TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
HOÀNG THỊ PHƯƠNG
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ
ĐỔI MỚI (1986 - 2011)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Hà Nội - 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
HOÀNG THỊ PHƯƠNG
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(1986 - 2011)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Vũ Quang Vinh
Hà Nội - 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của BGH Trường ĐHSP Hà Nội
2, Học viện Hành chính - chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trường Chính trị
tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện cho tơi trong q trình thu thập tư liệu, để tơi
hồn thành cơng trình nghiên cứu khoa học này.
Tơi xin chân thành cảm ơn BCN Khoa Lịch Sử, cùng các Thầy, Cô giáo
trong khoa đỡ tận tình giúp đỡ, góp ý cho khóa luận được hồn thiện. Và đặc
biệt Tơi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Vũ Quang Vinh, Giảng viên cao
cấp tại Học viện Hành chính – chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trong suốt
thời gian qua đã giúp đỡ rất nhiệt tình để tơi hồn chỉnh khóa luận, cảm ơn tập
thể lớp K35 - CN Lịch Sử đã có những đóng góp q báu giúp tơi hồn thành
cơng trình nghiên cứu khoa học này.
Với khả năng và trình độ cịn hạn chế của một sinh viên cịn trong q
trình học tập, tơi khơng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế trong khi nghiên
cứu. Vì vậy, rất mong các thầy cơ và bạn bè đóng góp ý kiến để bài khóa luận
được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2013
Hoàng Thị Phương
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu khoa học này là nghiên cứu,
mọi thông tin, thông số đều được thẩm định qua tư liệu gốc và đã thơng qua
Thầy giáo hướng dẫn.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2013
Hoàng Thị Phương
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB:
Ngân hàng phát triển châu Á
AFTA:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AIPA:
Tổ chức liên nghị viện của khu vực
APEC:
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình
ASEAN:
Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á
ASEM:
Diễn đàn hợp tác liên khu vực Á – Âu
ECOSOC: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc
ESCAP:
Ủy ban kinh tế - xã hội châu Á – Thái Bình Dương
EU:
Liên minh châu Âu
FAO:
Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc
FDI:
Đầu tư trực tiếp
GDP:
Tổng sản phẩm nội địa
IMF:
Quỹ tiền tệ quốc tế
ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD:
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
SEV:
Hội đồng tương trợ kinh tế
UNCTAD:
Diễn đàn thương mại và phát triển Liên hợp quốc
UNDP:
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
UNIDO:
Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
WB:
Ngân hàng thế giới
WTO:
Tổ chức thương mại thế giới
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
Chương 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI
ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN
NĂM 2011............................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm và cơ sở hình thành đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam ............................................................................................................... 8
1.2. Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................................ 11
1.3. Chủ trương và hoạt động đối ngoại của Đảng ta trước năm 1986 .......... 16
1.4. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2011 ................................. 19
1.4.1. Quá trình hình thành đường lối đối ngoại đổi mới (1986 - 1996).............. 19
1.4.2. Quá trình phát triển đường lối đối ngoại đổi mới (1996-2011) ............... 25
1.5. Quá trình xây dựng mối quan hệ giữa đường lối đối ngoại và chính
sách đối ngoại ..................................................................................................... 29
1.6. Bổ sung nội dung của đường lối đối ngoại đổi mới .................................. 30
Chương 2. KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG Q
TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC ĐỐI NGOẠI 1986-2011.............. 33
2.1. Một số thành tựu và hạn chế trong đường lối đối ngoại của Đảng ta .... 33
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động đối ngoại của
Đảng ta .......................................................................................................... 46
2.2.1. Hạn chế ................................................................................................. 46
2.2.2. Nguyên nhân của các hạn chế................................................................. 47
2.3. Một số kinh nghiệm cơ bản trong công tác đối ngoại của Đảng ta suốt
25 năm tiến hành đổi mới (1986 - 2011) ........................................................ 50
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 58
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động đối ngoại Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến nay luôn kế
thừa và phát huy truyền thống ngoại giao của dân tộc. Năm 1945, nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa ra, đồng thời cũng đặt nền móng cho nền ngoại giao
Việt Nam hiện đại – ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh. Lịch sử ngoại giao Việt
Nam hiện đại thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đó trở thành hệ thống các quan điểm về
đường lối, chiến lược, sách lược ngoại giao, trên cơ sở kế thừa những truyền
thống tốt đẹp của nền ngoại giao Việt Nam.
Trong lịch sử từ khi có Đảng cầm quyền đến nay, Đảng ta ln xây
dựng và khơng ngừng hồn thiện đường lối đối ngoại. Trải qua hai cuộc
kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi.
