
Các không gian được phân chia rõ ràng như vậy là nhờ vào hệ thống
bức thùng. Đây là thành phần quan trọng nhất, khác biệt nhất phân biệt loại
hình nhà cổ có chức năng phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình với các loại hình
di tích thờ phụng khác ở Đường Lâm. Đồng thời trên bức thùng cũng là nơi
hội tụ nhiều nhất các mảng trang trí hoa văn, nơi thể hiện khả năng sáng tạo
thẩm mỹ và kỹ thuật, của người nghệ sĩ dân gian xưa với các đề tài minh họa
trên đấu kê giữa các con rường thường được chạm thành hình bông sen rất
tinh tế, một nửa chiều dài con rường đều được chạm hoa dây rất sống động.
Vì hầu hết các bộ phận liên kết, vách ngăn của ngôi nhà được làm bằng gỗ,
kết hợp với mảng hoa văn trên đó tạo cho chúng ta cảm giác ấm áp ngay từ
khi bước vào nhà. Từ nhà chính mở hai cửa nhỏ qua vách thùng vào buồng.
Sở dĩ người xưa thiết kế như vậy là có nhiều nguyên nhân. Một trong những
nguyên nhân đó xuất phát từ việc hệ thống cửa bức bàn được đóng từ phía
trong bằng then gỗ (dạng chốt cài) ở phía trên và phía dưới cửa. Vì thế, khi
chủ nhân ngôi nhà đi vắng muốn đóng kín toàn bộ cửa thì phải đóng hệ thống
cửa bức bàn nhà chính từ phía trong trước, sau đó đi sang hai gian buồng qua
hai cửa nhỏ, tiếp tục cài then hai cửa này, cuối cùng ra khỏi buồng đóng nốt
cửa buồng mở ra hiên [1][5].
Với hàng trăm ngôi nhà cổ có niên đại từ 100 – 200 năm nhà cổ truyền
thống ở Đường Lâm có giá trị đặc biệt tương đối cao về kết cấu kiến trúc, bộ
khung, bộ cửa, vật liệu xây dựng, chạm khắc hoa văn... đã tạo nên bản sắc văn
hóa phong phú, đặc trưng riêng của làng cổ Đường Lâm.

Nguyễn Thị Hà

14

K33B- SP Sinh



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

1.2.2.3. Giá trị kiến trúc, văn hoá, nghệ thuật của nhà cổ
Trong tâm thức của người Việt truyền thống, trong một đời người có ba
việc lớn: “Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà”. Vì thế, ngôi nhà được chủ nhân tập
trung hết tâm huyết, sức lực, của cải để làm. Một mặt trên mình ngôi nhà đã
mang những giá trị văn hoá đặc trưng của vùng miền, là nơi thể hiện sự tài
hoa của nền mỹ thuật, kiến trúc, truyền thống. Mặt khác, cũng thể hiện rõ nét
trình độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá của gia đình trong từng giai đoạn
lịch sử.
Mặt bằng tổ chức không gian của những ngôi nhà cổ này được bố trí
hết sức hợp lý và chịu sự cố kết của kiến trúc gỗ như tính độc lập, khép kín
của những không gian cần thiết, tổ chức không gian mở có tính đa năng, trang
trí bên ngoài và bên trong nhà. Giá trị nghệ thuật kiến trúc còn được thể hiện
rõ nét qua nội thất công trình, đó là vẻ đẹp tự nhiên của hệ kết cấu bộ khung
ngôi nhà, ở tính thống nhất giữa bên trong và bên ngoài nhà, chúng liên hệ
chặt chẽ với nhau qua từng chi tiết thể hiện rất đậm nét về sinh hoạt thường
nhật, ngày lễ, ngày hội của gia đình từ đó cho chúng ta thấy rõ nếp sống của
những gia đình nông dân với phương thức “tự cung, tự cấp”, nhất là nét đẹp
trong việc thờ cúng tổ tiên và lòng hiếu khách ở gia đình nhà kiến trúc kiểu
“Nội tự ngoại khách”. Đây là những cơ sở quan trọng bước đầu đặt nền tảng
cho việc giáo dục phẩm chất đạo đức cho các thế hệ trẻ – chủ nhân trong
tương lai của gia đình [5].
1.3. Những nét đặc trưng về văn hóa, xã hội, phong tục tập quán của làng
cổ
Đồng bằng Bắc Bộ là nơi có nền văn hóa lâu đời, cái nôi của nền văn

minh lúa nước của người Việt. Tổ chức xã hội của đồng bằng Bắc Bộ hình
thành trên cơ sở làng, dòng tộc và gia đình, là cộng đồng dân cư làm nông
nghiệp, quần tụ gắn bó trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử. Mối quan
hệ gắn bó giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau, hỗ trợ giúp đỡ nhau

