Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp (acari oribatida) ở vườn quanh nhà, đất canh tác tại vườn quốc gia tam đảo tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.72 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Môi trường đất là một môi trường sống rất đặc thù, với cấu trúc ba thể
rắn, lỏng và khí, trong đó chứa cả một thế giới sinh vật vô cùng đa dạng và
phong phú. Nhóm động vật đất chiếm hơn 90% tổng sinh lượng hệ động vật ở
cạn và hơn 50% tổng số loài động vật sống trên Trái Đất. Chúng có vai trò lớn
trong việc phân hủy xác thải hữu cơ, làm tăng độ phì của đất và bảo vệ môi
trường đất. Nhiều nhóm sinh vật đất, trong đó có nhóm động vật Chân khớp
bé (Microarthropoda) đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ thị điều kiện sinh
thái của môi trường đất, góp phần làm sạch môi trường (Vũ Quanh Mạnh,
2003) [4].
Việc nghiên cứu sinh vật đất có ý nghĩa quan trọng trong tìm hiểu tính
đa dạng của thế giới sinh vật và các đặc tính sinh học đất. Từ đó, góp phần đề
xuất cải tạo và tăng độ phì của đất, hoặc giúp đánh giá sắp xếp các vùng địa lí
tự nhiên, các vùng sinh thái, quy hoạch và phân bố các vùng sản xuất nông
nghiệp.
Động vật Chân khớp bé gồm các đại diện chính là Acari và
Colembola. Acari là những nhóm có khả năng chống chịu tốt trước các ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường. Với khả năng di chuyển nhanh, có số lượng
cá thể lớn nên chúng có vai trò quan trọng trong việc chỉ thị điều kiện sinh
thái của môi trường đất.
Hiện nay, với sự phát triển của đất nước, các khu du lịch cũng ngày
càng phát triển góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển đó thì nhu cầu về lương thực thực phẩm cũng tăng cao, dân
số gia tăng, nhu cầu sử dụng đất đai tăng dẫn đến tình trạng người dân di cư
đến vườn quốc gia sinh sống ngày một nhiều và tác động đến rừng.

1



Với sự phát triển mạnh mẽ về du lịch của Tam Đảo, vườn quốc gia Tam
Đảo với vị trí địa lí thuận lợi đang trở thành khu nghỉ mát nổi tiếng cuả tỉnh
Vĩnh Phúc. Cũng như các vườn quốc gia khác, hầu hết đều có người dân sinh
sống tại vườn, kèm theo đó là việc phá rừng để lấy gỗ hay trồng cây lương
thực thực phẩm, điều này dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học ở vườn và các
vấn đề về ô nhiễm môi trường tại đây. Đã có rất nhiều nghiên cứu về khu hệ
động thực vật ở đây nhưng những nghiên cứu về động vật đất ở đây chưa
được quan tâm nghiên cứu nhiều.
Với tất cả các lý do trên, tôi đã thực hiện: “ Nghiên cứu sự biến động
thành phần loài ve giáp(Acari : Oribatida) ở vườn quanh nhà, đất canh
tác tại vườn quốc gia Tam Đảo – tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích nghiên cứu
Bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, xây dựng lòng say mê
học tập, làm tiền đề cho phục vụ giảng dạy và nghiên cứu sau này.
Nghiên cứu sự biến động thành phần loài và phân bố của ve giáp ở một
số sinh cảnh của vườn quốc gia Tam Đảo.
3. Nội dung nghiên cứu
Đa dạng thành phần loài ve giáp (Acari: Oribatida) ở sinh cảnh vườn
quanh nhà, đất canh tác tại vườn quốc gia Tam Đảo.
Đặc điểm phân bố của ve giáp ở các sinh cảnh nghiên cứu.
Phân tích một số chỉ số định lượng của ve giáp ở vườn quanh nhà, đất
canh tác tại vườn quốc gia Tam Đảo.
Những loài ưu thế có trong sinh cảnh nghiên cứu.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. 1. Tình hình nghiên cứu ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới
Trên thế giới, các nhóm động vật không xương sống nói chung và