Bước sang thời kỳ đổi mới sau nhiều năm bị bao vây, cơ lập về chính trị, cấm
vận về kinh tế. Tình hình trong nước trì trệ và khủng hoảng nặng nề về kinh tế
- xã hội, ngoại giao Việt Nam càng trở nên mềm dẻo hơn, chuyển sang một
chặng đường mới đầy khó khăn và thách thức to lớn. Thời kỳ này Đảng ta xác
định chủ trương bình thường hóa mối quan hệ giữa các nước trong khối xã hội
chủ nghĩa, bình thường hóa quan hệ Việt – Trung, từng bước bình thường hóa
quan hệ Việt - Mỹ, phá thế bao vây cô lập, thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Đường lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam trong suốt thời kỳ
1986 - 2011 là một bộ phận trong đường lối đổi mới toàn diện để xây dựng và
bảo vệ đất nước, nó ln góp phần quyết định bảo vệ và phát huy thành quả
cách mạng, bảo đảm giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng
và phát triển đất nước, ra đời yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới với xu
thế quan hệ quốc tế của thời đại mới, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa
1
phương hóa đúng đắn, kịp thời đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Chính sách
đối ngoại đổi mới đã đem lại những thành tựu mới góp phần đưa đất nước tiếp
tục tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mới trong đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta được đánh
dấu từ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) và Nghị quyết 13 Bộ Chính
trị (1988). Kể từ đó, q trình đổi mới tư duy và thực hành đối ngoại diễn ra
liên tục và dần theo hướng hoàn thiện. Đặc biệt là sau khi chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng ta đã hồn chỉnh và bổ sung tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh là “thêm bạn bớt thù”, với phương châm “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” vừa mềm dẻo, vừa khôn khéo. Đại hội VII (1991) của
Đảng đã mở ra trong sử mới cho nền ngoại giao Việt Nam bằng lời khẳng
định: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa
bình, độc lập và phát triển” [9, tr.75]. Kết quả của q trình đó là sự hình
thành những hệ thống quan điểm đánh giá tình hình thế giới sát hơn, từ đó xây
dựng chính sách đối ngoại ngày càng có hiệu quả phục vụ lợi ích quốc gia,
dân tộc và các giai đoạn cách mạng cụ thể. Nhờ đó, qua các kỳ đại hội, Đảng
ta ngày càng nhận thức rõ hơn và sâu sắc hơn về vấn đề đối ngoại.
Thời kỳ 1986 - 2011, trong điều kiện tình hình thế giới diễn biến nhanh
và phức tạp. Vì vậy, đường lối đối ngoại của Đảng luôn điều chỉnh để bám sát
thực tiễn. Muốn có một đất nước vững mạnh khơng chỉ là kinh tế, chính trị,
mà cịn trên mặt trận ngoại giao giữ một vị trí vơ cùng quan trọng cho sự hình
thành và phát triển của Việt Nam. Từ những lý do trên, tơi đã chọn đề tài:
“Q trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng Cộng
sản Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 - 2011)” để làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.
Đề tài này trả lời cho ba câu hỏi: Tại sao Đảng ta cần thay đổi đường lối
đối ngoại? Chính sách đối ngoại của Việt Nam trước và sau đổi mới như thế
2
nào? Những thành tựu đạt được và bài học kinh nghiệm trong suốt thời kỳ đổi
mới đường lối đối ngoại là gì?
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu vấn đề đường lối đối ngoại của Đảng ta trong thời kỳ
đổi mới 1986 - 2011 đã được nhiều tác giả, các nhà nghiên cứu, các hội thảo
khoa học đã bàn luận như: Bùi Trung Thành: “Chính sách đối ngoại của
Đảng thời kỳ đổi mới (1986-1996) - Luận án thạc sĩ khoa học lịch sử - Hà Nội
1994. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 4/2000, Tường Thúy Nhân “Những thành
tựu nổi bật trong q trình đổi mới chính sách đối ngoại của Đảng”. Phạm
Quang Minh “Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công
cuộc đổi mới” đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 9/2007.
Tạp chí Cộng sản, số 831 (1-2012) có bài viết: “Việt Nam đã, đang và
sẽ tiếp tục chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 27 với chủ đề “Chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế và triển khai đồng bộ, tồn diện hoạt động đối ngoại, góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng”. Bài viết
Phó thủ tướng phụ trách kinh tế đối ngoại Vũ Khoan “Đổi mới tư duy và chính
sách trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt nam” đăng trên Tạp
chí Lịch sử Đảng tháng 4/2007
Tạp chí Cộng sản số 19, 2005 : Ngoại giao thời kỳ đổi mới – một giai
đoạn phát triển quan trọng của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Tạp chí Lịch
sử Đảng, số 3/2009 có bài viết “Hồ Chí Minh với hội nhập và phát triển” của
Bùi Đình Phong. Nội dung của bài viết này nói về tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng
8/1997 với bài viết của Mạch Quang Thắng “Nhìn lại chính sách đối ngoại của
Đảng ta trong thời kỳ đổi mới”.
