Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Quan hệ đại việt trung hoa từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII qua các bộ thông sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.91 KB, 106 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới Th.S Ninh Thị Hạnh – Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội 2. Cô đã tận tình hướng dẫn và có những lời nhận xét quý báu trong
suốt quá trình tôi thực hiện khóa luận này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy cô giáo và cán bộ nhân
viên khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Các thầy cô đã nhiệt tình
truyền đạt những kiến thức, những kinh nghiệm của mình, cũng như thầy cô đã tạo
điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành khóa học tại trường.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, tiếp thêm nghị lực
cho tôi hoàn thành khóa học cũng như khóa luận này.
Mặc dù hết sức cố gắng song khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn để khóa luận
của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2013

Hà Thị Thao Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Công
trình được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Th.S Ninh Thị Hạnh, giảng viên khoa
Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học và có nguồn gốc rõ ràng.

Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Hà Thị Thao Linh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu......................................................... 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu........................................................... 5
5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 6
6. Bố cục của khóa luận ........................................................................................... 6
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT QUAN HỆ ĐẠI VIỆT – TRUNG HOATRƯỚC THẾ KỶ XVI .. 7
1.1. ÂM MƯU THÔN TÍNH ĐẠI VIỆT CỦA TRUNG HOA VÀ CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM ......................... 7
1.2. QUAN HỆ BANG GIAO CHÍNH TRỊ ............................................................. 9
1.3. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI ............................................................................ 20
CHƯƠNG 2
QUAN HỆ ĐẠI VIỆT – TRUNG HOATỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XVIII24
2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ..................................................................................... 24
2.1.1. Bối cảnh khu vực, quốc tế cuối thế kỷ XVI – XVIII .................................... 24
2.1.2. Bối cảnh Việt Nam thế kỷ XVI – XVIII....................................................... 27
2.1.3. Bối cảnh Trung Quốc thế kỷ XVI – XVIII ................................................... 31
2.2. QUAN HỆ ĐẠI VIỆT – TRUNG HOA TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾNTHẾ KỶ
XVIII..................................................................................................................... 33
2.2.1. Các vấn đề quan hệ bang giao ...................................................................... 34
2.2.1.1. Vấn đề triều cống ...................................................................................... 34
2.2.1.2. Vấn đề cầu phong ..................................................................................... 39
2.2.1.3. Vấn đề về mối quan hệ giúp đỡ giữa hai nước .......................................... 43
2.2.2. Các vấn đề quan hệ thương mại ................................................................... 45
2.2.2.1. Tính chất của quan hệ buôn bán ............................................................... 46



2.2.2.2. Hàng hóa buôn bán................................................................................... 49
2.2.2.3. Định thuế, luật lệ và giá cả buôn bán ........................................................ 57
2.2.2.4. Địa điểm buôn bán .................................................................................... 61
2.2.3. Vấn đề lãnh thổ ............................................................................................ 71
2.2.3.1. Tranh chấp biên giới, lãnh thổ .................................................................. 71
2.2.3.2. Việc mở rộng lãnh thổ Đàng Trong ........................................................... 74
2.3. ĐẶC ĐIỂM QUAN HỆ ĐẠI VIỆT – TRUNG HOA TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN
THẾ KỶ XVIII ..................................................................................................... 84
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 97


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ngoại giao được
xem là một lĩnh vực quan trọng. Qua các thời kỳ lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy
hoạt động ngoại giao Việt Nam đã phản ánh những nét đặc trưng của bản sắc văn
hóa dân tộc. Ngoại giao Việt Nam cũng đã góp phần quan trọng không chỉ với việc
bảo tồn mà còn góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa của dân tộc trong việc ứng
xử và tiếp biến các giá trị văn hóa của các dân tộc khác, giữ vững chủ quyền,
lãnhthổ quốc gia. Trong đó, quan hệ với Trung Hoa được xem là mối quan hệ lâu
đời và quan trọng nhất của Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử. Điều này được
thể hiện rất rõ qua sử sách trong đó có các bộ thông sử của nước ta. Đây chính là
nguồn tài liệu chính thống nhất để chúng ta nghiên cứu các vấn đề lịch sử đồng thời
tránh tình trạng “hiện đại hóa lịch sử” mà ngày nay chúng ta thường mắc phải.
Bang giao Đại Việt với Trung Hoa trong các thế kỷ XVI - XVIII là điển hình
của bang giao Đại Việt thời phong kiến với sự hoàn thiện trong nghi thức, chính
sách và nội dung bang giao. Đây là giai đoạn lịch sử với nhiều biến động trong đó

nổi lên mối quan hệ Đại Việt – Trung Hoa. Những chính sách bang giao giai đoạn
này đã góp phần giữ gìn nền độc lập, phát triển kinh tế và mở rông lãnh thổ, tạo thế
ổn định cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Đặt trong bối cảnh hiện nay, khi mối
quan hệ Việt – Trung có những bất ổn nhất định, nghiên cứu quan hệ Đại Việt –
Trung Hoa giai đoạn thế kỷ XVI – XVIII từ đó có sự tham chiếu cho việc xây dựng
đường lối, chính sách ngoại giao trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu mối quan hệ Đại Việt với Trung Hoa trong một
thời kỳ lịch sử sẽ cung cấp thêm tư liệu trong lĩnh vực này đồng thời với tác giả
khóa luận có thể góp phần nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, phục vụ hiệu
quả cho công tác nghiên cứu và giảng dạy.

