Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân bón tới sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống lúa TH3-3 và giống P6 tại Gia Lâm - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.38 KB, 90 trang )

PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza Sativa L) là một trong những cây trồng cung cấp nguồn
lương thực quan trọng nhất của loài người, với 40% dân số thế giới sử dụng
lúa gạo làm thức ăn chính và có ảnh hưởng đến đời sống của ít nhất 65% dân số
thế giới.
Ở Việt Nam, việc áp dụng thành tựu về lúa lai đã có kết quả to lớn. Năng
suất lúa lai so với lúa thường tăng từ 20% trở lên và diện tích lúa lai ngày
càng tăng. Trước đây 10 năm, Việt Nam đã xuất khẩu được một lượng lúa gạo
lớn đứng thứ hai trên thế giới (FAO, 2006). Sản xuất lúa lai hiện nay ở Việt
Nam đã có nhiều công nghệ và giống mới được tạo ra.
Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc trồng lúa nhằm tăng thu
nhập cho những nông dân trồng lúa và bảo vệ môi trường, tiến tới xây dựng
nền nông nghiệp bền vững. Bộ NN và PTNT đã quyết định thành lập và xây
dựng chương trình “ba giảm ba tăng” áp dụng cho canh tác lúa.
Trong thời gian gần đây cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế,
ngành nông nghiệp nước ta đã tăng nhanh về năng suất và sản lượng lúa là
nhờ có sự đóng góp của công nghệ ưu thế lai và phân bón, trong đó mức phân
bón có vai trò quyết định lớn đến năng suất và hiệu quả kinh tế của ruộng lúa.
Vì vậy việc xác định ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến chỉ số diện tích
lá và trọng lượng tích lũy chất khô của lúa lai và lúa thuần ở từng giai đoạn
sinh trưởng khác nhau và mối quan hệ của chúng đối với năng suất hạt ở các
mùa vụ là việc làm hết sức cần thiết nhằm đạt năng suất và hiệu quả kinh tế
cao. Chính vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh
hưởng của liều lượng phân bón tới sinh trưởng, phát triển và năng suất
của giống lúa TH3-3 và giống P6 tại Gia Lâm - Hà Nội.”

1



1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến các chỉ tiêu sinh
trưởng để từ đó tìm ra yếu tố nào là quyết định đến năng suất hạt của giống
lúa TH3-3, P6.
- Xác định ảnh hưởng của liều lượng phân bón khác nhau đến các yếu
tố cấu thành năng suất.
- Xác định được liều lượng phân bón thích hợp với giống TH3-3, P6
trên vùng đất đồng bằng sông Hồng - Gia Lâm - Hà Nội nhằm đạt được năng
suất cao nhất
1.3. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Cơ sở khoa học
Mặc dù các nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề như: Chọn tạo
giống, tính thích ứng, sâu bệnh, phân bón và nhiều nghiên cứu khác liên quan
đến lúa. Nhiều giống lúa mới của Việt Nam đã khẳng định vị trí của mình
trong sản xuất và được người nông dân đánh giá cao. Tuy nhiên về ảnh hưởng
của dinh dưỡng cho lúa, các nghiên cứu chưa đề cập đến nhiều về liều lượng,
tỷ lệ và kỹ thuật sử dụng phân bón đa lượng cho từng vùng, từng chất đất và
từng giống cụ thể. Việc bón phân không cân đối, kỹ thuật bón chưa hợp lý
hạn chế năng suất, không phát huy hết tiềm năng của giống. Do vậy đề tài này
sẽ đóng góp thêm vào kết quả nghiên cứu về vai trò của các nguyên tố đa lượng
và biện pháp kỹ thuật sử dụng phân bón hợp lý cho lúa. Đảm bảo tính bền vững
trong sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng và cũng là cơ sở cho
địa phương chỉ đạo và định hướng cho sản xuất của vùng.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn
Xác định được liều lượng, tỷ lệ N, P, K hợp lý cho việc thâm canh sản
xuất lúa nhằm: Tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng trên đơn vị diện tích
canh tác. Tăng thu nhập và đồng thời góp phần ổn định độ phì nhiêu của đất.
Đảm bảo cho việc sản xuất được bền vững trên đất trồng lúa vùng đồng bằng
sông Hồng.


2


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.1 Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới, dễ trồng, cho năng suất cao. Hiện nay
trên thế giới có khoảng trên 100 nước trồng lúa. Vùng trồng lúa tương đối
rộng: có thể trồng ở các vùng có vĩ độ cao như Hắc Long Giang (Trung Quốc)
530B; Tiệp 490B, Nhật, Italia, Nga (Krasnodar) 450B đến nam bán cầu, New
South Wales (úc): 350N. Vùng phân bố chủ yếu ở châu á từ 300B đến 100N.
Sản xuất lúa gạo trong những thập kỷ gần đây đã có mức tăng đáng kể,
nhưng do dân số tăng nhanh, nhất là ở các nước đang phát triển (Châu Á,
Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh) nên vấn đề lương thực vẫn là yêu cầu cấp bách
phải quan tâm trong những năm trước mắt và lâu dài.
Theo thống kê của Viện Nghiên cứu lúa quốc tế, cho đến nay lúa vẫn là
cây lương thực được con người sản xuất và tiêu thụ nhiều nhất. Chính vì vậy,
tổng sản lượng lúa trong vòng 30 năm qua đã tăng lên gấp hơn 2 lần: từ 257
triệu tấn năm 1965 lên tới 535 triệu tấn năm 1994. Cùng với nó, diện tích
trồng lúa cũng tăng lên đáng kể, năm 1970 diện tích trồng lúa toàn thế giới là
134.390 triệu ha, đến năm 1994 con số này đã lên tới 146.452 triệu ha. Trong
đó, các nước Châu Á vẫn giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất và tiêu thụ lúa
gạo…[58], [68].
2.1.2 Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, Việt Nam có thể coi là cái nôi hình
thành cây lúa nước. Đã từ lâu, cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, có
ý nghĩa đáng kể trong nền kinh tế và xã hội nước ta. Với địa bàn trải dài trên
15 vĩ độ Bắc bán cầu, từ Bắc vào Nam đã hình thành những đồng bằng châu
thổ trồng lúa phì nhiêu.


3


Việt Nam là một nước nông nghiệp, có tới 75% dân số sản xuất nông
nghiệp và từ lâu cây lúa đã ăn sâu vào tiềm thức người dân, nó có vai trò rất
quan trọng trong đời sống con người. Lúa gạo không chỉ giữ vai trò trong việc
cung cấp lương thực nuôi sống mọi người mà còn là mặt hàng xuất khẩu đóng
góp không nhỏ vào nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, do có điều kiện tự nhiên
thuận lợi phù hợp cho cây lúa phát triển nên lúa được trồng ở khắp mọi miền
của đất nước. Trong quá trình sản xuất lúa đã hình thành nên 2 vùng sản xuất
rộng lớn đó là vùng Đồng bằng châu thổ Sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu
Long [33], [44].
Trước năm 1945, diện tích đất trồng lúa của nước ta là 4,5 triệu ha,
năng suất trung bình đạt 1,3 tấn/ha, sản lượng 5,4 triệu tấn. Hiện nay, với
những tiến bộ kỹ thuật vượt bậc trong nông nghiệp, người dân đã được tiếp
cận với những phương thức sản xuất tiên tiến nên họ đã dám mạnh dạn áp
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, dùng các giống lúa mới, các giống lúa
ưu thế lai, các giống lúa cao sản, các giống lúa thích nghi với điều kiện đặc
biệt của từng vùng, các giống lúa chất lượng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu…, kết
hợp đầu tư thâm canh cao, hợp lý. Nhờ vậy, ngành trồng lúa nước ta đã có
bước nhảy vọt về năng suất, sản lượng và giá trị kinh tế. Năm 1996, nước ta
xuất khẩu được 3,2 triệu tấn lương thực, năm 1999, nước ta vươn lên đứng
hàng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Năm 2002, tổng sản lượng lương
thực đạt 36,4 trệu tấn, trong đó lúa chiếm 70%. Tuy nhiên, con số này bị
trững lại vào năm 2003 giảm xuống còn 34,5 triệu tấn. Điều này đang đặt ra
những yêu cầu mới trong nông nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, xu hướng
đô thị hoá, công nghiệp hoá đang diễn ra mạnh, dân số liên tục tăng làm diện
tích đất nông nghiệp nói chung và diện tích đất trồng lúa nói riêng ngày càng
bị thu hẹp. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra ở đây là cần phải nâng cao hơn nữa

năng suất và chất lượng lúa, nhằm đáp ứng được nhu cầu lương thực cho
người dân và cho xuất khẩu [44] .