Nguyễn Thị Hà

15

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

trong sản xuất và trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, tình cảm láng giềng
thân thiện “tắt lửa, tối đèn có nhau” được hình thành từ xa xưa đã trở thành
một truyền thống tốt đẹp trong cộng đồng nông thôn ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ nói chung và ở Đường Lâm nói riêng.
Song song với việc giữ gìn các giá trị vật thể, hàng trăm năm nay người
dân Đường Lâm đã sáng tạo, bảo lưu được một khối lượng di sản văn hoá phi
vật thể rất đa dạng, phong phú. Đó là các chứng tích văn tự cổ ghi chép thần
phả của làng, các bản hương ước, lệ làng nhằm thể hiện ý thức tự trị của làng;
gia phả của các dòng họ, gia đình cùng các bia ký, hoành phi câu đối, các
truyền thuyết, ca dao, dân ca hết sức phong phú nói về mảnh đất và con người
Đường Lâm qua các thời kỳ lịch sử vẫn được lưu giữ tại Đường Lâm. Với kết
cấu đa dạng và chặt chẽ trong luật lệ làng, gia phả của các dòng họ đã tạo ra
một định hướng hành vi của cá thể và toàn thể, của gia đình và xã hội đã tạo

ra sự thống nhất tương đối trong nề nếp sinh hoạt và cách ứng xử giữa người
với người thể hiện tinh thần cố kết cộng đồng rất cao ở nhiều mặt của cuộc
sống trong lao động sản xuất cũng như trong các sinh hoạt tinh thần. Từ đó
hình thành nên các đặc điểm riêng của từng làng để tự hào, trân trọng “đất lề,
quê thói”. Nếu đến Đường Lâm đúng dịp lễ hội đầu xuân chúng ta sẽ được
tham dự các lễ hội lớn diễn ra ở đình như: ở đình Phùng Hưng vào ngày 8
tháng giêng âm lịch, ở đình Mông Phụ vào ngày 10 tháng giêng âm lịch... hay
các lễ hội ở đền, chùa và hoà mình vào các hoạt động của mỗi dòng họ, các
sinh hoạt văn hoá nghệ thuật dân gian, các nghi lễ tế gà, rước đền, cờ người…
đậm chất văn hoá đại diện cho làng quê vùng đồng bằng sông Hồng [2].
Ngoài các di tích lịch sử – văn hoá lâu đời có giá trị lịch sử to lớn, ở
Đường Lâm hiện nay còn lưu giữ được nền văn hoá ẩm thực hết sức phong
phú và thu hút du khách đi đến đây thưởng ngoạn thăm thú và nghiên cứu. Đó
là đặc sản gà mía quý hiếm có từ lâu đời ở Đường Lâm. Đường Lâm còn nổi
tiếng với tương Mông Phụ, chè Cam Lâm, kẹo bột Đông Sàng

Nguyễn Thị Hà

16

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM,
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1 Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra thực địa.
+ Đi thực tế tìm hiểu điều kiện tự nhiên, xã hội của xã Đường Lâm –
Sơn Tây – Hà Nội.
+ Đi thực tế tìm hiểu về các di tích lịch sử, nhà cổ ở Đường Lâm – Sơn
Tây – Hà Nội.
- Phát vấn.
Điều tra qua người dân, chính quyền địa phương, ban quản lý di tích về
các di tích lịch sử, nhà cổ ở Đường Lâm – Sơn Tây – Hà Nội.
- Tra cứu trên các nguồn tài liệu : tạp chí, sách vở, internet...
- Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê thông thường.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Thời gian tiến hành công trình từ tháng 8/2009 đến tháng 4/2011.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại làng cổ xã Đường Lâm – Sơn Tây
– Hà Nội.
2.4. Đối tượng nghiên cứu
- Những nét văn hoá đặc trưng trong kiến trúc nhà của Làng cổ
Đường Lâm.
- Các hoạt động du lịch, lễ hội tại làng cổ Đường Lâm và ở thị xã Sơn
Tây.