1


Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề
“Quan hệ Đại Việt – Trung Hoa từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII qua các bộ thông
sử” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài về quan hệ Đại Việt – Trung Hoa từ lâu đã thu hút được nhiều sự quan
tâm của giới nghiên cứu nhưng những nghiên cứu thường tâp trung đi sâu vào một
lĩnh vực trong quan hệ ngoại giao hoặc nghiên cứu trong một khoảng thời gian nhất
định. Một số công trình có thể kể đến là:
- Các bộ thông sử:
“Đại Việt sử ký toàn thư” do Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê biên soạn,
là tài liệu biên niên các sự kiện lịch sử của nước ta có những ghi chép về các hoạt
động đi sứ, việc cống phú và các sự kiện giao thương của Đại Việt với Trung Hoa.
“Đại Việt sử ký tục biên”của Ngô Thì Sĩ cũng ghi chép theo lối biên niên các
sự kiện về hoạt động giao thương với Trung Hoa.
“Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn
ghi chép về các hoạt động đi sứ, cống phú và các sự kiện giao thương với Trung

Hoa.
“Đại Nam thực lục” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đã cung cấp
những thông tin lịch sử theo hình thức biên niên về chính sách kinh tế, những hoạt
động ngoại giao của chúa Nguyễn.
“Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn đã đề cập đến nhiều sự kiện về hoạt
động giao thương với Trung Hoa như các chính sách thương mại, việc mở rộng lãnh
thổ ở Đàng Trong.
- Sách chuyên khảo về quan hệ Đại Việt – Trung Hoa:
Tác phẩm “Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX”(1961)
tác giả Thành Thế Vỹ đã đề cập hoàn cảnh trong nước và thế giới liên quan đến
ngoại thương Việt Nam cũng như cách thức mua bán, trong đó có quan hệ buôn bán
với Trung Hoa.

2


Tác phẩm “Thư tịch cổ Việt Nam nói về chủ nghĩa bành trướng bá quyền
Đại Hán” (1985) tác giả đã chỉ ra những biểu hiện về tư tưởng Đại Hán của các
hoàng đế Trung Hoa và sự đấu tranh của ông cha ta trong quá trình bang giao giữa
hai nước, về những thủ đoạn lấn chiếm biên giới và người Hoa trong âm mưu bành
trướng của các vương triều phương Bắc.
Cũng đề cập đến nội dung này, “Việt - Hoa thông sứ sử lược” (2003) của
Sông Bằng lại mang đến cái nhìn khái quát hơn trong mối quan hệ bang giao giữa
Đại Việt và Trung Hoa. Hay tác phẩm “Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử
Việt Nam” tập 1 (2007) của tác giả Nguyễn Thế Long đã khắc họa lại bức tranh
ngoại giao của Đại Việt qua từng câu chuyện riêng biệt, trong đó ghi chép nhiều về
mối quan hệ với Trung Hoa. Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến quá trình quan hệ
ngoại giao của Đại Việt với Trung Hoa dưới các hình thức đi sứ, cống nộp, báo tin,
chúc mừng. Tác giả cũng nêu sự kiện sứ giả đem hàng trong nước đem bán và mua
hàng hóa từ Trung Hoa về.

Trong khi đó tác phẩm “Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ nước”
(2005) tác giả Nguyễn Q.Thắng đã vẽ lên bức tranh lịch sử văn hoá địa lý xứ Đàng
Trong, việc mở rộng lãnh thổ và quan hệ của Đàng Trong với các nước trong đó có
Trung Hoa.
- Tạp chí nghiên cứu về quan hệ Đại Việt-Trung Hoa như các bài viết:
Bài viết “Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế
kỷ XVII” trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 1 – 2) năm 2007 của tác giả Hoàng
Anh Tuấn đã tập trung phục dựng toàn cảnh bức tranh các hải cảng miền Đông Bắc
nước ta nhằm làm sáng tỏ vai trò của một số địa điểm trong hệ thống thương mại
liên hoàn của Đàng Ngoài thế kỷ XVII trong đó có đề cập đến quan hệ thương mại
với Trung Hoa trong giai đoạn này.
Trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4 năm 2007, tác giả Nguyễn Văn Kim
có bài viết “Vị trí Phố Hiến và Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế
kỷ XVI-XVII”. Trong đó tác giả có đề cập đến vai trò trung gian của thương nhân

3


Hoa kiều trong việc duy trì hoạt động ngoại thương giữa Đại Việt và các nước trong
khu vực.
Bài viết “Chính sách của chính quyền Đàng Trong Việt Nam đối với người
Hoa thế kỷ XVI - XVIII” của tác giả Dương Văn Huy trong tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á, số 2 năm 2008. Bài viết đã chỉ ra những chính sách khôn khéo và mềm dẻo
của các chúa Nguyễn đối với người Hoa di cư sang Đàng Trong Việt Nam.
Bài viết “Hội An – Ngã tư thương mại – văn hóa xưa” trên tạp chí Xưa và
nay số 49B – T3/2008 của tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân nêu lên sự phồn thịnh của
thương cảng Hội An đặc biệt là vai trò của người Nhật và người Hoa tại đây.
Như vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề quan hệ Đại
Việt – Trung Hoa ở các khía cạnh khác nhau. Đó là nguồn tư liệu quý báu và là cơ
sở để chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và thống kê sự kiện trong các bộ thông sử đề tài nêu
lên bức tranh khái quát vềquan hệ giữa Đại Việt với Trung Hoa trong các thế kỷ
XVI – XVIII trên các lĩnh vực: ngoại giao, thương mại, vấn đề lãnh thổ. Đồng thời
rút ra bài học kinh nghiệm trong quan hệ với Trung Quốc cũng như với các nước
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận cần thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản sau:
Tìm hiểu mối quan hệ Đại Việt – Trung Hoa trước thế kỷ XVI – XVIII làm
cơ sở để nghiên cứu quan hệ ấy trong các thế kỷ XVI – XVIII.
Tìm hiểu bối cảnh quốc tế, bối cảnh Đại Việt và Trung Hoa thế kỷ XVI –
XVIII
Khảo sát và thống kê các sự kiện về hoạt động giao thương của nước ta với
Trung Hoa trong các bộ thông sử.