4


2.2 Tình hình sản xuất lúa lai trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1 Tình hình sản xuất lúa lai trên thế giới
Hiện tượng ưu thế lai ở lúa được nghiên cứu từ nửa đầu thế kỷ 19 do
Jones J.W (1926) là người đầu tiên đã công bố về ưu thế lai ở lúa trên các tính
trạng năng suất và một số tính trạng số lượng. Từ đó đến nay, đã có nhiều nhà
khoa học khác tập trung nghiên cứu đặc điểm này ở lúa. Các công trình
nghiên cứu tập trung vào các vấn đề như: bản chất di truyền sự biểu hiện ưu
thế lai và các phương pháp khai thác ưu thế lai.
Các nhà khoa học Ấn Độ, Nhật Bản là những người đầu tiên đề xuất
mở rộng sản xuất lúa lai thương phẩm. Tại Viện lúa quốc tế - IRRI, các nhà
khoa học đã xây dựng chương trình nghiên cứu về lúa lai làm cơ sở cho phát
triển sản xuất lúa lai thương phẩm. Song tất cả họ đều chưa thành công vì
chưa tìm ra phương pháp thích hợp để sản xuất hạt lai [1].
Năm 1964, các nhà khoa học Trung Quốc đã tìm ra một dạng lúa dại
bất dục, sau đó họ đã thành công trong việc chuyển gen bất dục đực tế bào
chất vào lúa trồng tạo ra các dòng lúa bất dục đực (CMS) mở đường cho công
tác khai thác ưu thế lai thương phẩm sau này [7], [20], [74] .
Năm 1973, Trung Quốc đã sản xuất được hạt lai F1 hệ 3 dòng nhờ sử
dụng 3 loại dòng bố mẹ là: dòng bất dục tế bào chất, dòng duy trì bất dục và
dòng phục hồi hữu dục. Năm 1974, Trung Quốc đã giới thiệu một số tổ hợp
lai thuộc hệ 3 dòng với ưu thế lai rất cao như: Shan ưu 2, Shan ưu 6, Shan ưu
63.... Năm 1975, quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ 3 dòng được hoàn thiện
và đưa ra sản xuất [20], [74].
Năm 1976, Trung Quốc đã sản xuất được hạt lai F1 và gieo cấy

140.000 ha lúa lai, từ đó diện tích lúa lai tăng lên liên tục kéo theo năng suất
lúa của cả nước tăng với tốc độ cao. Vào những năm 1990, Trung Quốc đã
trồng được 15 triệu ha lúa lai, chiếm 46% tổng diện tích lúa, năng suất vượt

5


20% so với giống lúa thuần tốt nhất (Yuan L.P, 1993). Qui trình kỹ thuật nhân
dòng bố mẹ và sản xuất hạt lai ngày càng hoàn thiện. Năng suất hạt giống F1
tăng lên tương đối vững chắc. Với những thành công về lúa lai của Trung
Quốc đã mở ra triển vọng to lớn trong phát triển lúa lai ở nhiều nước trên thế giới.
Năm 1973, Shiming Song phát hiện ra được dòng bất dục mẫn cảm ánh
sáng ngày ngắn (PGMS) từ giống Nongken 58 [20]. Nhiều kết quả nghiên
cứu khác về lúa lai hai dòng cũng đã được công bố. Năm 1991, các nhà khoa
học Nhật Bản đã áp dụng phương pháp gây đột biến nhân tạo để tạo ra dòng
bất dục đực mẫn cảm với nhiệt độ [14]. Chương trình phát triển lúa lai giữa
các loài phụ (indica/japonica) được bắt đầu từ năm 1987 nhờ sự phát hiện và
sử dụng gen tương hợp rộng, mở ra tiềm năng về năng suất cao cho các giống
lúa lai hai dòng [14]. Những tổ hợp giữa các loài phụ như: Chen 232/26
Zhazao; 3037/02428 và 6154S/vaylava đưa ra ở Trung Quốc nhưng không
được sử dụng trong sản xuất đại trà, vì cây F1 quá to, bông quá lớn, số dảnh
ít, dạng lá quá rộng. Bởi thế, Yang và cộng sự năm 1997 đã đề xuất một lý
thuyết chọn giống năng suất siêu cao thông qua việc kết hợp dạng hình lý
tưởng và ưu thế lai thích hợp [59]. Năm 1992, diện tích gieo trồng lúa lai hai
dòng ở Trung Quốc là 15.000 ha với năng suất 9-10 tấn/ha, năng suất cao nhất
đạt được là 17,0 tấn/ha. Năm 1997, đã có 640.000 ha năng suất trung bình cao
hơn lúa lai ba dòng 5-15%. Đến năm 2001, diện tích lúa lai hai dòng đạt 2,5
triệu ha. Một số tổ hợp lai hai dòng điển hình có năng suất đạt hơn 10,5 tấn/ha
ở điểm trình diễn và năng suất trung bình trên diện rộng là 9,1 tấn/ha. Đã có
những tổ hợp lúa lai hai dòng mới đạt 12 đến 14 tấn/ha trong ô thí nghiệm.

Hầu hết các tổ hợp lai hai dòng đều cho năng suất cao và phẩm chất tốt hơn
so với các tổ hợp lai ba dòng [20]. Gần đây hướng nghiên cứu phát triển lúa
lai một dòng là mục tiêu cuối cùng rất quan trọng của công tác chọn giống lúa
lai ở Trung Quốc. Ý tưởng của Yuan L. P là cố định ưu thế lai và sản xuất lúa

6


lai thuần đã trở thành những đề tài lớn, quan trọng trong các chương trình
quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ cao.
Như vậy, xu thế phát triển tất yếu của lúa lai, theo Yuan L.P đã khởi
xướng là phát triển từ hệ thống ba dòng đến hệ thống hai dòng và sau đó là
lúa lai hệ một dòng hay cố định ưu thế lai ở F1 thành lúa lai thuần [20] .
Sự phát triển thành công của công nghệ sản xuất lúa lai ở Trung Quốc
đã được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, có 17 nước
nghiên cứu và sản xuất lúa lai đã đưa tổng diện tích lúa lai của thế giới lên
khoảng 10% tổng diện tích trồng lúa và chiếm 20% tổng sản lượng lúa gạo
toàn thế giới, song phát triển mạnh nhất vẫn là Việt Nam và Ấn Độ. Lúa lai
thực sự đã mở ra hướng phát triển mới để nâng cao năng suất và sản lượng
lúa cho xã hội loài người [7] .
2.2.2 Tình hình sản xuất lúa lai ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu nghiên cứu lúa lai từ năm 1985, nhưng thực sự được
xúc tiến mạnh từ những năm 1990. Một số dòng bất dục đực tế bào chất, dòng
phục hồi và tổ hợp lúa lai ba dòng được nhập nội từ Trung Quốc và IRRI đã
được đánh giá. Những kết quả bước đầu đã xác định được một số dòng bố mẹ
và giống lúa lai thích ứng với điều kiện sinh thái và sản xuất của Việt Nam,
đem lại năng suất và hiệu quả kinh tế cao (Quách Ngọc Ân, 2002).
Công tác nghiên cứu và chọn tạo các giống lúa lai ở Việt Nam cũng
được thúc đẩy mạnh mẽ, tập trung vào việc thu thập, đánh giá các dòng bất
dục đực nhập nội, sử dụng các phương pháp chọn giống truyền thống như lai

hữu tính, đột biến để tạo các dòng bố mẹ mới. Các kết quả nghiên cứu đã xác
định được các vật liệu bố mẹ tốt, thích ứng với điều kiện sinh thái miền Bắc
và có khả năng cho ưu thế lai cao như các dòng mẹ: BoA-B, IR58025A-B,
VN-01, 11S, TGMS7, TGMS11, TGMSVN1, T1S-96, 103S, TGMS6; các
dòng bố: R3, R20, R24, RTQ5... Hoàng Tuyết Minh, 2002 [36], Nguyễn Trí