Tuy nhiên, những bài viết trong các tạp chí chỉ nói lên một phần hay
một vấn đề nào đó trong hoạt động đối ngoại của Đảng ta hiện nay. Bên cạnh
3
đó, cịn có một số luận án, luận văn đã bảo vệ đề cập đến chủ đề này như: Vũ
Quang Vinh: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986 2000), Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2001; Vũ Đình Cơng: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1986 - 1995), Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội,
1997; Báo cáo tổng kết: Một số lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết
lý luận;
Tất cả các cơng trình nghiên cứu trên đề cập đến một số khía cạnh
đường lối đối ngoại của Đảng ta từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Và hoạt
động đối ngoại của Đảng xuyên suốt thời kỳ 1986 - 2011 là vấn đề chưa được
khai thác sâu. Vì vậy tơi chọn đề tài: “Quá trình hình thành và phát triển
đường lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 2011)” làm luận văn khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Đề tài này nhằm nghiên cứu hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời
kỳ đổi mới (1986 - 2011), những thành tựu đó đạt được và nhưng bài học quý
giá đối với ngoại giao Việt Nam. Từ việc hệ thống, khái quát, phân tích những
chủ trương, chính sách, làm rõ sự linh hoạt, sáng tạo của Đảng ta trong việc
hoạch định đường lối đối ngoại đổi mới.
Hoạt động đối ngoại của Đảng thời kỳ 1986 - 2011 có vai trị vơ cùng
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Đó là thời kỳ đất nước bước vào
cơng cuộc đổi mới tồn diện, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đa dạng
hóa, đa phương hóa, là bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, hợp tác và phát triển.
4
Đánh giá những thành tựu và hạn chế khi thực hiện đường lối đối ngoại
của Đảng trong những năm 1986 - 2011; bước đầu nêu ra những kinh nghiệm
của công tác đối ngoại nhằm phục vụ công tác đối ngoại hiện nay.
Nhiệm vụ
- Phân tích biến động của tình hình thế giới và trong nước từ năm 1986
đến năm 2011.
- Nêu lên chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng; làm rõ
sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối đó; các phương pháp, cách thức thực hiện
đường lối đối ngoại của Đảng những năm 1986 - 2011.
- Nêu lên thành tựu và một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo
thực hiện đường lối đối ngoại những năm 1986 - 2011.
Phạm vi
Về không gian: Phạm vi không gian mà đề tài đề cập đến khá rộng lớn,
bao gồm đất nước Việt Nam, khu vực châu Á – Thái Bình Dương và thế giới.
Về thời gian: thời kỳ 1986 đến năm 2011. Đây là thời gian Đảng Cộng
sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI cho đến Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu 1: Là các Văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đường lối đối ngoại.
- Nguồn tư liệu 2: Là các tài liệu lưu trữ của Văn phòng Trung ương
Đảng, Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương.
- Nguồn tư liệu 3: Là những cuốn sách và các bài viết do cơ quan, cá
nhân viết về ngoại giao trong thời kỳ 1945-2011.
- Nguồn tư liệu 4: Các bài nghiên cứu viết về đường lối đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử.
5
Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối
đối ngoại để nghiên cứu đề tài, các phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.
- Kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với các phương pháp lơgíc,
Trong đó, phương pháp lịch sử là chủ yếu.
- Ngồi ra, trong bài nghiên cứu cịn sử dụng các phương pháp liên
ngành, phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch
sử.
5. Đóng góp của đề tài
- Tái hiện trên những nét chính yếu quá trình hình thành và phát triển
đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt nam thời kỳ đổi mới (1986 –
2006).
- Hệ thống tư liệu bước đầu, góp phần tổng kết đường lối đối ngoại của
Đảng ta trong 25 năm đổi mới.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm cho công tác đối ngoại trong giai
đoạn hiện nay.
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp tương đối đầy đủ về quá
trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng ta trong thời kỳ
đổi mới, từ đó đóng góp nhất định về mặt khoa học lịch sử.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần cung cấp thêm cho tư liệu
giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về đường lối ngoại giao của Đảng trong suốt
thời kì đổi mới, đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đặt niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng, đi theo đường lối của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó biết cách
ứng xử trong đời sống xã hội, ứng xử với tinh thần đoàn kết quốc tế, từ đó
càng thêm tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc.
6
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
có hai chương như sau:
Chương 1: Sự hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2011
Chương I nêu lên nguyên nhân hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ
đổi mới từ năm 1986 đến năm 2011. Nội dung chính của chương I là trình bày
một cách có hệ thống từ góc độ lịch sử q trình hình thành và phát triển
chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 - 2011), thơng qua
phân tích nội dung cơ bản của các văn kiện Đại hội Đảng và các tài liệu khác
nhằm trả lời câu hỏi: chính sách đối ngoại đổi mới có những nội dung cơ bản
nào, được hình thành và điều chỉnh như thế nào qua từng giai đoạn?
Chương 2: Kết quả và một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh
đạo cơng tác đối ngoại (1986 - 2011)
Chương 2 tập trung đánh giá những thành tựu nổi bật, rút ra một số bài
học kinh nghiệm, đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục nhằm hồn
thiện chính sách đối ngoại trong thời gian tới.