Oribatida nói riêng đã được nghiên cứu từ rất lâu, cách đây hàng trăm năm.
Ở Đức với công trình của Hermann J.F năm 1804; ở Ý là công trình của
Canestrini G. & Fanzago F năm 1876, 1877.; ... Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu về Oribatida chỉ phát triển mạnh trong thời gian gần đây.
Theo Balogh J. và Balogh P, 1992 [12] khu hệ Oribatida trên thế giới
hiện đã mô tả khoảng 10000 loài và thực tế có thể lên đến 100000 loài . Số
lượng giống Oribatida trên thế giới đã tăng từ 700 giống đến 1000 giống chỉ
trong 20 năm gần đây.
Trong các công trình nghiên cứu về Acari trước đây, các công trình của
Berlese đóng một vai trò quan trọng và có một vị trí đặc biệt. Ông là một
trong những người quan tâm đến ve giáp đầu tiên. Từ năm 1881 đến năm
1923, ông đã mô tả khoảng 120 loài Oribatida (Hammen L.Van Der, 2009Links). Ở Canada, khu hệ Oribatida là một trong những khu hệ được nghiên
cứu khá kỹ. Theo Behan – Pelletier et al., 2000, mặc dù các dẫn liệu về sinh
thái, phân bố của chúng có nhiều, nhưng về khu hệ, số loài được biết chỉ
chiếm 1/4 số loài có trong thực tế [14].
Ở Thụy Sĩ, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác, cùng
với kết quả nghiên cứu của riêng mình. Schatz , 2006 đã công bố và tổng hợp
bản danh lục các loài Ve giáp đã biết ở khu vực Trung Châu Mỹ. Danh lục
này gồm 543 loài Ve giáp thuộc 87 họ. Ngoài ra, ông còn liệt kê số lượng Ve
giáp đã thu thập ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác cũng thuộc Trung Mỹ
như: Cuba (225 loài), Jamaica (28 loài).... . Hiện tại 498 loài Ve giáp đã được
ghi nhận (gồm 300 loài đã xác định tên, 198 loài còn ở dạng sp.) (Schatz,
2002) [20].

3


Ở Nga, nghiên cứu về Ve giáp phát triển mạnh từ những năm 50 của
thế kỷ XX. Cho đến nay đã ghi nhận được 300 loài Ve giáp ở tất cả các hệ
sinh thái, riêng khu hệ Oribatida sống trên cây cũng được đặc biệt nghiên cứu

từ mấy chục năm (Ermilov S.G. et al., 2007) [15].
Năm 2004, Karasawa đã nghiên cứu cấu trúc quần xã Oribatida ở đất
treo và các nhân tố hữu sinh, vô sinh gây nên sự đa dạng của chúng. Theo tác
giả, Oribatida là một trong những nhóm Chân khớp chiếm ưu thế về số lượng
trong đất treo. Từ sinh cảnh này thu được không ít hơn 50 loài. Độ đa dạng
loài Oribatida ở đất treo có thể thấp hơn so với khu hệ Oribatida ở đất rừng
(Karasawa, 2004) [17].
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế giới,
được nghiên cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và vai
trò chỉ thị.
1.2. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam
Ở Việt Nam, động vật chân khớp bé ở đất đã được nghiên cứu từ những
năm 30 của thế kỉ XX. Ban đầu là các nghiên cứu lẻ tẻ của các tác giả nước
ngoài kết hợp nghiên cứu cùng các nhóm sinh vật khác.
Năm 1967, lần đầu tiên trong công trình “New Oribatid from Viet
Nam”, hai tác giả người Hungari là Balogh J. và Mahunka S. đã giới thiệu
khu hệ, danh pháp học và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp, trong đó đã
mô tả 29 loài, 4 giống mới cho khoa học [13].
Từ sau 1975, các tác giả trong nước bước đầu đã tiến hành nghiên cứu
độc lập về Oribatida. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của tác giả
Vũ Quang Mạnh về nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất Cà Mau và
Từ Liêm năm 1980, 1984…[2].
Các nghiên cứu về khu hệ và định loại Oribatida tập trung chủ yếu của
tác giả Vũ Quang Mạnh và các cộng sự của ông được công bố từ năm 1990
tới nay ở trong và ngoài nước. Đã đưa ra đặc điểm nhóm động vật
4