7


Hoàn, Nguyễn Thị Gấm, 2003 [28], Phạm Ngọc Lương, 2000 [34], Hà Văn
Nhân, 2002 [37], Nguyễn Thị Trâm, 2005 [49].
Từ năm 1997 đến năm 2005, có khoảng 68 giống lúa lai trong nước
được khảo nghiệm, trong đó có 3 giống được công nhận chính thức: Việt Lai
20, HYT83, TH3-3, một số giống được công nhận tạm thời HYT57, TM4,
HYT100, HYT92, TH3-4, HC1, TH5-1 và Việt Lai 24 và một số giống triển
vọng khác [9] .
Ngoài ra, chúng ta cũng tích cực nhập nội các giống lúa lai nước ngoài,
chọn lọc các tổ hợp lai tốt, thích ứng với điều kiện Việt Nam để phục vụ sản
xuất. Cho đến nay, Việt Nam đã có được một cơ cấu giống lúa lai khá đa
dạng, ngoài các giống đang được sử dụng phổ biến trong sản xuất như: Nhị
ưu 838, Nhị ưu 63, D.ưu 527, Bồi tạp sơn thanh, Bác ưu 903, nhiều giống mới
được mở rộng trong sản xuất có năng suất, chất lượng khá như: Khải phong 1,
Q.ưu số 1, CNR36, Nghi hương 2308, VQ14, Phú ưu số 1 và một số giống lúa
lai của Việt Nam như HYT83, HYT100, TH3-3, Việt lai 20, TH3-4...Trần
Văn Khởi, 2006 [30], Phạm Đồng Quảng, 2006 [39].
Quy trình nhân dòng bố mẹ và sản xuất hạt lai F1 của một số tổ hợp đã
được hoàn thiện và năng suất hạt lai đã tăng lên rõ rệt (Nguyễn Trí Hoàn,
2002). Nhiều tổ hợp đã được sản xuất hạt lai F1 ở Việt Nam như Bác ưu 903,
Bác ưu 64, Bác ưu 253, Nhị ưu 838, Nhị ưu 63, D ưu 527, VL20, TH3-3,
HYT83, HYT92, HYT100, HC1, năng suất trung bình đạt 1,5-2,5 tấn.

Ngoài ra, một số nghiên cứu về sinh lý của cây lúa lai đã cho thấy: ưu
thế lai về năng suất hạt của một số tổ hợp lai được tạo bởi ưu thế lai về diện
tích lá ở giai đoạn đẻ nhánh và trỗ, một số khác do ưu thế lai về cường độ
quang hợp. Các nghiên cứu về phân bón cho thấy, khi tăng lượng phân bón
thì chỉ số diện tích lá (LAI), khối lượng chất khô trên toàn cây (DM), tốc độ
tích lũy chất khô (CGR) của lúa lai tăng vượt so với lúa thuần, đặc biệt ở giai

8


đoạn sau cấy 4 tuần; năng suất của lúa lai tăng nhiều hơn năng suất lúa thuần
và có tương quan thuận ở mức có ý nghĩa với LAI và CGR ở giai đoạn đầu
của quá trình sinh trưởng [9], [10].
Công tác nghiên cứu, chọn tạo lúa lai hai dòng cũng được xúc tiến
mạnh mẽ ở Việt Nam. Các nghiên cứu hiện nay tập trung vào một số lĩnh vực
như chọn tạo, đánh giá các đặc tính nông sinh học của các dòng TGMS; tiến
hành lai thử để tìm tổ hợp lai cho ưu thế lai cao; xây dựng quy trình nhân
dòng bất dục và sản xuất hạt lai F1. Một số tác giả đã có các nghiên cứu ban
đầu về bản chất di truyền và khả năng phối hợp của một số vật liệu hiện có.
Đã có hơn 20 dòng TGMS mới được chọn tạo tại Việt Nam [ 43], tuy
nhiên chỉ một số dòng như 103S, T1S-96 được sử dụng rộng rãi trong việc
chọn tạo các tổ hợp lúa lai hai dòng mới phát triển vào sản xuất. Các dòng
này cho con lai ngắn ngày, chất lượng gạo khá tốt, đặc biệt dễ sản xuất hạt lai
nên năng suất hạt lai cao, giá thành hạ (Phạm Đồng Quảng, 2005).
Các nhà chọn giống lúa lai trong nước cũng đã tiến hành chọn tạo các
dòng PGMS mới, có tính cảm quang, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Phương pháp tiến hành là lai chuyển các gen cảm ứng với độ dài ngày với
giống lúa có nguồn gốc xuất xứ xa với vùng phát sinh của giống khởi đầu để
tìm kiểu phản ứng với pha sáng ngắn hơn. Cơ sở của phương pháp này là tính
cảm ứng với quang chu kỳ có thể biến đổi khi tồn tại ở các môi trường khác

nhau, tức là khi chuyển gen pms từ một giống có mức cảm ứng nhất định sang
một giống khác thì gen pms có thể biểu hiện phản ứng khác. Trong môi
trường mới này, độ dài pha sáng ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của gen
có thể thay đổi theo. Thực tế ở Việt Nam, các nhà chọn giống lúa lai đã chọn
lọc thành công dòng PGMS mới P5S bằng phương pháp lai dòng T1S-96 và
Peiai64S. Dòng này có phấn hữu dục khi độ dài ngày ngắn hơn hoặc bằng
12h20', bất dục hoàn toàn khi độ dài ngày từ 12giờ30' trở lên. Thời kỳ cảm

9


ứng vào bước 5 của phân hóa đòng. Dòng P5S có thể sử dụng làm mẹ để sản
xuất hạt lai nếu trỗ vào đầu đến trung tuần tháng 5 ở miền Bắc. Nhân dòng
trong vụ Xuân, cho trỗ trước 12/4 (Nguyễn Thị Trâm, Trần Văn Quang, 2003) [48].
Như vậy, số lượng dòng TGMS thực sự được ứng dụng để phát triển
các tổ hợp lúa lai hai dòng phục vụ sản xuất ở nước ta còn rất ít, một số dòng
còn có hạn chế về khả năng kết hợp, khả năng cho con lai có ưu thế lai cao về
năng suất, khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất thuận.
Ngoài ra, nguồn vật liệu dòng phục hồi phục vụ cho công tác chọn tạo
lúa lai hai dòng cũng chưa thực sự đa dạng, phong phú. Chúng ta cũng chưa
có các dòng phục hồi có khả năng kết hợp cao, chống chịu sâu bệnh tốt, có
thể sử dụng để chọn tạo nhiều tổ hợp lai có ưu thế lai cao về năng suất.
Để công tác chọn tạo lúa lai hai dòng ở Việt Nam đạt được hiệu quả tốt,
cần phải tập trung nghiên cứu chọn tạo nguồn vật liệu bố mẹ mới có đặc tính
nông sinh học tốt, thích ứng rộng, khả năng kết hợp cao, ổn định và dễ sản
xuất hạt lai. Trên cơ sở đó chọn tạo và đưa vào sử dụng các tổ hợp lai mới có
thương hiệu riêng, cho năng suất cao và ổn định, chất lượng gạo tốt, thích ứng
với điều kiện sinh thái nước ta (Nguyễn Trí Hoàn, 2003).
2.3 Đặc điểm sinh lý các giống lúa thuần và lúa lai
2.3.1 Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cây lúa