7
Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2011
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm
Đối ngoại là đường lối đối sử, giao thiệp của Nhà nước đối với nước
ngoài, là những hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hịa bình, hữu nghị và
hợp tác trên thế giới.
Cần phân biệt khái niệm đối ngoại với khái niệm quan hệ quốc tế. Vì
quan hệ quốc tế là thuật ngữ đa nghĩa và có 3 khía cạnh:
Thứ nhất, quan hệ quốc tế được sử dụng để chỉ các mối quan hệ mà các
quốc gia thiết lập với nhau mang tính đa chiều và có nội hàm khác nhau như:
ngoại giao, kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh – quốc phịng.
Thứ hai, quan hệ quốc tế diễn tả một trạng thái đặc trưng của xã hội sau
khi nhà nước xuất hiện.
1.1.2. Cơ sở hình thành đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Thứ nhất, dựa trên truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt
Nam luôn phải đối đầu với rất nhiều thiên tai địch họa. Qua những thăng trầm
ấy, ngoại giao Việt Nam đó từng bước được hình thành và phát triển, vừa
mang đậm bản sắc dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo
nên một bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt Nam. Xưa nay truyền thống
ngoại giao của Việt Nam là hòa hiếu. Mỗi lần buộc phải kháng chiến chống
ngoại xâm thì sau chiến tranh lại vượt qua đau thương, khoan dung, mềm
mỏng, khôi phục bang giao.
8
Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên
cường cho độc lập, tự do của dân tộc với nhiều tấm gương điển hình như Lý
Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…và nhiều bài học sâu sắc, bổ
ích về ứng xử trong đối ngoại. Lịch sử đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại
xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho ngoại giao Việt Nam tính chiến
đấu cao, bản chất hịa bình, hịa hiếu, nhân nghĩa, thủy chung, “Lấy đại nghĩa
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời và được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo. Trải
qua những giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình,
ngoại giao Việt Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ơng, góp
phần khơng nhỏ vào bảo vệ chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất
nước ngày càng phồn thịnh.
Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới kế thừa truyền thống trọng đạo lý,
nghĩa tình, giàu tính nhân văn và cởi mở của dân tộc: củng cố và phát triển
quan hệ với bạn bè quốc tế đã từng đoàn kết và ủng hộ Việt Nam trong sự
nghiệp đấu tranh chống đế quốc xâm lược; bình thường hóa và phát triển quan
hệ với các nước từng xâm lược Việt Nam như Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Trung
Quốc. Vì thế các nước này trở thành đối tác quan trọng của nước ta trong q
trình hội nhập quốc tế vì hịa bình và phát triển.
Truyền thống ngoại giao của dân tộc ta, đó là:
Một là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh cho mục tiêu cơ bản của dân tộc,
với mục tiêu dân tộc: độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Mục tiêu độc lập là
về lãnh thổ.
Hai là, nêu cao chính nghĩa, phát huy trền thống yêu nước, điều kiện của
dân tộc.
Ba là, biết thắng từng bước trên đấu tranh ngoại giao.
Bốn là, triệt để khai thác những mâu thuẫn, khó khăn trong nội bộ của kẻ thù.
Năm là, kết hợp đấu tranh quân sự với tọa đàm thương lượng.
9
Sáu là, chủ động tiến công trong ngoại giao.
Thứ hai, dựa trên tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác
– Lênin
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là sản phẩm kết hợp phương pháp
luận Mác xít với chủ nghĩa yêu nước và truyền thống ngoại giao Việt Nam.
Phát huy truyền thống hòa hiếu, nhân ái, hữu nghị, hợp tác, văn minh của nền
ngoại giao Việt Nam và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện trong tuyên
bố của Người: “Làm bạn với tất cả các nước dân chủ mà khơng gây thù ốn với
một ai”. Tư tưởng đó đó trở thành cơ sở của chính sách đối ngoại đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đối ngoại là hệ
thống các quan điểm, nhận thức, luận cứ được thể hiện trong tư duy lý luận và
hoạt động thực tiễn đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn
lịch sử. Theo hệ thống các quan điểm này, chính sách đối ngoại có vai trị hết
sức quan trọng đối với một quốc gia. Trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ đất
nước, chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành chiến lược cách mạng.
Khi có đường lối quốc tế rõ ràng, chính sách đối ngoại phù hợp, cách mạng sẽ
đi đến hình thành một hệ thống chủ trương chiến lược và biện pháp sách lược
xử lý những vấn đề tác động đến lợi ích của sự nghiệp cách mạng. Là một
nước nhỏ nhưng chúng ta đó sớm nhận thức được tầm quan trọng của chính
sách đối ngoại. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, khi một nước nhỏ đối đầu với
một nước hùng mạnh hơn thì phải có chiến lược, phải biến ngoại giao trở
thành vũ khí để góp phần thay đổi tương quan lực lượng, cục diện chiến đấu.