4


Khái quát các chính sách, hình thức và nội dung bang giao giữa Đại Việt và
Trung Hoa trong giai đoạn từ thế kỉ XVI - XVIII.
Đánh giá, nhận xét hoặc rút ra bài học kinh nghiệm trong quan hệ với Trung
Quốc cũng như với các nước trong giai đoạn hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu mối quan hệ Đại Việt – Trung Hoa chủ yếu qua khảo sát các bộ
thông sử: “Đại Việt sử kí toàn thư”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”,
“Đại Nam thực lục”, “Đại Việt sử kí tục biên”, “Phủ biên tạp lục”.
Phạm vi thời gian: thế kỉ XVI – XVIII.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu
Khóa luận được thực hiện dự trên những nguồn tài liệu chủ yếu sau:
Tư liệu trong thư tịch cổ Việt Nam như: “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm
định Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Việt sử ký tục biên”, “Đại Nam thực
lục’, “Phủ biên tạp lục”.
Bài viết trên các báo, tạp chí... của nhiều tác giả liên quan đến nội dung đề tài
nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu, các loại sách chuyên sâu về quan hệ Đại Việt –
Trung Hoa như: “Việt – Hoa thông sứ sử lược”, “Những mẩu chuyện bang giao
trong lịch sử Việt Nam”, “Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX”,
“Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ nước”… và nhiều tác phẩm liên quan
đến nội dung đề tài nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu liên quan đến nội dung đề tài nghiên cứu để
tổng hợp và đánh giá các sự kiện
Phương pháp thống kê toán học: Xử lý, thống kê, phân tích số liệu thu được
trong quá trình thống kê sự kiện trong các bộ thông sử.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lô – gic để phản ánh bản thân sự kiện
cần nghiên cứu và nhận thức sự kiện ấy.

5


5. Đóng góp của khóa luận
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, khóa luận góp phần:
- Khẳng định vai trò của mối quan hệ Đại Việt – Trung Hoa trong ngoại giao
Đại Việt thế kỷ XVI – XVIII.
- Làm rõ các nội dung: Quan hệ ngoại giao, quan hệ thương mại, vấn đề lãnh
thổ trong mối quan hệ Đại Việt – Trung Hoa thế kỉ XVI – XVIII
- Đánh giá, nhận xét và rút ra bài học kinh nghiệm trong quan hệ với Trung

Quốc cũng như với các nước trong giai đoạn hiện nay.
Với những đóng góp nêu trên, chúng tôi mong muốn khóa luận sẽ trở thành
nguồn tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên khoa Lịch sử, đồng thời là nguồn tư
liệu góp phần vào phục vụ việc học tập và giảng dạy phần lịch sử Việt Nam nói
chung và quan hệ Đại Việt – Trung Hoa nói riêng.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận bao gồm hai chương:
Chương 1.Khái quát quan hệ Đại Việt – Trung Hoa trước thế kỉ XVI
Chương 2. Quan hệ Đại Việt – Trung Hoa từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII

6


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT QUAN HỆ ĐẠI VIỆT – TRUNG HOA
TRƯỚC THẾ KỶ XVI
1.1.ÂM MƯU THÔN TÍNH ĐẠI VIỆT CỦA TRUNG HOA VÀ CHÍNH
SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM
Quan hệ Đại Việt – Trung Hoa là quan hệ giữa một nước nhỏĐại Việt có
chung biên giới với một cường quốc là Trung Hoa. Với Đại Việt, phong kiến Trung
Hoa luôn muốn biến Đại Việt thành khu đệm trên con đường tràn xuống Đông Nam
Á, chính vì vậy nước ta luôn phải ứng phó thường trực với nguy cơ bị xâm lược của
các triều đại phong kiến Trung Hoa. Nằm trong bối cảnh đó, các triều đại phong
kiến Việt Nam luôn quán triệt đường lối đối ngoại thân thiện đối với các nước bên
ngoài, đặc biệt là với Trung Hoa. Tuy nhiên khi nền độc lập bị đe dọa, đất nước bị
xâm lấn thì Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu, quyết tâm
chống giặc ngoại xâm.
Vào thế kỷ III trước công nguyên, trên đà tiến về phía Nam, quân đội nhà
Tần đã tiến vào Âu Lạc. Một cuộc đụng độ vũ trang nổ ra. Chung cục, đạo quân nhà

Tần gồm có 50 vạn tên bị đánh tan tành, Đồ Thư – tướng nhà Tần phải bỏ xác trên
đất Âu Lạc.
Quân đội nhà Tần thất bại, một chư hầu của nhà Tần là Triệu Đà, nhân khi
Tần bị suy yếu đã chống lại “Thượng quốc”, lập ra một nước riêng biệt, rồi động
binh và dùng mưu gian chiếm được Âu Lạc. Từ đấy trải qua các triều đại Hán, Tần,
Tùy, Đường tức là từ cuối thế kỷ III trước công nguyên đến thế kỷ X sau công
nguyên, các tập đoàn phong kiến Trung Hoa kế tiếp nhau đô hộ Âu Lạc. Trong hơn
10 thế kỷ này đại đế quốc phong kiến Trung Hoa nhiều phen biến Âu Lạc thành một
châu gồm các quận huyện của Trung Hoa. Nhưng trong 10 thế kỷ ấy, nước Âu Lạc
vẫn giữ được sức sống của mình, liên tiếp nổi dậy giành lại độc lập, có khi một vài
thàng, có khi vài ba năm, có khi trên 50 năm. Nước Âu Lạc tuy bị thôn tính nhưng
lại được khôi phục vào thời Hai Bà Trưng, được củng cố thêm dưới thời Lý Bôn với