Trong toàn bộ đời sống của cây lúa có thể chia ra hai thời kỳ sinh
trưởng chủ yếu là sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực.
Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng được tính từ lúc gieo đến lúc làm
đòng, là thời kỳ cây lúa hình thành và phát triển lá, rễ, nhánh. Ở lúa cấy thời
kỳ này có thể chia ra các giai đoạn: mạ ở ruộng mạ và đẻ nhánh ở ruộng cấy.
Trong đó giai đoạn mạ kéo dài khoảng 20 ngày từ khi gieo mạ đến khi cây có
khoảng 4-5 lá; giai đoạn đẻ nhánh kéo dài khoảng 40 ngày từ khi cấy đến khi
cây lúa bắt đầu có đòng; trong đó 10-13 ngày đầu là giai đoạn bén rễ hồi

10


xanh, giai đoạn đẻ nhánh hữu hiệu chỉ khoảng 20 ngày tiếp theo. Thời kỳ sinh
trưởng dinh dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành số bông, là yếu
tố cấu thành năng suất có ý nghĩa quyết định đối với cây lúa.
Thời kỳ sinh trưởng sinh thực, bắt đầu từ lúc làm đòng cho đến khi thu
hoạch, bao gồm các quá trình làm đòng, trỗ bông và hình thành hạt. Thời kỳ
này quyết định các yếu tố cấu thành năng suất: số hạt trên bông, tỷ lệ hạt chắc
và trọng lượng 1000 hạt, là thời kỳ có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến năng suất
thu hoạch.
Liên quan tới TGST của cây lúa, các giống lúa được chia ra: giống cực
ngắn ngày, giống ngắn ngày và giống dài ngày. Trong bón phân cho lúa cần
chú ý: các giống cực ngắn ngày (chín sớm) có giai đoạn sinh trưởng dinh
dưỡng ngắn, vì vậy có thể bắt đầu phân hóa đòng trước giai đoạn đẻ nhánh tối
đa. Các giống dài ngày (chín muộn) có giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng dài
và đạt số dảnh tối đa trước khi bắt đầu phân hóa đòng, thời kỳ từ đẻ nhánh tối
đa đến đầu phân hóa đòng có lúc bị kéo dài. Các giống ngắn ngày có độ dài
của giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng vừa phải, cây bắt đầu phân hóa đòng
ngay sau giai đoạn đẻ nhánh tối đa.
2.3.2 Đặc điểm hệ rễ của cây lúa

Lúa là cây trồng có bộ rễ chùm với số lượng có thể đạt tới 500-800 cái,
tổng chiều dài rễ ở thời kỳ trỗ bông có thể đạt đến 168 m. Bộ rễ lúa tăng dần
về số lượng và chiều dài qua các thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng và thường đạt tối
đa vào thời kỳ trỗ bông, sau đó lại giảm đi. Thời kỳ đẻ nhánh làm đòng bộ rễ
phát triển có hình bầu dục nằm ngang, còn thời kỳ trỗ bông, bộ rễ lúa phát
triển xuống sâu có hình quả trứng ngược.
Bộ rễ lúa phân bố ở lớp đất 0-20 cm, trong đó phần lớn ở lớp đất mặt 0-10
cm. Lúa là cây trồng có bộ rễ ăn nông và có thời gian từ cuối đẻ nhánh đến đầu
làm đòng rễ ăn nổi trên mặt đất. Đối với lúa gieo thẳng, bộ rễ thường phát triển

11


mạnh ở lớp đất mặt, phân nhánh nhiều. Các biện pháp làm đất, bón phân, tưới
nước, làm cỏ… có ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ rễ.
Lúa thấp cây, có khả năng thâm canh cao cần cấy dày để đạt được mật
độ tối thích. Khi cấy dày, tổng số rễ lúa tăng nên mở rộng được diện tích hút
chất dinh dưỡng của quần thể ruộng lúa, nhưng diện tích dinh dưỡng của cá
thể càng bị thu hẹp, trọng lượng trung bình của bộ rễ cây lúa giảm. Muốn cho
cá thể sinh trưởng và phát triển tốt, cần tăng lượng phân bón tương ứng với
mức độ cấy dày, như vậy mới có thể phát huy hơn nữa hiệu quả của việc cấy
dày và làm tăng năng suất. Mật độ cao, bón phân nhiều là hai biện pháp bổ
sung cho nhau làm cho quần thể phát triển mạnh.
Khác với lúa thường, bộ rễ của lúa lai phát triển rất mạnh, nhanh. Rễ ăn
sâu và toả rộng khoảng 22-23 cm, rễ ra từ các đốt ở vị trí thấp có xu thế sâu,
hướng đất, càng ở trên cao càng phát triển ngang dần. Lớp rễ gần mặt đất
nhiều, rễ to khoảng 2mm và có thể ra 4-5 lần rễ nhánh, tạo ra một lớp rễ đan
dày đặc ở lớp sát mặt đất, lông hút của lúa lai nhiều và dài (0,1-0,25mm) hơn
lúa thuờng (0,01-0,013mm). Rễ lúa lai có khả năng hút oxi trong không khí.
2.3.3 Yêu cầu dinh dưỡng chính của cây lúa và lúa lai

2.3.3.1 Yêu cầu dinh dưỡng đạm của cây lúa và lúa lai
Đạm là một yếu tố dinh dưỡng quan trọng, quyết định sự sinh trưởng
và phát triển của cây trồng. Đạm là một trong những nguyên tố cơ bản của
cây trồng, là thành phần cơ bản của axit amin, axit nucleotit và diệp lục.
Trong thành phần chất khô của cây có chứa từ 0,5 – 6% đạm tổng số. Hàm
lượng đạm trong lá liên quan chặt chẽ với cường độ quang hợp và sản sinh
lượng sinh khối. Đối với cây lúa thì đạm lại càng quan trọng hơn, nó có tác
dụng trong việc hình thành bộ rễ; thúc đẩy nhanh quá trình đẻ nhánh và sự
phát triển thân lá của lúa dẫn đến làm tăng năng suất lúa. Do vậy, đạm thúc

12


đẩy cây sinh trưởng nhanh (chiều cao, số dảnh) và tăng kích thước lá, số hạt,
tỷ lệ hạt chắc, hàm lượng protein trong hạt. Đạm ảnh hưởng đến tất cả các chỉ
tiêu sinh trưởng, phát triển, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa.
Đạm ảnh hưởng lớn đến việc hình thành đòng và bông lúa sau này, sự
hình thành số hạt trên bông, tỷ lệ hạt chắc, trọng lượng nghìn hạt…
Lúa là cây trồng rất mẫn cảm với việc bón đạm. Nếu giai đoạn đẻ
nhánh mà thiếu đạm sẽ làm năng suất lúa giảm do đẻ nhánh ít, dẫn đến số
bông ít. Nếu bón không đủ đạm sẽ làm thấp cây, đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ,
lá có thể biến thành màu vàng, bông đòng nhỏ, từ đó làm cho năng suất giảm.
Nhưng nếu bón thừa đạm lại làm cho cây lúa có lá to, dài, phiến lá mỏng, dễ
bị sâu bệnh, dễ lốp đổ; ngoài ra chiều cao phát triển mạnh, nhánh vô hiệu
nhiều, trỗ muộn, năng suất giảm. Khi cây lúa được bón đủ đạm thì nhu cầu tất
cả các chất dinh dưỡng khác như lân và kali đều tăng [45], [46]. Theo Bùi
Huy Đáp [18], đạm là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất lúa, cây có đủ
đạm thì các yếu tố khác mới phát huy hết được tác dụng.
Lúa lai có đặc tính đẻ nhánh sớm, đẻ nhiều và đẻ tập trung hơn lúa
thuần. Do đó yêu cầu dinh dưỡng đạm của lúa lai nhiều hơn lúa thuần. Khả

năng hút đạm của lúa lai ở các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Theo Phạm
Văn Cường và cs, 2003, 2005 [10], [60], trong giai đoạn từ đẻ nhánh đến đẻ
nhánh rộ, hàm lượng đạm trong thân lá luôn cao, sau đó giảm dần. Như vậy,
cần bón tập chung đạm mạnh vào giai đoạn này. Tuy nhiên, thời kì hút đạm
mạnh nhất của lúa lai là từ đẻ nhánh rộ đến làm đòng. Mỗi ngày lúa lai hút
3,52 kgN/ha chiếm 34,69% tổng lượng hút. Tiếp đến là giai đoạn từ bắt đầu
đẻ nhánh đến đẻ nhánh rộ, mỗi ngày cây hút 2,74 kgN/ha chiếm 26,82% tổng
lượng hút. Do đó bón lót và tập chung là rất cần thiết.