Như vậy, ngoại giao đóng vai trị quan trọng trong việc chủ động đề xuất
phương hướng chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo để đánh thắng kẻ thù
chính trong từng thời kỳ cách mạng.
Nhận thức về vai trị của vũ khí đối ngoại, kể cả trong những xu hướng
mới của thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Ngày nay ngoại giao ai
10
thuận hơn thì thắng”. Trong tình hình quốc tế mới, mỗi quốc gia đều có “linh
hồn riêng”, có vận mệnh riêng, và địi hỏi phải có bản lĩnh, có chính sách đối
ngoại của riêng mình. Đây chính là cách ứng xử của một quốc gia đối với thế
giới. Thành công sẽ đến với quốc gia nào có cách ứng xử thơng minh. Từ đó
có thể thấy chính sách đối ngoại có một vị trí rất lớn đối với chiến lược phát
triển của một quốc gia, và chú trọng tới các chính sách đối ngoại là một yêu
cầu cần thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp những giá trị văn hóa truyền
thống ngoại giao Việt Nam với tinh hoa văn hóa và ngoại giao thế giới.
1.2. HỒN CẢNH LỊCH SỬ
1.2.1. Đặc điểm tình hình quốc tế
Thế giới từ năm 1986 đến năm 2012 tồn tại một số đặc điểm cơ bản như
sau:
Chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng và đổ vỡ ở Liên Xô và
Đông Âu. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi
mới, giữ vững con đường xã hội chủ nghĩa.
Thế giới đa cực (trước đó là trật tự 2 cực Yalta) hình thành với xu thế đối
thoại, hội nhập, tồn cầu hóa. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược phù hợp với
tình hình thế giới và khu vực (bao gồm một số cực tiêu biểu: Hoa Kỳ, Trung
Quốc, Ấn Độ, Nga, EU, chủ nghĩa khủng bố).
Xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức
xúc của mọi dân tộc và quốc gia trên thế giới. Tuy ít khả năng xảy ra chiến
tranh thế giới nhưng chiến tranh sử dụng vũ khí hạt nhân, chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố còn
xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới với tính phức tạp ngày càng tăng. Cuộc đấu
tranh của các dân tộc cho hịa bình và phát triển, chống chính sách cường quyền
và áp đặt, vì tiến bộ xã hội có nhiều bước tiến mới.
Tồn cầu hóa là một xu thế khách quan ngày càng lôi cuốn nhiều nước
tham gia. Nó vừa có những tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến sự
11
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của các nước và quan hệ quốc tế. Xu thế này
bị các nước phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia chi phối. Các nước tham
gia vào quá trình này vừa là hợp tác, vừa là đấu tranh quyết liệt với nhau.
Mở cửa các hình thức hợp tác song phương, đa phương giữa các quốc gia
ngày càng sâu rộng cả trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, bảo vệ mơi trường,
phịng chống tội phạm, phòng chống thiên tai và bệnh dịch. Các công ty xuyên
quốc gia không ngừng cấu trúc lại, hình thành những tập đồn khổng lồ chi
phối các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng trên phạm vi tồn thế giới
với những hình thức tổ chức và quản lý linh hoạt, đa dạng. Đây là mỗi vấn đề
đặt ra cho mỗi quốc gia xem xét, điều chỉnh đường lối đối ngoại theo điều kiện
cụ thể của đất nước mình trong quan hệ đa đạng hóa, đa phương hóa.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tác động đến hầu hết các quốc gia
dân tộc, đòi hỏi tất cả các nước phải mở cửa, hội nhập. Cách mạng khoa học –
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển nhảy vọt, thúc đẩy
sự hình thành nền kinh tế tri thức và làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Sở hữu trí tuệ có vai trị ngày càng quan trọng. Trình độ làm chủ
thơng tin, tri thức có ý nghĩa quyết định tương lai phát triển của các nền kinh tế.
Các nước đang phát triển có cơ hội thu hẹp khoảng cách với các nước phát
triển, cải thiện vị trí quốc tế của mình, đồng thời cũng đứng trước nguy cơ tụt
hậu xa hơn và bị phụ thuộc nếu khơng có những chính sách thích hợp tranh thủ
được các cơ hội và khắc phục được các yếu kém để vươn lên.
Nếu so với hơn 300 năm phát triển của chủ nghĩa tư bản và hơn 80 năm
phát triển của xã hội chủ nghĩa thì sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học
và cơng nghệ đó đưa lồi người từ nền văn minh công nghiệp chuyển sang nền
văn minh tin học.
Khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực (1997 - 2000) và thế giới (2008 2012) tác động mạnh mẽ tới tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ. Suy thoái
kinh tế từ những năm 2008 cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Nợ công ở
12
Mỹ, Tây Âu và các nước tư bản chủ nghĩa đang diễn ra gay gắt. Nhìn sâu sa thì
có thể thấy kinh tế thế giới đang diễn ra một quá trình cơ cấu lại.