7


tên nước là Vạn Xuân và đến 938, sau trận Bạch Đằng là một nước Đại Việt có chủ
quyền, vĩnh viễn độc lập đối với Trung Hoa.
Không dừng lại ở đó nhà Tống Trung Hoa tiếp tục đưa quân sang xâm chiếm
Đại Việt. Trước âm mưu đó của quân Tống, ta đã tiến hành chống giặc Tống năm
931, quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh bại quân đội Đại Tống. Sau cuộc chiến này,
năm 986, hoàng đế Đại Tống chấp nhận nhà Tiền Lê và ban chế phong cho Lê Đại
Hành.
Năm 1022, quân dân nhà Tống thuộc Khâm Châu và Như Hồng đến quấy
phá vùng đất Quảng Yên. Vua Lý “xuống chiếu cho Duệ Thánh Vương đem quân đi
đánh bộ lạc Đại Nguyên Lịch, quân ta đi sâu vào trại Như Hồng đất Tống, đốt kho
vựa rồi về” [45, tr.270].
Trước âm mưu xâm lược của nhà Tống, triều đình nhà Lý đã chủ động mang
quân tấn công giặc với chủ trương “tiên phát chế nhân”. Năm 1075, Lý Thường
Kiệt đã mang quân vượt biên giới tấn công vào Châu Ung, Châu Khiêm, Châu

Liêm, đốt phá kho binh lương mà quân Tống chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm
lược Đại Việt. Với thắng lợi này, nhà Lý đã bước đầu làm suy yếu lực lượng và
giáng một đòn mạnh vào âm mưu xâm lược nước ta của nhà Tống, đồng thời là
bước đệm quan trọng cho chiến thắng vang dội trên sông Như Nguyệt năm 1077.
Thời nhà Trần, quân Mông – Nguyên đã ba lần sang xâm lược Đại Việt.
Trước sự tấn công của quân Nguyên, vua quan nhà Trần đã đoàn kết một lòng, ba
lần đánh thắng quân xâm lược, lập nên những chiến công vang dội vào các năm
1258, 1285, 1287 – 1288. Những chiến thắng đó là thành quả của cuộc đấu tranh
bền bỉ trên mặt trận ngoại giao của vua quan nhà Trần. Thắng lợi trước kẻ thù hùng
mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ đã giúp Việt Nam giữ vững nền độc lập, tự chủ dân
tộc. Đất nước bước vào thời kỳ độc lập xây dựng và phát triển.
Khi nhà Hồ lên thay nhà Trần, nhà Minh ở Trung Hoa đã cử quân sang xâm
lược nước ta. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ chống giặc Minh thất bại, Đại Việt bị
đô hộ trong hai mươi năm (1407 – 1427), đến khi Lê Lợi đánh đuổi được chính
quyền đô hộ nhà Minh, khôi phục nền độc lập tự chủ của dân tộc, lập nên một triều

8


đại mới: nhà Hậu Lê. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo
với tư tưởng “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, đem chí nhân mà thay cường bạo”
không chỉ lôi cuốn được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, mà còn đẩy quân Minh
vào thế bị động. Các thắng lợi lẫy lừng ở Chi Lăng – Xương Giang đã đánh tan 10
vạn viện binh của quân giặc. Sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, tại hội thề Đông
Quan, Lê Lợi bảo đảm tha cho quân địch được toàn tính mạng về nước và đối với
triều Minh sẽ có biểu cầu phong. Hơn thế nữa, Lê Lợi còn cấp cho 500 chiến
thuyền, mấy nghìn con ngựa cùng với đầy đủ lương thực và sai sửa sang cầu cống,
đường sá để cho chúng rút về nước.
Triều Quang Trung tiếp theo thực hiện cuộc kháng chiến chống quân Thanh
thành công vào mùa xuân Kỷ Dậu (1789), giáng một đòn nặng nề vào âm mưu xâm

lược của nhà nước phong kiến Trung Hoa. Nền hòa bình độc lập lại, đất nước được
thống nhất, Quang Trung đã bắt tay vào xây dựng đất nước về mọi mặt.
Đối với các triều đại phong kiến phương Bắc, ý đồ xâm lược, dựng lại ách đô
hộ lên đất nước ta vẫn được các vua Tống, Nguyên , Minh, Thanh thực hiện mối khi
có tiềm lực mạnh mẽ, thời cơ thuận lợi. Điển hình là các cuộc xâm lược của nhà
Tống thời Lý, giặc Nguyên thời Trần, giặc Minh thời Hồ, giặc Thanh thời Tây Sơn.
Những âm mưu này đều bị các triều đại phong kiến Việt Nam đánh bại bằng những
chiến thắng quân sự vẻ vang ở những điểm sông như sông Như Nguyệt, sông Bạch
Đằng, cửa Hàm Tử, Chương Dương, Đông Bộ Đầu, Vạn Kiếp,... giành lại độc lập
cho dân tộc.
1.2.QUAN HỆ BANG GIAO CHÍNH TRỊ
Lịch sử bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa vốn hình thành từ rất sớm.
Sách “Trung Hoa Cương mục tiền biên” chép rằng: vua Hùng đã cử một sứ bộ
ngoại giao đầu tiên đến chầu vua Nghiêu năm 2353 trước Công nguyên để dâng rùa
và phải qua hai lần biên dịch mới tới được Trung Hoa. Đại Việt sử ký toàn thư cũng
chép năm 1110 trước Công nguyên, năm thứ 6 đời vua Thành Vương nhà Chu, vua
Hùng từng của sứ giả sang giao hảo với Trung Quốc và cống chim trĩ trắng; vua nhà
Chu cho sứ giả năm cỗ xe có kim chỉ nam để trở về. Tuy nhiên, chỉ đến khi Ngô

9


Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giành được độc lập (938), mở
ra thời kỳ độc lập tự chủ cho dân tộc ta, Trung Hoa mới chú trọng đến vấn đề bang
giao với ta với tư cách và vị thế của một nước. Có nghĩa là, phải thực sự đến lúc này
bang giao mới có tính chất hai chiều và ngoại giao với Việt Nam, Trung Hoa mới
phải đầu tư thích đáng. Quá trình bang giao giữa các vương triều phong kiến Việt
Nam và Trung Hoa không phải là một mối quan hệ bình đẳng, mà là mối quan hệ
bất đối xứng, giữa nước lớn Trung Hoa và nước nhỏ Việt Nam. Do đó, ở kế một
nước lớn như Trung Hoa, Việt Nam luôn phải có những ứng xử khôn khéo, phù hợp