13


2.3.3.2 Yêu cầu dinh dưỡng lân của cây lúa và lúa lai
Sau đạm thì lân là yếu tố dinh dưỡng rất quan trọng đối với sinh trưởng
và phát triển của cây trồng, vì lân là thành phần chủ yếu của axit nucleic, là
thành phần chủ yếu của nhân tế bào. Tác dụng chủ yếu của lân được thể hiện
trên một số mặt sau:
- Xúc tiến sự phát triển của bộ rễ lúa, đặc biệt là rễ bên và lông hút.
- Làm tăng số nhánh và tốc độ đẻ nhánh lúa, sớm đạt số nhánh cực đại,
tạo thuận lợi cho việc tăng số nhánh hữu hiệu, dẫn đến làm tăng năng suất lúa.
- Thúc đẩy việc ra hoa, hình thành quả, tăng nhanh quá trình trỗ, chín
của lúa và ảnh hưởng tích cực đến chất lượng hạt.
- Tăng khả năng chống chịu với các điều kiện bất thuận và sâu bệnh hại
- Thúc đẩy phân chia tế bào, tạo thành các hợp chất béo và protein.
- Ngoài ra, lân còn có mối quan hệ chặt chẽ với sự hình thành diệp lục,
protit và sự vận chuyển tinh bột.
Khi thiếu lân, lá lúa có màu xanh đậm, bản lá nhỏ hẹp và mềm yếu,
mép lá có màu vàng tía, đẻ nhánh kém, kéo dài thời kỳ chỗ chín. Nếu thiếu
lân ở thời kỳ làm đòng sẽ ảnh hưởng rất rõ đến năng suất lúa, cụ thể là làm
giảm năng suất lúa.

Khi cây lúa được cung cấp lân thoả đáng sẽ tạo điều kiện cho bộ rễ phát
triển tốt, tăng khả năng chống hạn, tạo điều kiện cho sinh trưởng, phát triển,
thúc đẩy sự chín của hạt và cuối cùng là tăng năng suất lúa [47].
Đào Thế Tuấn, 1963 [50] cho biết: bón phân có ảnh hưởng đến phẩm
chất hạt giống rõ rệt, làm tăng trọng lượng nghìn hạt, tăng tỉ lệ lân trong hạt,
tăng số hạt trên bông và cuối cùng là cho năng suất lúa cao hơn.
Bùi Huy Đáp, 1980 [18] cho rằng: lân có vai trò quan trọng đối với quá
trình tổng hợp đường, tinh bột trong cây lúa và có ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất.

14


Theo Vũ Hữu Yêm, 1995 [57], cây non rất mẫn cảm với việc thiếu lân.
Thiếu lân trong thời kỳ cây non cho hiệu quả rất xấu, sau này dù có bón nhiều
lân thì cây cũng trỗ không đều hoặc không thoát. Do vậy, cần bón đủ lân ngay
từ giai đoạn đầu và bón lót phân lân là rất có hiệu quả.
Dinh dưỡng lân có liên quan mật thiết với dinh dưỡng đạm. Nếu bón đủ
lân sẽ làm tăng khả năng hút đạm và các chất dinh dưỡng khác. Cây được bón
cân đối N, P sẽ xanh tốt, phát triển mạnh, chín sớm, cho năng suất cao và
phẩm chất tốt.
Như vậy, muốn cho cây lúa sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao
thì không những cần cung cấp đầy đủ đạm mà còn cần cung cấp đầy đủ cả lân
cho cây lúa [53], [56], [57].
Hầu hết các thí nghiệm trong chậu và ngoài đồng đều cho thấy hiệu
suất sử dụng lân ở lúa lai là 10-12 kg thóc/kg P 2O5, cao hơn so với lúa thuần
chỉ đạt 6-8 kg thóc/kg P2O5.
2.3.3.3 Yêu cầu dinh dưỡng kali của cây lúa và lúa lai
Kali có vai trò không kém phần quan trọng đối với sự sinh trưởng của lúa
vì kali có tác dụng xúc tiến sự di chuyển của các chất đồng hoá trong cây.
Ngoài ra kali còn làm cho sự di động sắt trong cây được tốt do đó ảnh hưởng

gián tiếp đến quá trình hô hấp. Kali cũng rất cần cho sự tổng hợp protit, quan
hệ mật thiết với sự phân chia tế bào [3], [33], [44], [70].
Vai trò của kali đối với sinh trưởng, các yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất lúa đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Nói
chung, khi thiếu kali thì dẫn đến sự quang hợp của cây bị giảm sút rõ rệt, kéo
theo cường độ hô hấp tăng lên, làm cho sản phẩm của quá trình quang hợp
trong cây bị giảm, trường hợp này được thể hiện rất rõ trong điều kiện thiếu
ánh sáng. Đặc biệt, vai trò của kali được thể hiện rõ nhất trong thời kỳ đầu
làm đòng. Trong thời kỳ này, nếu thiếu kali sẽ làm cho gié bông thoái hoá

15


nhiều, số bông ít, trọng lượng nghìn hạt giảm, hạt xanh, lép lửng và bạc bụng
nhiều, phẩm chất gạo bị giảm sút.
Kết quả nghiên cứu từ năm 1994 đến năm 1996 của Nguyễn Như Hà
[22] cho thấy, không bón phân kali ảnh hưởng xấu đến các yếu tố cấu thành
năng suất lúa (số bông được tạo thành giảm 6,5-10%, số hạt tạo thành thấp
hơn, đồng thời làm tăng tỷ lệ hạt lép lửng), năng suất lúa giảm rõ rệt so với
bón đủ kali, Phạm Văn Cường và cs, 2007 [11]
Không bón kali làm giảm tích luỹ kali và đạm trong sản phẩm thu
hoạch, đạm tích luỹ nhiều trong rơm rạ không được vận chuyển về hạt là
nguyên nhân làm giảm năng suất và chất lượng gạo [22], [53].
Thiếu kali, lá lúa bị xém nâu, cây phát triển chậm và còi cọc, thân yếu
và dễ bị đổ, hạt teo quắt. Thiếu kali làm cây lúa dễ bị nấm bệnh, vi khuẩn …
Theo Nguyễn Vi, với các giống lúa hiện nay, tỷ lệ hạt chắc tăng từ 30-57% do
bón kali và trọng lượng hạt cũng tăng từ 12-30% [56].
Đối với lúa lai từ giai đoạn đẻ nhánh đến trỗ, cường độ hút kali tương
tự lúa thuần. Tuy nhiên, từ sau khi lúa trỗ thì lúa thuần hút rất ít kali, trong
khi đó lúa lai vẫn duy trì sức hút kali mạnh, mỗi ngày hút 670g/ha, chiếm