Nguyễn Thị Hà

17

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

CHƯƠNG 3. SƠ LƯỢC VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN –
VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA XÃ ĐƯỜNG LÂM
3.1. Vị trí địa lý
Thị xã Sơn Tây nằm trong vùng đất cổ xứ Đoài, là trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa – xã hội của khu vực phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội và phía
Bắc tỉnh Hà Tây (cũ). Thế núi hình sông đã tạo cho thị xã như một chiếc cầu
nối giữa Sơn Tây với thủ đô Hà Nội. Nằm trong vùng đất “địa linh nhân kiệt”
thị xã là nơi có đậm đặc các di tích lịch sử – văn hóa, trong đó làng Việt cổ ở
Đường Lâm là một làng cổ điển hình của nước ta còn được bảo tồn khá
nguyên vẹn đến ngày nay. Đường Lâm giáp phường Phú Thịnh – Sơn Tây ở
phía Đông, giáp xã Cam Thượng ở phía Tây, xã Thanh Mỹ và Xuân Sơn ở
phía Nam, phía Bắc tiếp giáp Sông Hồng – bên kia sông là tỉnh Vĩnh Phúc,
nằm cách Hà Nội khoảng hơn 50 km và cách thị xã Sơn Tây – thành phố Hà
Nội chừng 5 km về phía Đông Bắc.Vị trí của xã Đường Lâm thuận lợi về giao
thông đường bộ và đường thủy, có quốc lộ 32 chạy qua và 2 con sông Hồng,
sông Tích. Bởi có vị trí thuận lợi như vậy nên Đường Lâm sớm hình thành
nguồn gốc của người Việt Cổ.
3.2. Lịch sử hình thành xã Đường Lâm
Đường Lâm nguyên là đất các xã Cam Lâm, Đoài Giáp, Đông Sàng,
Mông Phụ, Phụ Khang thuộc tổng Cam Giá Thịnh (thường gọi là Cam Thịnh)
– tục gọi là Kẻ Mía, thuộc huyện Phúc Lộc (sau gọi là Phúc Thọ), tỉnh Sơn
Tây trước năm 1945. Như vậy, Đường Lâm là một xã được sát nhập từ nhiều
xã trước đây. Sau Cách Mạng tháng 8, Tổng Cam Giá Thịnh có tên mới là xã
Phùng Hưng. Đến ngày 21/11/1964, xã Phùng Hưng đổi thành Đường Lâm,
trực thuộc huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây. Năm 1968, tỉnh Sơn Tây sát nhập
với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây. Cùng năm đó chính quyền Trung Ương


Nguyễn Thị Hà

18

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

quyết định sát nhập ba huyện Bất Bạt, Quảng Oai, Tùng Thiện thành huyện
Ba Vì. Năm 1975, sát nhập Hà Tây với Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình.
Ngày 29/12/1978, Quốc hội thông qua đề nghị chuyển huyện Ba Vì về thủ đô
Hà Nội. Năm 1982, Đường Lâm được sát nhập vào thị xã Sơn Tây vẫn thuộc
thành phố Hà Nội. Ngày 01/11/1991, thành phố Sơn Tây lại được chuyển về
tỉnh Hà Tây. Ngày 08/05/2009, Chính phủ ra nghị quyết chuyển thành phố
Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, cái
tên Đường Lâm thì vốn là một địa danh cổ có từ xa xưa trên vùng đất xứ
Đoài.
Theo sách Việt điện u linh, văn bản thời Lý – Trần, thì còn thấy chép
rằng, ông cha Phùng Hưng (767 – 791) đời đời làm tù trưởng ở châu Đường
Lâm, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, thì châu Đường Lâm xưa
kéo dài đến tận địa phận huyện Hoài An (tức vùng chùa Hương hiện nay của
xứ Đoài – Sơn Tây). Còn sách Đại Việt sử ký toàn thư, là chính sử đời Lê thì
có đoạn ghi: “Tân mùi 791, đời Đường, niên hiệu Trinh Nguyên thứ 7, mùa
xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp
nặng. Mùa hạ, tháng tư, người quê Đường Lâm, thuộc Giao Châu, là Phùng