để tồn tại và phát triển. Một trong những con đường hiệu quả nhất là phát huy tối đa
bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc trongứng xử ngoại giao với Trung Hoa, trước
hết là quan hệ mềm dẻo, linh hoạt, chịulàm nước nhỏ, nhận “sách phong” và chịu
“triều cống”.
Nói về vấn đề sách phong giữa các triều đại phong kiến Việt Nam với Trung
Hoa nhưng thực tế hoạt động cầu phong ấy chỉ thực sự bắt đầu thực hiện từ thế kỷ
X, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền (938), khi Việt Nam đã thoát ra khỏi
ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa, giành lại được nền độc lập hoàn toàn. Và phải
đến thời nhà Đinh, với sự chủ động thiết lập quan hệ ngoại giao của Đinh Tiên
Hoàng với nhà Tống ở Trung Hoa, thì quan hệ “sách phong, triều cống” giữa hai
nước mới đi vào thực chất. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chỉ khi nào bị thất
bại về mặt quân sự, phải trao trả chủ quyền đất nước cho Việt Nam, hoặc tình hình
trong nước đang rối ren thì Trung Hoa mới chịu phong vương cho nước ta. Chính
Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng đã chỉ rõ đặc điểm này:
"Nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc, nhưng danh
hiệu còn nhỏ, không được dự vào hàng chư hầu triều hội của nhà Minh đường. Rồi
bị Triệu Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt Vương, chỉ được sánh với
chư hầu của Trung Quốc, chứ chưa từng được nêu là một nước. Đến sau nội thuộc
vào nhà Hán nhà Đường, bèn thành quận huyện. Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình
định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ sách phong của Trung
Quốc mới nhận cho đứng riêng là một nước" [9, tr.136].

10


Dưới đây là bảng thống kê việc các vua nước ta cử sứ giả sang Trung Hoa
cầu phong và việc Trung Hoa ban sắc phong cho ta từ triều Ngô (bắt đầu từ Ngô
Xương Ngập) đến trước thế kỷ XVI.
Bảng 1.1: Thống kê việc Đại Việt sang Trung Hoa cầu phong
và việcTrung Hoa ban sắc phong cho ta từ triều Ngô đến trước thế kỷ XVI

Triều đại
1. Triều Ngô

Nước ta sang Trung

Sắc phong của hoàng đế

Hoacầu phong

Trung Quốc ban cho vua Đại Việt

- Ngô Quyền chưa sang
xin phong vương.
- 954: Ngô Xương Ngập - Phong làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ.
sai sứ sang vua Nam Hán
là Lưu Xưởng xin phong
vương.

2.Triều Đinh

- 972: Đinh Tiên Hoàng - Phong Đinh Tiên Hoàng làm Giao
sai con là Đinh Liễn sang chỉ quận vương.
Tống xin phong vương.

- Phong Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái
sư tĩnh hải quân tiết độ sứ An nam đô
hộ.
- 975: Phong Đinh Tiên Hoàng làm
Nam Việt Vương và Đinh Liễn làm
Giao chỉ quận vương.


3. Triều Lê

- 980: Lê Đại Hành sai 2 - Vua Tống không cho.
sứ thần là Giang Cự
Vọng và Vương Thiệu
Tộ sang xin vua Tống
phong Vương.
- 985: Vua sai sứ sang - Vua Tống phong Lê Đại Hành chức
Tống xin lĩnh chức Tiết Tiết trấn.
trấn.

- 986: Vua Tống sai sứ sang phong

11


cho Lê Đại Hành chức Kiểm hiệu thái
bảo sử trì tiết đô đốc Giao Châu chư
quân sự, An Nam đô hộ, Tĩnh hải
quân tiết độ sứ, Giao châu quản nội
quan sát xử trí đằng sứ, kinh triệu
quận hầu.
- 988: Vua Tống phong cho làm Kiểm
hiệu thái uý.
- 993: Phong làm Giao chỉ quân
vương.
- 997: Phong làm Nam Bình vương
kiêm thị trung.
4. Triều Lý


- 1010: Phong Lý Thái Tổ chức Kiểm
hiệu thái phó, Tỉnh hải tiết độ sứ quan
sát sứ, xử trí sứ, An Nam đô hộ, Ngư
sử đại phu, Thượng trụ quốc giao chỉ
quận vương.
Sau thêm Đồng binh chương sự.
- 1012: Phong thêm: Khai phủ nghị
đồng tam ti.
- 1014: Phong thêm Bảo Tiết Thủ
Chính công thần.
- 1018: Phong thêm: Kiểm hiệu thái
uý.
- 1022: Phong thêm Kiểm hiệu Thái
sư.
- 1028: Phong thêm Thị Trung Nam
Việt vương.
- 1028: Phong cho vua Lý Thái Tông

12


làm An Nam đô hộ giao chỉ quận
vương.
- 1032: Phong thêm: Đồng Trung Thư
môn hạ bình chương sự.
- 1034: Phong thêm Kiểm hiệu thái
sư.
- 1038: Phong vua làm Nam Bình
Vương.

- 1055: phong Tăng Thị Trung Nam
Việt Vương.
- 1055: Vua Lý Thánh - 1055: Sách phong vua Lý Thánh
Tông sai sứ sang Tống Tông làm Kiểm hiệu thái uý tĩnh hải
cáo tang.

quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ giao
chỉ quận vương.
- 1064: Phong thêm: Đồng trung thư
môn hạ bình chương sự.
- 1068: tiến Nam Bình Vương.
- 1074: phong vua Lý Nhân Tông làm
Giao chỉ Quận vương.
- 1086: phong vua làm Nam Bình
Vương.
- 1130: Phong vua Lý Thần Tông làm
Giao chỉ quận vương.

- 1138: Vua Lý Anh - 1138: Phong vua Lý Anh Tông làm
Tông sai sứ sang Tống Giao chỉ quân vương.
cáo tang Thần Tông.