8,7% tổng lượng hút. Như vậy trong suốt quá trình sinh trưởng, cường độ hút
kali của lúa lai luôn cao. Đây là đặc điểm dinh dưỡng rất đặc trưng về hút các
chất dinh dưỡng của lúa lai. Vì vậy để có năng suất cao cần coi trọng bón kali
cho lúa lai
2.4 Tình hình sử dụng phân bón cho sản xuất lúa
2.4.1 Cơ sở lý luận của việc bón phân cho cây lúa
Đối với sản xuất nông nghiệp, phân bón đóng một vai trò quan trọng
trong việc tăng năng suất. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Việt Nam đã sử
dụng phân bón vô cơ trong nông nghiệp và ngày càng tiến bộ. Đặc biệt trong
những năm gần đây, có rất nhiều giống lúa lai được đưa vào sử dụng, có khả

16


năng chịu phân rất tốt, là tiền đề cho việc thâm canh cao, nhằm không ngừng
tăng năng suất lúa. Đối với cây lúa, đạm là yếu tố dinh dưỡng quan trọng
nhất, nó giữ vai trò quyết định trong việc tăng năng suất. Với lúa lai, vai trò
của phân bón kali cũng có vai trò quan trọng tương đương với đạm.
Theo Nguyễn Như Hà, 2005 [23], nhu cầu về đạm của cây lúa có tính
chất liên tục trong suốt thời gian sinh trưởng của cây. Theo Vũ Hữu Yêm,
1995 [57], hàm lượng đạm trong cây và sự tích luỹ đạm qua các giai đoạn
phát triển của cây lúa cũng tăng rõ rệt khi tăng liều lượng đạm bón. Nhưng
nếu quá lạm dụng đạm thì cây trồng phát triển mạnh, lá to, dài, phiến lá
mỏng, tăng số nhánh đẻ vô hiệu, trỗ muộn, đồng thời dễ bị lốp đổ và nhiễm
sâu bệnh, làm giảm năng suất. Ngược lại, thiếu đạm cây lúa còi cọc, đẻ nhánh
kém, phiến lá nhỏ, trỗ sớm. Hiệu lực của đạm còn phụ thuộc vào các yếu tố
dinh dưỡng khác. Thông thường các giống lúa có tiềm năng năng suất cao bao
giờ cũng cần lượng đạm cao; dinh dưỡng càng đầy đủ thì càng phát huy được
tiềm năng năng suất [57].
Theo De Datta S.K [64] cho rằng, đạm là yếu tố hạn chế năng suất lúa

có tưới. Như vậy, để tăng năng suất lúa nước, cần tạo điều kiện cho cây lúa
hút được nhiều đạm. Sự hút đạm của cây lúa không phụ thuộc vào nồng độ
đạm xung quanh rễ mà được quyết định bởi nhu cầu đạm của cây.
Để nâng cao hiệu quả bón đạm thì phương pháp bón cũng rất quan
trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì khi bón đạm vãi trên mặt ruộng sẽ gây
mất đạm tới 50% do nhiều con đường khác nhau như rửa trôi, bay hơi, ngấm
sâu hay do phản đạm hoá [21], [24], [45].
Theo Bùi Huy Đáp, 1980 [18], khi bón vãi đạm trên mặt ruộng lúa ở
đất nhẹ, sau 15 ngày làm mất 50% lượng đạm; còn đất thịt sau 1 tháng mất
40% lượng đạm.

17


Theo Đào Thế Tuấn, 1970 [51] lại cho rằng khi bón vãi đạm trên mặt
ruộng lúa có thể gây mất tới 60 – 70% lượng đạm bón. Chính vì vậy, khi bón
đạm cần bón sớm, bón tập trung và bón dúi sâu xuống tầng đất nơi có bộ rễ
lúa tập trung nhiều.
Theo Nguyễn Như Hà, 1999 [22], khi bón đạm ta nên bón sớm, bón tập
trung toàn bộ hoặc 5/6 tổng lượng đạm cần bón, bón lót sâu vừa có tác dụng
tránh mất đạm, lại vừa tăng tính chống lốp đổ cho lúa do bộ rễ cây phát triển
mạnh. Cũng theo Nguyễn Như Hà, nên bón kết hợp giữa phân vô cơ và phân
hữu cơ mà cụ thể là phân chuồng [22], [23].
2.4.2 Tình hình sử dụng phân bón cho lúa trên thế giới và ở Việt nam
Hiện nay, Việt Nam là nước sử dụng phân bón tương đối cao so với
những năm trước đây do người dân áp dụng được rất nhiều biện pháp kỹ thuật
trong thâm canh. Theo Vũ Hữu Yêm, 1995 [57], Việt Nam hiện đang là một
trong 20 quốc gia sử dụng phân bón cao nhất thế giới.
Bảng 2.1: Nhu cầu và cân đối phân bón ở Việt Nam đến năm 2020
Các loại phân bón


Năm

2005
2010
2015
2020
Tổng số
1.900
2.100
2.100
2.100
Urê
Sản xuất trong nước
750
1.600
1.800
2.100
Nhập khẩu
1150
500
300
0.0
Tổng số
500
500
500
500
KCL
Sản xuất trong nước

0
0
0
0
Nhập khẩu
500
500
500
500
Nguồn: Phòng QL đất và phân bón, Cục Trồng trọt, Bộ NN& PTNT, 5/2007
Theo Nguyễn Văn Bộ, 2003 [5], mỗi năm nước ta sử dụng 1.202.140
tấn đạm, 456.000 tấn lân và 402.000 tấn kali, trong đó sản xuất lúa chiếm
62%. Song do điều kiện khí hậu còn gặp nhiều bất lợi cho nên kỹ thuật bón
phân mới chỉ phát huy được 30% hiệu quả đối với đạm và 50% hiệu quả đối
với lân và kali. Nhưng hiệu quả bón phân đối với cây trồng lại tương đối cao,
do vậy mà người dân ngày càng mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản

18


xuất. Trong tương lai, vẫn hứa hẹn sử dụng một lượng phân bón rất lớn trong
sản xuất nông nghiệp, mặc dù nước ta chủ yếu vẫn phải nhập khẩu phân bón [5].
2.4.3 Phương pháp bón phân cho lúa
2.4.3.1 Các loại và dạng phân bón sử dụng cho lúa
Lúa là cây trồng có phản ứng tốt với phân hoá học nên bón phân hoá
học cho lúa có hiệu quả cao. Trong thâm canh lúa, bón phân hữu cơ chủ yếu
nhằm ổn định hàm lượng mùn cho đất, tạo nền thâm canh nên có thể sử dụng
các loại phân hữu cơ khác nhau, kể cả rơm rạ lúa sau khi thu hoạch.
Các loại phân đạm thích hợp cho lúa là phân đạm amôn, urê. Urê đang trở
thành dạng phân đạm phổ biến đối với lúa nước vì có tỷ lệ đạm cao, lại rất thích

hợp để bón trên các loại đất lúa thoái hoá. Phân đạm nitrat có thể dùng để bón
thúc ở thời kỳ đòng, đặc biệt hiệu quả khi bón trên đất chua mặn.
Đất chua trồng lúa, bón phân lân nung chảy thường cho kết quả ngang
phân supe lân hay có thể cao hơn do trong điều kiện ngập nước cũng dễ cung
cấp cho lúa mà lại ít bị rửa trôi và còn cung cấp cả Silic, là yếu tố dinh dưỡng
có nhu cầu cao ở cây lúa. Tuy nhiên nếu cần bón thúc lân và trồng lúa trên đất
nghèo lưu huỳnh (đất bạc màu bón ít phân hữu cơ) thì phải dùng phân lân supe.
Loại phân kali thích hợp bón cho lúa là kali clorua.
Ngoài ra, còn thường sử dụng các loại phân NPK, đặc biệt tốt là các
loại phân chuyên dùng cho lúa, phù hợp với điều kiện của từng vùng đất trồng
Khả năng chịu chua của cây lúa khá, nhưng ở đất quá chua, cây lúa
sinh trưởng kém, có thể do nhôm hoà tan gây ra vì hiện tượng ngộ độc nhôm
ít thấy trên các loại đất có pH trên 5,5. Mặt khác, sau khi đưa nước vào ruộng,
đất có thể bị chua hơn, nên bón vôi là biện pháp quan trọng ở đất lúa nước
quá chua và việc bón vôi phải được kết hợp với một chế độ bón phân hợp lý
thì mới thu được kết quả mong muốn nhất.
2.4.3.2. Lượng phân bón cho lúa ở các vùng trồng lúa chính