Microarthropoda, đặc biệt là nhóm Oribatida có vỏ cơ thể cứng, mật độ cá thể
lớn tương đối ổn định, thành phần loài phong phú, phân bố rộng, dễ dàng thu

bắt nên chúng được chú ý như đối tượng nghiên cứu mẫu trong nhiều nghiên
cứu sinh học, động vật hoặc phân vùng địa lý. Bên cạnh đó Microarthropoda
có khả năng di cư nhanh và có số lượng lớn nên chúng là nhóm làm phân tán
và lan truyền nhiều bệnh và giun sán kí sinh.
Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva, 1987 đã giới thiệu đặc điểm phân bố và
danh pháp phân loại học của 11 loài mới cho khu hệ Oribatida Việt Nam và 1
loài mới cho khoa học [21].
Nghiên cứu khu hệ Oribatida ở Việt Nam của Mahunka, 1988 đã xác
định 15 loài mới cho khoa học, trong đó có một số loài mới thu từ mẫu đất
vùng Tam Đảo [18].
Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật, 1990 xác định được 24 loài Oribatida
ở vùng đồi núi đông bắc Việt Nam khi tiến hành nghiên cứu cấu trúc định
lượng của nhóm Microarthropoda ở 7 kiểu sinh thái, ở 5 dải độ cao khí hậu và
3 loại đất. Theo 2 tác giả này, trong nhóm Microarthropoda, Oribatida luôn
chiếm số lượng chủ yếu từ 70 – 80% tổng số lượng, còn nhóm Collembola chỉ
chiếm 10% [9].
Năm 1994, trong thông báo khoa học các biển Yên Hưng (Quảng
Ninh), đảo Cát Bà (Hải Phòng) và đồng bằng sông Hồng (Từ Liêm, Hà Nội).
Phòng) và đồng bằng sông Hồng (Từ Liêm, Hà Nội) cùng với sự phân bố của
chúng theo sinh cảnh, theo độ cao so với mặt nước biển, theo địa điểm và
khoảng cách đến biển. Đồng thời tác giả cũng đã nêu lên mối liên hệ giữa
Oribatida vùng ven biển và vùng đảo so với Oribatida sâu trong đất liền [3].
Vũ Quang Mạnh, Vương Thị Hòa, 1995 đã giới thiệu danh sách 146
loài và phân loài Oribatida ở Việt Nam và phân tích đặc điểm thành phần loài
của chúng [7].

5


Năm 1996, Vũ Quang Mạnh, Lại Văn Tạc, Nguyễn Văn Sức đã nghiên

cứu quần xã động vật chân khớp bé (Microarthropoda) và động vật đất cỡ
trung bình (Mesofauna) liên quan đến việc sử dụng thuốc trừ cỏ Sofit cho lúa
[11].
Năm 2004, Vũ Quang Mạnh đã giới thiệu về họ Oribatida
Otocepheidae Balogh, 1961 của khu hệ động vật Việt Nam [5]. Cũng trong
năm này, nhóm tác giả Phan Thị Huyền và cộng sự đã xác định được 25 loài
Oribatida thuộc 12 họ trong cấu trúc quần xã Ve bét ở hệ sinh thái vùng rừng
Vườn Quốc gia Ba Vì (Phan Thị Huyền, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân
Lâm, Đặng Việt Hà, Đặng Thúy Hiền, 2004) [1].
Năm 2005, trong báo cáo khoa học tại Hội nghị Côn trùng học toàn
Quốc lần thứ V, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm đã công bố khu hệ
Oribatida Việt Nam; xác định được 158 loài, thuộc 46 họ, mang tính chất Ấn
Độ - Mã Lai và thuộc vùng địa động vật Đông Phương. Song khu hệ
Oribatida Việt Nam có tính chất chuyên biệt cao, có tới 76 loài chỉ mới phát
hiện được ở Việt Nam. Đồng thời, có nhiều loài mang đặc điểm chung của
khu hệ Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin, Nhật Bản và các đảo Nam
Thái Bình Dương. Tại một số khu hệ Oribatida vùng núi phía Bắc mang yếu
tố động vật Cổ Bắc thuộc các giống Nothrus C. L. Koch, 1836; Metabelba
Grandjean, 1956; Tectocepheus Berlese, 1913; Oppia C. L. Kock, 1836;
Xylobates Jacot, 1929; Scheloribates Berlese, 1908; Orbatella Bank, 1895,
Achipteria Berlese, 1885; Galumna Heyden 1826 (Vũ Quang Mạnh, Nguyễn
Xuân Lâm, 2005) [8].
Năm 2006, Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh công bố 30 loài Oribatida
được phát hiện ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn – Phú Thọ. Công bố Oribatida họ
Oppidae Grandjean, 1954 và Mulltioppiinae Balogh, 1938 ở Việt Nam (Vũ
Quang Mạnh, Đào Duy Trinh , 2006) [10].