Những khía cạnh quốc tế của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á gần
đây cho thấy sự phát triển của những mối quan hệ kinh tế đó buộc các nước
ngày càng phải chia sẻ vận mệnh kinh tế của nhau tốt cũng như xấu, địi hỏi
phải có chính sách tập thể. Sự hợp tác có tính xây dựng có thể đảm bảo ngăn
chặn sự kéo dài của những khó khăn, và việc đối phó với sự tăng trưởng chậm
lại và những thách thức điều chỉnh không dẫn đến sự khủng hoảng hoặc suy
thối kéo dài.
Tình hình châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đơng Nam Á nói
riêng cũng có nhiều chuyển động. Đây cũng là khu vực rộng lớn tập trung
những nước đông dân nhất thế giới, với nguồn nhân lực, cần cù, sáng tạo, tài
nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, nằm trên trục đường giao thông
quan trọng bậc nhất thế giới vẫn được coi là khu vực tiềm năng có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao hơn các khu vực khác. Châu Á - Thái Bình Dương là khu
vực phát triển năng động và vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao
như các nước Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Xingapo, Thái Lan,
Malayxia. Đông Nam Á vẫn thu hút sự chú ý của các nước lớn như Hoa Kỳ,
Nga, Trung Quốc, Nhật và các nước Tây Âu. Tình hình khu vực này cũng từng
bước chuyển động theo hướng giảm đối đầu, từ đó xây dựng khu vực hồ bình,
ổn định, hợp tác để cùng nhau phát triển.
Đông Nam Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao, một số quốc
gia vươn lên trở thành “con rồng” về kinh tế. Các nước trong khu vực đều có
nguyện vọng tồn tại hịa bình, hữu nghị và hợp tác để phát triển. Sự hợp tác này
ngày càng tăng ở nhiều tầng, nhiều nấc dưới nhiều hình thức, như Diễn đàn
châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Khu vực thương mại tự do ASEAN, Hiệp
hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC). Các nước trong khu vực có khả năng
tiếp tục phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây bất ổn định.
13
Quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực tuy cịn nhiều trục trặc, song nhìn
chung vẫn nằm trong khn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau
nhưng hạn chế đối đầu.
Tuy nhiên, mơi trường hịa bình, ổn định và phát triển của khu vực chưa
thật vững chắc. Vẫn cịn tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định. Trong
nội bộ một số nước và các nước vẫn còn tồn tại mâu thuẫn, xung đột về chính
trị, sắc tộc, tơn giáo, kinh tế, xã hội, biên giới.
Những diễn biến trong quan hệ giữa các nước lớn có liên quan đến khu
vực và sự dính líu, can thiệp dưới hình thức mới có thể gây nên khơng ít phức
tạp cho các quốc gia và quan hệ giữa các nước với nhau, đòi hỏi Đảng ta phải
điều chỉnh những quan hệ đối ngoại phù hợp.
Trong xu thế mới của tình hình thế giới, để mở cửa, hội nhập quốc tế vì
mục tiêu hịa bình, ổn định và phát triển, các quốc gia đang đứng trước một sự
lựa chọn đòi hỏi phải hết sức tỉnh táo, vừa bảo đảm những vấn đề có tính
ngun tắc, có tính chiến lược vừa phải hết sức mềm dẻo trong sách lược khi
xây dựng đường lối đối ngoại đổi mới vì một thế giới hịa bình, vỡ sự ổn định
và phát triển bền vững.
1.2.2. Bối cảnh đất nước
Việt Nam là một nước nơng nghiệp lạc hậu, phải gồng mình tiến hành
hai cuộc kháng chiến 30 năm liên tục chống hai đế quốc xâm lược giàu mạnh
nhất thế giới, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nước ta đứng trước nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa về trình độ phát triển kinh tế.
Hơn nữa, sau khi đất nước thống nhất cả nước định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội thì các thế lực thù địch thực hiện sự bao vây, cấm vận, gây xung
đột vũ trang, làm mất ổn định chính trị. Các thế lực thù địch cũn lợi dụng vấn
đề Campuchia để cô lập Việt Nam với thế giới và khu vực. Ngồi ra, bọn phản
động kích động chia rẽ dân tộc, tôn giáo gây mất ổn định xã hội ở Tây Nguyên,
Tây Bắc, Tây Nam Bộ…
14
Việt Nam trong tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã
hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt tới 774,7% năm 1986, đất nước bị bao
vây cấm vận về kinh tế, cơ lập về chính trị, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, niềm tin giảm sút. Đầu năm 1988 đó xảy ra nạn đói ở nhiều vùng và lạm
phát vẫn còn ở mức cao (393,8%). Trong khi đó, lực lượng thù địch vẫn tìm
mọi cách làm “Việt Nam chảy máu” và đe dọa, cho nên Việt Nam vẫn phải duy
trì lực lượng vũ trang lớn và tư thế sẵn sàng chiến đấu cao.