- 1175: Đặc cách phong vua làm An
Nam Quốc Vương.
- 1177: Phong vua Lý Cao Tông làm
An Nam Quốc Vương.

13



5.Triều Trần

- 1229: Vua Trần Thái - 1229: Phong vua Trần Thái Tông
Tông sai sứ sang thăm làm An Nam quốc vương.
nước Tống.
- 1261: Vua Trần Thánh - 1261: Vua Mông Cổ phong vua Trần
Tông sai sứ sang thăm Thánh Tông làm An Nam Vương.
nước Mông Cổ.

- 1262: Nhà Tống phong vua làm An
Nam Quốc vương, gia phong thượng
hoàng làm An Nam đại vương.

- 1290: Thượng hoàng - Nhà Nguyên không cho sứ sang
(Thánh Tông) băng, sai phong.
Đình Giới sang báo tang
và xin phong.

- 1368: Vua Minh Thái Tổ phong cho

- 1368: Vua Trần Dụ vua Trần Dụ Tông làm An Nam Quốc
Tông sai sứ sang thăm Vương.
nhà Minh.
6. Triều Hồ

- 1403: Hồ Hán Thương - 1403: Nhà Minh phong Hồ Hán
sai sứ sang Minh xin cầu Thương làm An Nam Quốc Vương.
phong.

7.Triều Lê sơ


- 1427: Vua Lê Thái Tổ - 1427: Nhà Minh Phong Trần Cảo
sai người dâng biển cầu làm An Nam Quốc Vương.
phong cho Trần Cảo.
- 1429: Vua Lê Thái Tổ
sai sứ sang xin sách - 1431: phong vua Lê Thái Tổ quyền
phong.

thự An Nam Quốc sử.

-1434: Vua Lê Thái Tông - 1435: Quốc vương đem sắc cho vua
sai sứ sang báo tang Thái Lê Thái Tông quyền coi việc nước.
Tổ và cầu phong.
- 1442: Vua Lê Nhân

14


Tông sai sứ sang báo
tang Thái Tông và cầu -1462:Phong vua Lê Thánh Tông làm
phong.

An Nam quốc vương.

- 1460: Vua Lê Thánh - 1499: Phong vua Lê Hiến Tông làm
Tông sai sứ sang cầu An Nam quốc vương.
phong.
- 1497: Vua Lê Hiến
Tông sai sứ sang báo - 1506: Phong vua Lê Dục Tông làm
tang Thánh Tông và cầu An Nam Quốc Vương.

phong.

- 1513: Phong vua Lê Tương Dực làm

- 1504: Vua Lê Dục Tông An Nam Quốc Vương.
sai sứ sang báo tang Hiến
Tông và cầu phong.
- 1510: Vua Lê Tương
Dực sai sứ sang cầu
phong.

Nguồn: Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, “Vấn đề “sách phong” trong quan hệ bang
giao giữa các triều đại phong kiến Việt Nam với Trung Quốc”, Khoa Việt Nam học,
Đại học Sư Phạm Hà Nội ( />Qua bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy: việc xin phong vương của các
triều đại phong kiến nước ta bắt đầu từ khi nước ta giành lại được độc lập chủ
quyền từ thế kỷ X dưới thời Ngô. Việc xin phong vương theo quy định là một việc
đặc biệt hệ trọng trong quan hệ ngoại giao giữa nước ta với Trung Quốc mà hầu như
không một triều đại nào ở nước ta bỏ qua.
Cùng với việc cầu phong các triều đại phong kiến Việt Nam còn thực hiện
triều cống “Thiên triều” Trung Hoa bằng các sản vật quý. Ví như dưới thời nhà
Đinh sự cống hiến bắt đầu từ năm 972 và sứ bộ do Đinh Liễn – con trưởng Đinh

15


Tiên Hoàng đứng đầu. Sau đó, nhà Tiền Lê, nhà Lý cũng thường phái sứ sang Bắc
triều. Cống phẩm bấy giờ là vàng bạc, châu báu, tê giác, ngà voi, bạch phấn y
hương, giáng chân hương, trầm hương – tốc hương, mộc hương, hắc tuyến hương,
chỉ phiến, tử giáng hương, hạt cau, sa nhân, chu sa, tô hợp dầu...
Nhà Trần tiếp tục thực hiện triều cống trong ngoại giao. Năm 1258, bước vào

thời kỳ ngoại giao sau cuộc chiến tranh lần thứ nhất, nhà Nguyên đòi Việt Nam phải
tiến cống hàng năm và tăng thêm vật cống. Nhà Trần sai sứ sang nhà Nguyên bàn
định lại và cuối cùng nhà Nguyên chấp nhận cho Đại Việt 3 năm sang tiến cống một
lần. Sứ nhà Nguyên là Từ Minh Thiện sang Đại Việt năm 1289 đã chép khá rõ đồ
cống của nước ta cho vua nhà Nguyên như sau: “Có 1 tấm gấm, 2 tấm đoạn, 20 tấm
lụa sợi nhỏ năm màu. Một tấm chiếu gấm dệt màu, 50 tấm lụa nhỏ năm màu và 100
tấm lãnh năm màu, 1 hòm đựng biểu gỗ sơn đỏ mạ vàng bạc cả khóa, 1 bộ yên cả
bành ngồi nạm vàng, phần nạm vàng nặng 10 lạng, 7 chiếc đạc đồng mạ vàng, 1
cái ghế bằng sừng linh dương, 1 mâm bằng đá hoa nạm bạc mạ vàng, 2 bình lưu ly
có nắp bằng vàng, 1 đôi cọc đèn bằng vàng nặng 14 lạng, 1 mâm bằng sừng tê nạm
bạc mạ vàng, 1 chén bằng trầm hương nạm vàng có cả nắp và đế, 1 cái đĩa lá sen
vàng, nắp và đế nặng 3 lạng 7 tiền, đĩa lá sen vàng nặng 5 lạng, 1 đĩa hình quả dưa
bằng vàng nặng 6 lạng 8 tiền, 1 quả bầu bằng vàng nặng 10 lạng, 1 đĩa bằng sừng
tê cả đế nạm vàng nặng 4 lạng, 1 chén bằng sừng tê nạm vàng nặng 5 tiền, 1 đĩa
vàng nặng 4 lạng 3 tiền, 1 bộ thìa và đũa bằng vàng nặng 6 lạng, thìa vàng nặng 4
lạng, đũa vàng 1 lạng 3 tiền, 1 cái nỉa xóc thịt bằng vàng, 4 tua rũ bằng vàng tốt
(chân kim), 1 bàn cờ bằng gỗ có vân và xương voi có nạm bạc mạ vàng, dây vàng 3
lạng, 1 tráp bạc mạ vàng nặng 10 lạng 8 tiền, 5 cái sừng tê màu đen lớn với 5 cái
đế bằng gỗ vẽ, 5 cái chiêng vàng nặng tất cả 100 lạng, 10 cái chiêng bạc nặng tất
cả 79 lạng” [75, tr.288]. Trong cống phẩm còn có các sản vật, chim thú quý của
nước ta như: đàn hương, thảo quả, ngà voi, chim trả, chim trĩ, chim ưng, sáo, chồn,
cá sấu,...
Nối tiếp theo các triều đại trước, nhà Lê khi lên nắm quyền đã thiết lập mối
quan hệ ngoại giao thân thiện với Trung Hoa. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”,