Hưng nổi binh vây phủ. Chính Bình vì lo sợ mà chết”. Một bia đá còn lưu giữ
được ở thôn Cam Lâm có niên hiệu Quang Thái thứ 3 (1390) đời Trần Thuận
Tông, cũng ghi: “Nguyên bản xã, địa cư lâm mãng, cổ hiệu Đường Lâm”.
Nghĩa là: Nguyên xã này, đất đai toàn rừng rậm, xưa gọi là Đường Lâm. Như
vậy, Đường Lâm chắc chắn là một cái tên cổ đã có từ rất lâu đời [7].
Còn trong ca dao tục ngữ, nơi cửa miệng của nhân dân thì cái tên Kẻ
Mía vẫn là cái tên được quen gọi hơn. Nhưng nguyên do của tên gọi này là từ
đâu? Huyền tích dân gian xứ Đoài còn kể rằng: Vào thời Hùng Vương thứ 16,
nhà vua sinh được một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần, gọi tên là Mị Ê.
Nàng không thích sống trong cảnh cung cấm gò bó. Hằng ngày, nàng thường
cùng một số cung nữ đi tới các vùng đất bãi ven sông Cái (sông Hồng), hoặc

Nguyễn Thị Hà

19

K33B- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
ThS. Nguyễn Văn Hiếu

cùng mọi người vun trồng ngô khoai, hoặc hái hoa bắt bướm vui chơi… Vào
một buổi trời hè nắng gắt, Mị Ê chợt bắt gặp một bụi cây trông như những cây
sậy, nàng bẻ một cây ra thì thấy thân cây có nước, lấy tay quyệt nếm thử thì
thấy có vị ngọt và thơm mát. Nàng reo lên thích thú, rồi bảo mọi người trồng
thử trên bãi sông. Chẳng bao lâu, loài cây này mọc thành từng bụi xanh tốt
um tùm. Nhân dân bảo nhau chặt về, ép lấy nước, rồi nấu thành mật để ăn.

Ngày tết dến, nàng Mị Ê sai chặt những cây to ngon cùng một ít nước mật
đem về dâng vua cha. Vua Hùng ăn nếm rất thích thú, bèn lấy ngay tên nàng
công chúa yêu quý là Mị Ê để đặt tên cho giống cây quý này. Từ đó, khắp cả
một vùng bãi ven sông Thao, đặc biệt là từ Ba gò Đông Viên đến làng Phú
Nhi, cây Mị Ê được trồng xanh tốt như rừng. Cái tên cây Mị Ê lâu dần cũng bị
mọi người đọc chệch đi thành ra cây Mi…Ê, rồi cây Mía. Đến mùa thu hái
mía, quang cảnh thật tấp nập, nhân dân vừa nô nức chặt mía vừa dựng những
lò kéo mật – dùng trâu kéo máy ép mía bằng gỗ để nấu mật, ngày đêm khói
tỏa nghi ngút ngay bên bãi sông. Và tất cả các vùng rộng lớn có trồng mía đầu
tiên đó, được gọi chung là Kẻ Mía. Như vậy, cái tên Đường Lâm đã cổ, nhưng
cái tên Kẻ Mía rõ ràng còn cổ hơn nhiều.
Trước đây, bên cội đa cổ thụ, dưới vòm cổng gỗ lim của làng Mía, vẫn
còn bốn chữ đại tự “Đường Lâm cổ ấp” như một minh chứng về ngôi làng cổ
này. Song đáng tiếc, qua những biến thiên lịch sử, ngày nay cả bốn chữ này
cùng với cánh cổng gỗ lim cũng không còn nữa. Ngoài những chứng tích như
vừa nêu, giới sử học/khảo cổ học khi khai quật các gò ở Mông Phụ đã tìm
thấy các di vật cuội đẽo thuộc văn hóa đá cũ Sơn Vi tuổi hai vạn năm. Các di
tích sơ kỳ kim khí cũng được phát hiện dày đặc dọc theo lưu vực sông Đáy và
cả con sông Tích chảy qua Đường Lâm. Thời các vua Hùng dựng nước, núi
Tản cách Đường Lâm không xa nơi mà 50 người con của mẹ Âu Cơ quây
quần dưới chân đồi núi, để rồi từ trong đó chọn ra một người nổi trội nhất để
suy tôn làm bậc quân trưởng là Pò Khun (Vua Hùng) lên đóng đô ở Phong

Nguyễn Thị Hà

20

K33B- SP Sinh



×