Trước thời kỳ đổi mới, hệ thống chính sách kinh tế và đối ngoại của
nước ta có nhiều bất cập do chủ quan, duy ý chí và khó khăn khách quan chồng
chất. Về kinh tế, chúng ta áp dụng mơ hình kế hoạch hóa tập trung kiểu Liên
Xơ trên quy mơ tồn quốc, phủ nhận các quy luật của kinh tế thị trường. Sự lựa
chọn này không tạo ra được điều kiện cần thiết và cơ hội để ta phát triển mạnh
mẽ quan hệ kinh tế đối ngoại và tham gia sâu rộng vào thị trường thế giới và
khu vực.
Môi trường quốc tế khơng có lợi cho ta: đối đầu căng thẳng giữa hai hệ
thống chính trị - xã hội thế giới tiếp theo việc Liên Xô và một số nước xã hội
chủ nghĩa mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở Châu Phi (Ănggôla, Êtiôpia), Nam Á
(Ápganixtan) và Campuchia, quan hệ ngày càng xấu đi giữa Việt Nam và
Trung Quốc từ năm 1977, chính sách bao vây, cơ lập chính trị và cấm vận kinh
tế mà Mỹ và phương Tây và sau đó là Trung Quốc, ASEAN áp dụng đối với
Việt Nam sau sự kiện Campuchia năm 1979; Liên Xô – Đông Âu lâm vào tình
trạng khó khăn hơn về kinh tế trong cuộc suy thối kinh tế tồn cầu vào đầu
giai đoạn đầu những năm 1980.
Tóm lại, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh
tế quốc tế với tư cách là một quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền. Tuy
nhiên, những nỗ lực này đã không mang lại những kết quả như mong muốn,
thậm chí khơng ngăn nổi chiều hướng đi vào khủng hoảng của nền kinh tế do
tác động của việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, sự
15
mở rộng và kéo dài cuộc chiến tranh lạnh ở Đơng Dương. Trên cơ sở phân tích
tình hình thế giới, khu vực và thực trạng đất nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã khởi xướng và lãnh đạo
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Cùng với đổi mới tư duy về kinh tế, qua các kỳ đại hội, Đảng và Nhà
nước Việt Nam từng bước đổi mới tư duy về đối ngoại. Trước hết là việc đổi
mới công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá những chuyển biến của tình hình
thế giới và quan hệ quốc tế; thứ hai là đổi mới tư duy về các cặp quan hệ như
giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế, giữa an ninh và phát triển, giữa hợp
tác và đấu tranh; thứ ba là đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng, từ đó xác định
chủ trương, đường lối và chính sách đối ngoại thích hợp với từng giai đoạn lịch
sử cụ thể.
1.3. CHỦ TRƯƠNG VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA
TRƯỚC ĐỔI MỚI NĂM 1986
Trước thời kỳ đổi mới, khi đất nước còn chưa độc lập, Đảng ta đã sáng
suốt giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc với chủ trương: Quyền lợi của bộ
phận, giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. nên đã
lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng Tháng Tám thành cơng. Trong tình huống
vơ cùng khó khăn của những năm 1945 – 1946, ta đã khôn khéo tạm hạ bớt cả
hai ngọn cờ dân tộc và giai cấp xuống một nấc: Ngày 11/11/1945, Đảng rút vào
hoạt động bí mật dưới hình thức tun bố “tự giải tán” và trong Hiệp định Sơ
bộ 6/3/1946, đã chấp nhận độc lập hạn chế, chủ quyền hạn chế, thống nhất có
điều kiện, do đó đã thành cơng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, do xác định đúng
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta – dù
thuộc giai cấp, tầng lớp nào – bọn thực dân, đế quốc xâm lược nên Đảng ta
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc để tập hợp toàn thể nhân dân vào Mặt trận
Việt Minh và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt khác, ta
16
cũng thấy rõ bốn mâu thuẫn cơ bản của thời đại biểu hiện thành công đấu tranh
giữa các lực lượng chính trị - xã hội tiến bộ chống lại các lực lượng thù địch,
bảo thủ. Từ đó Đảng ta đó đề ra hai nhiệm vụ chiến lược cho nước ta là xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, đồng thời ta cũng
nêu cao sách lược “miền Nam độc lập, hịa bình, trung lập” nên đã đặt nước ta
đúng dòng chảy của thời đại, tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ vật chất to
lớn, có hiệu quả của tất cả đất nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng
dân tộc và của mọi tầng lớp nhân dân trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.
Việc chấm dứt chiến tranh và thống nhất đất nước năm 1975 đã mở ra cơ
hội to lớn cho sự nghiệp tái thiết đất nước và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam. Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã đưa ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta là phấn đấu hồn thành cơ bản về q trình đưa kinh tế nước ta
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong vòng 20 năm và chủ
trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Triển khai đường lối này, Chính phủ đã tiến hành cải tạo kinh tế tư bản
chủ nghĩa ở miền Nam và xác lập trên toàn quốc mơ hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung. Theo đó, chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam nhìn chung vẫn
là chủ yếu vào hợp tác với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Mốc đáng
kể trong quá trình tham gia liên kết kinh tế quốc tế của Việt Nam là việc gia
nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tháng 6/1978. Vào tháng 7/1977 Việt
Nam trở thành thành viên chính thức thức thứ 149 của Liên hợp quốc.