16


“Lịch triều hiến chương loại chí”,... các vật phẩm triều cống trong quan hệ ngoại
giao của Đại Việt với Trung Hoa thời này chủ yếu là vàng, bạc, ngà voi, sừng tê,

quạt, lụa và đặc sản hương liệu như trầm hương, hương xông áo, hương nén...
Trong đó vàng bạc là quan trọng nhất, không thể thiếu trong danh mục cống vật.
Về phía Trung Hoa, mỗi lần thu nhận triều cống đều có đồ tặng đáp lại cho
quốc vương Đại Việt và các thành viên trong sứ bộ. Tặng phẩm của Trung Hoa
thường là gấm, sa, là, tơ,... là các loại vải vóc quý, sang trọng dành cho vua quan.
Trong một thế kỷ của nhà Hậu Lê, từ khi thành lập (1428) đến khi nhà Mạc chiếm
quyền (1527), việc triều cống được thực hiện đều đặn ba năm một lần. Sách “Lịch
triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú biên niên những lần Đại Việt sang
triều cống Trung Hoa. Dưới đây là bảng thống kê danh sách sứ bộ Đại Việt đi sứ
sang Trung Hoa thời Lê.
Bảng 1.2: Danh sách sứ bộ Đại Việt đi sứ sang Trung Hoa thời Lê
Năm cử đi sứ

Thành phần đoàn sứ

Nội dung đi sứ Trung Hoa

Đại Việt
1427

- Lê Thiếu Đĩnh

- Đem biểu văn

- Lê Cảnh Quang

- Biếu sản vật: 1 người vàng thay mình,

- Lê Đức Huy


1 lư hương bạc, 1 đôi bình hoa bạc, 300
tấm lụa thổ sản, 14 đôi ngà voi, 20 lọ
hương hung áo, 2 vạn nén tuyến hương,
24 khối tốc hương.

1429

- Đào Công Soạn

Nộp lễ cống: Các đồ vàng bạc

- Lê Đức Huy
- Phạm Khắc Phục
1431

- Nguyễn Văn Huyến

- Tạ ơn được phong

- Nguyễn Tông Chí

- Phân giải việc cống vàng hàng năm 5
vạn lạng, xin theo lệ 3 năm cống 1 lần
như đời Hồng Vũ.

1433

- Trần Thuấn Du

Nộp lễ cống


17


- Nguyễn Khả Chi
- Bùi Cẩm Hổ
1434

- Nguyễn Phú

Nộp lễ cống: vàng

- Phạm Thời Trung
1438

- Nguyễn Đình Lịch

Nộp lễ cống

- Trình Hiển
- Nguyễn Thiên Tích
1441

- Nguyễn Nhật

Nộp lễ cống

- Nguyễn Hữu Quang
- Đào Mạnh Hồng
1442


- Đỗ Thời Việp

- Sang tạ ơn
-Vua Minh ban cho mũ áo: 1 chiếc mũ
da, 1 cặp áo triều phục, 1 chiếc áo
thường phục.