6



Năm 2007, Vũ Quang Mạnh đã tổng kết và giới thiệu toàn bộ các loài
Oribatida đã phát hiện được từ trước tới nay ở Việt Nam của các tác giả trong
và ngoài nước trong công trình Động vật chí Việt Nam. Ông đã giới thiệu hệ
thống phân loại và danh pháp đầy đủ nhất của 150 loài trong khoảng 180 loài
Oribatida đã biết của khu hệ động vật Việt Nam (Vũ Quang Mạnh,2007) [6].
Nhìn chung những nghiên cứu về ve giáp ở Việt Nam đã đề cập một
cách toàn diện và có hệ thống với kết quả cao. Tuy nhiên các kết quả đạt được
mới chỉ là những bước đi định hướng ban đầu. Để tìm hiểu thấu đáo vai trò
của nhóm ve giáp sống trong môi trường đất, để đưa ve giáp ứng dụng vào
lĩnh vực khoa học và thực tiễn thì việc nghiên cứu ve giáp cần được đẩy mạnh
nghiên cứu trong những năm tiếp theo.

7


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài Oribatida (Acari: Oribatida) thuộc ngành Chân khớp
(Arthropoda), phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata), lớp Hình nhện
(Arachnida), phân lớp Ve bét (Acari).
2.2. Thời gian nghiên cứu
Tiến hành từ tháng 3 năm 2012 tới tháng 5 năm 2013.
2.3. Địa điểm nghiên cứu.
Các mẫu đất được thu ở 2 sinh cảnh vườn quanh nhà và đất canh tác
của vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Địa điểm, tầng đất và số lượng mẫu thu ở khu vực nghiên cứu
Số lượng mẫu

Sinh cảnh


Tổng

A1 (0-10 cm)

A2 ( 11-20 cm)

Vườn quanh nhà

12

12

24

Đất canh tác

12

12

24

2.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu chuẩn trong phòng thí nghiệm và
ngoài thực địa của Ghilarov, 1975 [16].
2.4.1. Ngoài thực địa
Mẫu đất được lấy ở 2 tầng có độ sâu từ 0 – 10 cm (tính từ mặt đất) kí
hiệu là tầng A1 và ở độ sâu tiếp theo 11 – 20 cm kí hiệu là tầng A2. Mỗi mẫu
có kích thước (5 x 5 x 10) cm.

Các mẫu định lượng của đất được thu làm 2 đợt ở mỗi sinh cảnh nghiên
cứu và lặp lại 6 lần ở mỗi tầng. Mỗi mẫu được cho vào một túi nilon riêng

8


được buộc chặt, bên trong có chứa nhãn ghi đầy đủ các thông số: tầng đất,
ngày tháng, sinh cảnh, địa điểm… lấy mẫu.
2.4.2. Trong phòng thí nghiệm
Tách lọc mẫu Oribatida
Mẫu sau khi lấy ở thực địa được đưa ngay về phòng thí nghiệm động vật
của trường để xử lý. Chúng tôi tiến hành tách ve giáp theo phương pháp phễu
lọc “Berlese – Tullgren”, phương pháp này đã “lợi dụng” tập tính của các loài
động vật đất là: hướng đất dương và hướng sáng âm khi ở đất trong phễu lọc
để khô dần chúng sẽ chui sâu xuống lớp đất phía dưới, qua lưới lọc và rơi
xuống đáy phễu.
Dụng cụ dùng trong phương pháp này gồm có phễu thủy tinh và rây lọc.
Phễu thủy tinh có đường kính miệng là 18cm, đường kính vòi là 1,5cm. Bộ
phễu được đặt trong giá gỗ, vòi phễu gắn với ống nghiệm chứa dung dịch
formon 4%, bên trong có nhãn ghi thời gian đặt mẫu, địa điểm, tầng đất….
Rây lọc hình trụ đặt trên phễu, thành của rây lọc là vành kim loại, đường kính
15cm, cao 4cm, lưới lọc bằng sợi nilon, kích thước mắt lưới (1,0 x 1,0) mm.
Trước khi cho mẫu vào rây lọc, đất được bóp nhỏ và rải đều trên mặt lớp
lưới, phần vụn lọt qua mắt lưới sẽ được đổ trở lại trước khi đặt rây vào phễu.
Mẫu được tách lọc trong điều kiện phòng thí nghiệm nhiệt độ từ 250C –
300C, bảy ngày đêm rồi mới tiến hành thu ống nghiệm dưới đáy phễu đã được
lọc. Dùng nút bông bịt kín ống nghiệm và lấy dây chun bó các ống nghiệm
của cùng một tầng tại một địa điểm lại với nhau, sau đó cho vào lọ nhựa có
chứa dung dịch formon 4% để giữ cho mẫu không bị hỏng.
Định loại Oribatida