Nhìn chung thời kỳ 1976 – 1985, hoạt động đối ngoại của Việt Nam có
một số nét như sau:
Thứ nhất, hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra với nhiều hình thức phong
phú, bên cạnh các hoạt động ngoại thương, có thêm nhiều hoạt động hợp tác
trong các lĩnh vực tài chính – ngân hàng, dịch vụ, hợp tác lao động và xuất
khẩu chuyên gia.
17
Thứ hai, khơi phục đồn kết và hợp tác ba nước Đông Dương. Việt Nam
chủ trương cùng với Lào và Campuchia xây dựng liên minh đặc biệt. Hội nghị
cấp cao ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia, ngày 23/2/1983, đã họp, thơng
qua ngun tắc chỉ đạo quan hệ đồn kết, hợp tác giữa ba nước. Mặc dù đối tác
quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn chủ yếu là các nước xã hội chủ
nghĩa, song Việt Nam cũng đó bắt đầu mở rộng quan hệ với một số nước tư bản
chủ nghĩa.
Thứ ba, chú trọng tăng cường quan hệ với Liên Xô và các nước trong
khối SEV. Bên cạnh hình thức quan hệ kinh tế song phương, Việt Nam đó bắt
đầu tham gia hình thức hợp tác kinh tế đa phương trong khối SEV, trở thành
thành viên của IMF, WB, Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế liên chính phủ
trong hệ thống phát triển của Liên hợp quốc.
Thứ tư, duy trì đàm phán với Trung Quốc, tìm cách thúc đẩy đối thoại
với các nước ASEAN. Về vấn đề Campuchia có được lối thốt hay khơng phụ
thuộc một phần không nhỏ vào thái độ của Trung Quốc. Chính vì vậy những cố
gắng của Việt Nam nhằm nối lại đàm phán bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc chưa có kết quả.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V khẳng định Việt
Nam mong muốn xây dựng quân hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN và
cùng với các nước này tìm biện pháp giải quyết vấn đề khu vực. Tuy nhiên,
quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN không tiến nhanh được do phía
ASEAN cịn chịu tác động mạnh của Hoa Kỳ, Trung Quốc. Phía Việt Nam vẫn
cịn nặng nề về đấu tranh phê phán ASEAN, gắn việc rút quân với yêu cầu Thái
Lan chấm dứt viện trợ, chấm dứt việc dành cho lực lượng ba phái Campuchia
sử dụng đất thánh trên lãnh thổ của mình.
Thứ năm, tìm cách cải thiện quan hệ với các nước phương Tây khác.
Mục tiêu của Hoa Kỳ và các nước phương Tây là đòi Việt Nam rút qn, bảo
đảm hịa bình, ổn định và cân bằng lực lượng mới có lợi cho khu vực sau khi
18
vấn đề Campuchia được giải quyết. Vì vậy, lúc đầu Hoa Kỳ, phương Tây và
Trung Quốc, ASEAN bao vây, cô lập Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ tham gia
của các bên có khác nhau. Do đó, từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Việt
Nam thúc đẩy sự chuyển biến của Hoa Kỳ.
Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng để mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, quan hệ đối ngoại của Đảng trong giai đoạn này vẫn là quan hệ
“khép kín” hoặc mở ra ở một số nước xã hội chủ nghĩa và các nước trong khu
vực. Kết quả của những hoạt động đối ngoại trong thời kỳ 1976 – 1985 còn khá
khiêm tốn, chủ yếu do các nguyên nhân, đặc biệt là chính sách đối ngoại của ta
thời kỳ này có nhiều sai lầm mà Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra là “bệnh chủ
quan, suy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội” là “ những sai
lầm nghiêm trọng về chủ trương chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện”, duy ý chí và khó khăn khách quan chồng chất, ta tăng cường
cải thiện với Liên Xô trong bối cảnh mâu thuẫn Trung – Xô đang lên tới đỉnh
điểm căng thẳng; mặt khác các thế lực thù địch đã xuyên tạc vấn đề quân tình
nguyện Việt Nam vào Campuchia và lợi dụng vu cáo nhằm cơ lập ta về chính
trị, bao vây cấm vận kinh tế nước ta.
Hoàn cảnh này đã đẩy ta vào những khó khăn nghiêm trọng trong triển
khai chính sách đối ngoại, làm cho quan hệ kinh tế quốc tế của ta thậm chí bị
thu hẹp, gây tác động tiêu cực tới tình hình kinh tế nước ta trong một thời gian
dài và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng.
1.4. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 2011
1.4.1. Quá trình hình thành đường lối đối ngoại đổi mới (1986 1996)
Đây là thời kỳ xác định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
19