1444

- Đào Công Soạn

Nộp lễ cống

- Lê Quát
1447

-Hà Phủ

Nộp lễ cống

1453

- Nguyên Lịch

Nộp lễ cống

- Nguyễn Đán
- Trần Doãn Huy
1462


-Hoàng Văn Thăng

Nộp lễ cống

1471

- Bùi Viết Lương

Nộp lễ cống

- Nguyễn Đức Trinh
- Phạm Mục và Lê
Nhân
1474

- Lê Hoàng Dục

Nộp lễ cống

- Nguyễn Đôn Phục
- Ngô Lôi
1477

- Trần Trung Lập

Nộp lễ cống

18



- Lê Ngạn Trấn
- Phan Quý
1480

- Nguyễn Văn Chất

Nộp lễ cống

- Doãn Thành Tuấn
- Vũ Quý Giáo
1483

- Lê Đức Khánh

Nộp lễ cống

- Nguyễn Trung
- Đỗ Cận
1486

- Lê Năng Nhượng

Nộp lễ cống

- Phạm Phúc Chiêu
- Quách Liễn
1489

- Nguyễn Doãn Cung


Nộp lễ cống

- Bùi Xương Trạch
- Nguyễn Khê Đình
1492

- Lê Du

Nộp lễ cống

- Bùi Sùng Đạo
- Nguyễn Ngạn Sung
- Trịnh Quỳ
1501

- Nguyễn Úc

Nộp lễ cống

- Đinh Cương
- Đặng Minh Khiêm
1504

- Đặng Tán

Nộp lễ cống

- Khuất Quỳnh Cửu
- Lưu Quang Phụ

1513

- Nguyễn Trọng Quỳ

Nộp lễ cống

- Hứa Tam Tỉnh
- Nguyễn Quý Nhã

19


Như vậy, có thể thấy vấn đề “sách phong” và “triều cống” là cơ sở chủ yếu
để xây dựng lên quan hệ ngoại giao giữa các vương triều phong kiến Việt Nam và
Trung Quốc. Chúng ta có thể xem đây là “một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm
trên thế giới chỉ thấy có trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng
mà Việt Nam thường được xem là một thí dụ điển hình, với tất cả tính chất phức
tạp, nhiều mặt của nó” [48, tr.49]. Có thể thấy việc xin phong vương và triều cống
với những nghi lễ long trọng và phức tạp là cả một sự “nhún nhường” của các vua
nước ta với mục đích nhận được sắc phong của hoàng đế Trung Hoa. Mặt khác,
chính sự “nhún nhường”, mềm dẻo này cũng toát lên được tầm quan trọng của việc
triều cống và xin phong vương từ hoàng đế Trung Hoa của các vua nước ta như thế
nào? Một mặt nhằm giữ quan hệ hòa hiếu giữa hai nước, mặt khác đảm bảo tính
chính thống, hợp thức hóa sự lên nắm quyền của mình, phục vụ cho quyền lợi giai
cấp dòng họ về lâu dài. Đó là phương cách giả danh “thần phục”, nhún nhường với
Trung Hoa mà triều đại nào ở Việt Nam cũng áp dụng trong ứng xử với Trung Hoa.
1.3. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
Sau khi hòa bình được lập lại, bề ngoài các triều đại phong kiến Việt Nam
vẫn giữ quan hệ hòa hiếu, thần phục và chịu cống nạp cho các triều đại phong kiến
Trung Hoa với mong muốn giữ mối quan hệ hòa bình, thân thiện giữa hai nước,

nhưng cũng rất cương quyết trước những hành động xâm chiếm đất đai, quấy phá
biên giới của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Trên cơ sở mối quan hệ ngoại
giao thân thiện này, mối quan hệ kinh tế giữa hai nước Đại Việt – Trung Hoa cũng
được duy trì trong suốt thời gian dài.
Các vua nhà Lý rất chú ý đến việc mở rộng quan hệ buôn bán với Trung Hoa
để tạo điều kiện phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa của nhân dân.
Saukhi lên ngôi được hai năm, từ Thăng Long, tháng 6 năm 1012, vua Lý Thái Tổ
sai sứ sang Trung Hoa đề nghị cho mở thị trường buôn bán ở Ung Châu (Nam Ninh
ngày nay). Nhưng vua Tống là Tống Chân Tông cho rằng triều Lý thường xâm lấn
biên cương phía Nam nên không chấp thuận đề nghị đó.

20


Thời này, một số bạc dịch trường và tuyến buôn bán được hình thành ở biên
giới đất liền Đại Việt – Trung Hoa. Có hai bạc dịch trường lớn, một ở trại Hoành
Sơn và một ở trại Vĩnh Bình. Trại Hoành Sơn là nơi mua ngựa và các lâm sản,
thuốc chữa bệnh của các dân tộc thiểu số. Trại Vĩnh Bình (tức chợ Kỳ Lừa ngày
nay) là bạc dịch trường quan trọng trong mậu dịch hàng hóa với Việt Nam.
Bạc dịch trường lớn nhất trên đất trung Hoa là bạc dịch trường ở Khâm
Châu. Tại đây thuế chỉ đánh vào hàng Trung Hoa, cứ mỗi quan thu 30 đồng. Hàng
xuất khẩu của Đại Việt thường là lâm thổ sản và hàng nhập là các sản phẩm như
giấy, bút, tơ, vải, gấm vóc.
Cùng với các tuyến buôn bán trên đất liền, năm 1149, vua Lý Anh Tông còn
cho lập cảng biển Vân Đồn để khẳng định chủ quyền, thiết lập phên dậu vùng Đông
Bắc, đồng thời thiết lập quan hệ giao thương với các quốc gia trong khu vực. Vân
Đồn nhanh chóng trở thành nơi cho thuyền buôn Trung Hoa qua lại buôn bán.
Ngoài cảng biển Vân Đồn, còn có các cửa biển Tha, Viên ở Châu Diễn, thuyền
buôn Trung Hoa cũng thường đến neo đậu.
Cảng biển Vân Đồn đã diễn ra hoạt động buôn bán sầm uất từ thời Lý, đến

thời Trần cũng tiếp tục phát triển mạnh. Hải cảng Vân Đồn trở thành trung tâm
buôn bán thịnh vượng. Tuy nhiên, đến thế kỷ XIV, do tình hình biến động về chính
trị cuối thời Trần, để bảo vệ an ninh quốc gia, Vân Đồn được nhà nước kiểm soát
chặt chẽ hơn. Sở dĩ có sự kiểm soát ngoại thương chặt chẽ như vậy vì Vân Đồn có
vị trí xung yếu nằm trên con đường hải vận Trung Hoa – Việt Nam. Ở thời Trần,
Vân Đồn còn là căn cứ hải quân quan trọng.
Không chỉ tụ tập buôn bán ở cảng biển, thuyền buôn của Trung Hoa còn cập
bến sông ở phường Yên Hoa (Thăng Long). Trong mối quan hệ kinh tế của Đại Việt
với Trung Hoa dưới thời Trần còn phải nói đến sự đóng góp của một nhóm người
Tống lánh nạn sang sinh sống ở nước ta. Họ làm nghề buôn bán là chủ yếu, trong đó
nghề buôn thuốc bắc sau này nhân dân Việt Nam cũng học hỏi và đi buôn bán rất
nhiều.

21


×