19


Liều lượng phân chuồng thường bón 7-10 tấn/ha, vụ mùa nên bón
nhiều hơn. Liều lượng phân khoáng bón cho lúa phụ thuộc vào năng suất kế
hoạch (đặc điểm của giống, loại hình cây), độ phì của đất, các điều kiện khí
hậu (mùa vụ) và khả năng cân đối với các loại phân khác. Giống năng suất
cao cần bón nhiều hơn so với các giống lúa thường, lúa địa phương, lúa vụ
xuân thường bón nhiều hơn lúa vụ mùa, trồng lúa trên đất có độ phì cao cần
giảm lượng phân bón.
Do hệ số sử dụng phân đạm của cây lúa không cao nên lượng đạm cần
bón phải cao hơn nhiều so với nhu cầu. Lượng đạm bón dao động từ 60-160

kg/ha. Với trình độ thâm canh hiện tại, để đạt năng suất 5 tấn/ha thường bón
80-120 kg/ha. Tuy nhiên, trên đất có độ phì trung bình, để đạt năng suất 6 tấn
thóc/ha cần bón 160 kg N/ha. Trên đất phù sa sông Hồng, để đạt năng suất
trên 7 tấn/ha cần bón 180-200 kg N/ha. Các nước có năng suất lúa bình quân
cao trên thế giới (5-7 tấn thóc/ha) thường bón 150-200 kg N/ha.
Lượng phân lân bón cho lúa dao động từ 30-100 kg P2O5, thường bón
60 kg P2O5/ha. Đối với đất xám bạc màu có thể bón 80 - 90 kg P 2O5/ha, đất
phèn có thể bón 90 - 150 kg P2O5/ha.
Lượng phân kali bón cho lúa phụ thuộc chủ yếu vào mức năng suất và
khả năng cung cấp kali của đất. Các mức bón trong thâm canh lúa trung bình
là 30-90 kg K2O/ha, và mức bón trong thâm canh lúa cao là 100-150 kg
K2O/ha, trong đó kali của phân chuồng và rơm rạ có hiệu suất không kém kali
trong phân hóa học. Trên đất phù sa sông Hồng khi đã bón 8-10 tấn phân
chuồng/ha thì chỉ nên bón 30-90 kg/ha phân kali khoáng, ngay cả trong điều
kiện thâm canh lúa cao (Nguyễn Như Hà, 1999).
Bảng 2.2: Lượng phân bón cho lúa
Vùng
Các tỉnh

Vụ

Giống

Đông xuân

Thuần

20

Lượng bón (kg/ha)

N
P2O5
K2O
90-120
60-80
40-60


Các tỉnh

Các tỉnh
Phía Nam

Lúa lai
140-160 80-100
Mùa
Thuần
80-100
40-60
Lúa lai
120-140
60-80
Địa phương
60-80
30-50
Đông xuân
Thuần
100-120
40-60
Lúa lai

140-160 80-100
Hè thu
Thuần
80-100
50-70
Lúa lai
120-140 80-100
Đông xuân
Thuần
100-120
40-60
Xuân hè
Thuần
100-120
50-70
Hè thu
Thuần
90-110
60-80
Mùa
Thuần
80-100
40-60
Địa phương
60-80
40-60
Nguồn: Nguyễn Xuân Trường, 2000

60-100
30-50

60-100
30-50
40-60
80-100
40-60
80-100
30-40
30-40
30-40
30-50
30-40

2.4.3.3 Phương pháp bón phân cho lúa
Thời kỳ bón đạm ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và năng suất lúa. Thời
kỳ bón đạm phụ thuộc vào đặc điểm giống lúa, mùa vụ, thành phần cơ giới
đất và trình độ thâm canh. Không thể có một hướng dẫn chung về thời kỳ bón
đạm cho tất cả các giống, mùa vụ và đất trồng. Bón đạm sớm tạo nhiều bông,
bón đạm muộn tăng hạt là chủ yếu, bón đạm vào giai đoạn đòng làm tăng tỷ
lệ protein trong hạt. Thời kỳ bón phân đạm cho lúa thường gồm: bón lót và
bón thúc đẻ nhánh, thúc đòng, ngoài ra có thể có bón nuôi hạt.
* Bón phân lót cho lúa
Trong bón phân cho lúa thường bón lót toàn bộ phân chuồng và phân
lân, một phần phân đạm và kali. Thường bón lót phân chuồng trong quá trình
làm đất, phân lân, phân kali cùng với phân đạm bón trước khi cày bừa lần cuối.
Cây lúa hút khá nhiều lân trong các giai đoạn sinh trưởng đầu và giai
đoạn cây con, lúa bị khủng hoảng lân, do vậy phân lân cần được bón lót toàn
bộ hoặc bón lót và thúc sớm. Phân lân nên bón rải đều trên mặt ruộng trước
khi cầy bừa lần cuối để gieo cấy.
Nên bón lót nhiều phân kali trong các trường hợp sau: trồng giống đẻ
nhánh nhiều hay ngắn ngày, lúa có hiện tượng bị ngộ độc sắt, đất có khả năng


21


hấp thu cao hay thiếu kali, mưa nhiều, ngập nước sâu, khí hậu lạnh. Trong
thực tiễn còn chia tổng lượng phân kali ra bón thúc làm nhiều lần, do lúa là
cây có yêu cầu cung cấp kali vào giai đoạn rễ lúa ăn nổi trên bề mặt đất-cuối
đẻ nhánh đến đầu làm đòng, kali cung cấp từ đất và nước tưới thường giảm đi
ở giai đoạn đẻ nhánh của cây lúa.
Thường dành 1/3-2/3 tổng lượng N để bón lót cho cây lúa, tỷ lệ phân
dùng để bón lót tuỳ thuộc vào tính chất đất, độ sâu cày bừa, điều kiện khí hậu,
thời gian sinh trưởng của lúa. Cần bón lót nhiều đạm hơn khi cấy bằng mạ
già, các giống lúa ngắn ngày, lúa chét (lúa mọc lại từ gốc rạ).
* Phân bón thúc đẻ nhánh
Bón thúc đẻ nhánh cho lúa thường bón bằng phân đạm hay phối hợp
thêm với một phần phân lân (nếu còn chưa bón lót hết). Thời gian bón thúc đẻ
nhánh vào khoảng 18-20 ngày sau gieo hoặc sau khi lúa bén rễ và hồi xanh,
vào khoảng 10-20 ngày sau cấy (tuỳ thuộc mùa vụ) khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh.
Trên đất phèn và đất quá chua, khả năng cố định lân của đất rất mạnh thì
bón thúc lân cho lúa là cần thiết vì vừa nhằm hạ phèn và độc tố trong đất, vừa
cung cấp dinh dưỡng lân cho lúa. Việc kết hợp bón lót và thúc một phần phân
lân hoà tan trong nước cho lúa làm tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Khi bón
thúc nên dùng các dạng lân hạt để tránh bám dính gây cháy lá.
Thường dành 1/2-2/3 lượng N còn lại để bón thúc đẻ nhánh nhằm làm
cho lúa đẻ nhánh nhanh, tập trung và cũng để giảm lượng phân lót, tránh mất
đạm. Cần bón thúc đẻ nhánh nhiều đạm cho lúa trong các trường hợp: cấy
giống dài ngày hay đẻ nhánh nhiều, mật độ gieo hoặc cấy cao, nhiệt độ khi
gieo cấy cao.
Đối với những giống lúa cực ngắn, lúa mùa cần phải bón thúc đẻ nhánh
sớm hơn, còn đối với giống dài ngày, lúa xuân có thể bón thúc muộn hơn, do

thời kỳ sinh trưởng đầu của cây lúa bị kéo dài.

22


Bón thúc đạm cho lúa tốt nhất là bón sau khi rút nước ruộng do có thể
làm tăng gấp đôi hiệu lực của phân bón so với ruộng có nhiều nước. Không
nên rút nước quá 1 ngày trước khi bón thúc vì việc rút nước trong một thời
gian dài thúc đẩy cỏ dại phát triển và làm mất đạm, đồng thời ruộng sau khi
bón phân phải được đưa nước vào ngay sau một ngày bón đạm. Dùng máy trừ
cỏ có trục quay để trộn lẫn phân đạm vào đất cũng tăng được hiệu lực của
phân đạm, đặc biệt là khi bón thúc sớm và cấy sâu.
* Phân bón thúc đòng
Bón thúc đòng cho lúa thường sử dụng phối hợp phần phân đạm và kali
còn lại nhằm tiếp tục cung cấp đạm cho lúa để tạo được bông lúa to, có
nhiều hạt chắc, nâng cao hệ số kinh tế cho cây lúa, đạt năng suất cao. Bón
đòng tốt nhất là bón sau khi phân hoá đòng vào khoảng 40-45 ngày sau khi
gieo, cấy.
Bảng 2.3: Chuẩn đoán nhu cầu dinh dưỡng qua lá của cây lúa

Loại
dinh
N
dưỡng
P
K
Ca
Mg
S


Hàm lượng dinh dưỡng (% chất khô)
Lúa lai
Lúa địa phương
Bộ phận và
Thiếu
Đủ
Thiếu
Đủ
thời
lấy
Cácgian
lá phía
<2,5
3,0-4,0
<2,5
3,0-4,0
mẫu phân tích
<0,2
0,2-0,5
<0,2
0,2-0,5
trên, vào
<2,0
3,0-4,5
<2,0
3,0-4,5
<0,2
0,2-0,6
<0,15
0,20-0,60

<0,2
0,2-0,4
<0,15
0,15-0,30
<0,15
0,2-0,25
<0,1
0,2
Nguồn: T.S.Dierolf, 2001

Khi bón ít đạm, thì bón thúc đòng là một kỹ thuật quan trọng để nâng
cao hiệu suất phân đạm và là thời kỳ bón đạm có hiệu quả nhất. Những
giống đẻ nhánh ít, bông to, năng suất dựa vào số hạt trên bông thì cần phải
chú trọng vào đợt bón đón đòng và nuôi hạt để tạo được bông to, nhiều hạt
chắc, đạt năng suất cao.

23


Bón lót càng nhiều, lúa sinh trưởng tốt, thì thời gian bón đòng càng
muộn và ít. Đối với các giống lúa mùa có thời gian sinh trưởng dài (150 - 180
ngày), cần bón thúc đòng muộn hơn. Cần dùng mắt đánh giá tình hình sinh
trưởng và màu lá trong thời kỳ đẻ rộ để phán đoán nhu cầu bón thúc đòng.
Khi đã bón lót được nhiều cũng có thể không cần bón thúc đẻ, mà chỉ cần
bón ở thời kỳ đòng. Bón đủ phân lót và thúc đẻ nhánh có thể không bón phân
đón đòng. Hiện nay trong chiến lược “ba giảm ba tăng” người ta căn cứ vào
màu lá lúa để quyết định việc bón thúc phân đạm cho lúa. Ngoài ra cũng có
thể dựa vào việc chuẩn đoán lá để xác định nhu cầu bón phân cho lúa.
Nên dùng phân kali bón thúc đòng cho lúa trong các trường hợp: giống
đẻ nhánh từ trung bình đến ít hay giống dài ngày, gieo cấy thưa; đất có điện thế

oxy hoá khử rất cao, thành phần cơ giới rất nhẹ, hay trên đất phèn (thiếu lân và
ngộ độc sắt), đất kiềm (thiếu kẽm), lân bị đất cố định hay mưa nhiều [72].
* Phân bón nuôi hạt
Sau khi lúa trỗ hoàn toàn có thể bón nuôi hạt bằng cách phun phân bón lá
1-2 lần nhằm làm tăng số hạt chắc, tăng năng suất. Đây là thời kỳ bón phân có
hiệu quả rõ khi trồng lúa trên đất thành phần cơ giới nhẹ, có khả năng cung cấp
dinh dưỡng và giữ phân kém.
2.4.4 Vấn đề bón phân cân đối cho cây lúa
Bón phân cân đối cho lúa là tuỳ theo yêu cầu của cây lúa về các chất dinh
dưỡng và khả năng đáp ứng từng loại chất dinh dưỡng cho cây lúa của đất trồng
lúa cụ thể mà bón phân. Căn cứ định lượng phân bón cân đối cho lúa:
Vụ mùa, hè thu (mùa mưa) lượng đạm cần bón ít hơn so với vụ đông
xuân. Vụ hè ở các tỉnh phía Nam do nắng nóng, đất chua nhiều, phèn bốc
mạnh nên cần bón nhiều lân hơn so với vụ đông xuân và vụ thu đông.
Khi hàm lượng kali trong nước tưới cao (chẳng hạn phù sa nhiều) thì
bón kali với lượng thấp và ngược lại. Đất nhẹ cần bón nhiều kali hơn đất

24


nặng, đất phù sa bón ít kali hơn đất xám. Đất cát, đất xám, đất bạc màu do
hàm lượng kali thấp nên cần bón nhiều kali hơn so với các loại đất khác. Trên
đất này do hàm lượng hữu cơ và sét thấp nên phải chia phân ra làm nhiều lần
bón hơn để giảm thất thoát phân bón.
Đất phèn, đất trũng nghèo lân lại có nhiều sắt nhôm di động gây độc,
do đó cần phải bón nhiều phân lân hơn các loại đất khác, nhằm giảm độ độc
của sắt, nhôm và cung cấp lân cho cây lúa.
Trong rất nhiều trường hợp, hiện tượng đổ là một nhân tố không cho
phép được bón cho lúa đến lượng đạm tối đa. Nếu cây lúa đổ trước khi trỗ,
năng suất có thể giảm 50-60%. Giống lúa mới thấp cây có khả năng chống đổ

tốt, lượng đạm bón tối thích cao hơn nhiều.
Nếu vừa thu hoạch hạt thóc, vừa lấy rơm rạ khỏi đồng ruộng thì bón
phân nhiều hơn, đặc biệt là phân kali, do khá nhiều kali bị lấy đi khỏi đồng
ruộng theo rơm rạ, nhưng nếu không lấy rơm rạ khỏi đồng ruộng thì chỉ
khoảng 5% lượng kali bị lấy đi theo sản phẩm thu hoạch qua hạt. Khoáng
trong đất, rạ và nước tưới là nguồn kali cung cấp cho cây.
Ở đất nhẹ nhiều cát cây cần kali hơn, đồng thời các giống năng suất cao
cần nhiều kali hơn.
2.5 Những kết quả nghiên cứu phân bón đối với cây lúa
2.5.1 Kết quả nghiên cứu về phân đạm đối với cây lúa
Nhu cầu đạm của cây lúa đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới đi
sâu nghiên cứu và có nhận xét chung là: nhu cầu đạm của cây lúa có tính chất
liên tục từ đầu thời kỳ sinh trưởng cho đến lúc thu hoạch. Trong suốt quá
trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa, có hai thời kỳ mà nhu cầu dinh
dưỡng đạm cao nhất đó là thời kỳ đẻ nhánh rộ và thời kỳ làm đòng. Ở thời kỳ
đẻ nhánh rộ cây hút nhiều đạm nhất [8], [31].

25


×