Mẫu Oribatida, trước khi được định loại cần được tẩy màu, làm trong
vỏ kitin cứng. Quá trình làm trong màu có thể diễn ra trong một vài ngày hoặc
lâu hơn nên cần nhặt Oribatida riêng ra một lam kính lõm. Đưa lam kính lõm
quan sát dưới kính lúp, dựa vào đặc điểm hình dạng ngoài, dùng kim tách sơ
9


bộ chúng thành nhóm có hình thù giống nhau riêng. Đặt lamel ở bên trái lam
kính sao cho chỉ phủ một phần chỗ lõm. Nếu dung dịch axit nhỏ vào chỗ lõm
dưới lamel chưa đầy cần bổ sung cho đầy. Dùng kim chuyển từng Oribatida
vào chỗ lõm dưới lamel để quan sát ở các tư thế khác nhau theo hướng lưng
và bụng và ngược lại. Khi mẫu ở đúng tư thế quan sát, ta chuyển sang kính
hiển vi. Sau khi định loại xong, các loài được đo kích thước và chụp ảnh. Tất
cả các cá thể cùng một loài để chung vào một ống nghiệm và được bảo quản
bằng dung dịch định hình bằng formol 4%. Dùng giấy can ghi các thông số
tên loài cần thiết bằng bút chì rồi nút bằng bông không thấm nước; tất cả các
ống nghiệm được đặt chung vào lọ thủy tinh lớn chứa formol 4% để bảo quản
lâu dài. Ghi tất cả các tên loài đã được định loại vào sổ định loại mẫu lưu giữ
ở phòng thí nghiệm.
Danh sách các loài Oribatida được sắp xếp theo hệ thống cây chủng
loại phát sinh dựa theo hệ thống phân loại của Balogh J. và Balogh P., 1992
[15]. Các loài trong một giống được sắp xếp theo vần a, b, c. Định loại tên
loài theo các tài liệu phân loại, các khóa định loại của các tác giả: Vũ Quang
Mạnh, 2007 [6].
Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã phân tích, xử lý và định loại đều
được TS. Đào Duy Trinh kiểm định lại.
2.5. Xử lý số liệu.
Sử dụng phương pháp thống kê trong tính toán và xử lý số liệu, trên
nền phần mềm Primer, 2001[19]; phần mềm Excell 2003.
Các công thức tính:

- Số lượngloài: Số lượng loài được tính bằng tổng số loài có mặt trong
điểm nghiên cứu ở tất cả các lần thu mẫu.
-Số lượngcá thể: Số lượng cá thể được tính bằng tổng số cá thể của các
loài có mặt trong địa điểm nghiên cứu của tất cả các lần thu mẫu.
- Chỉ số đa dạng loài (H’):
10


s

H '= ∑
i =1

ni
n 
× ln i 
N
N

Trong đó: s - số lượng loài;
ni - số lượng cá thể của loài thứ i

N - tổng số lượng cá thể trong sinh cảnh nghiên cứu.
Giá trị H’ dao động trong khoảng từ 0 đến ∞
Chỉ số đa dạng (H’): được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay số lượng
loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài trong
quần xã.
- Chỉ số đồng đều Pielou (J’)
J’=


H'
ln S

Trong đó: H’ – chỉ số đa dạng loài
S - số loài có trong sinh cảnh
Giá trị J’ dao động trong khoảng từ 0 đến 1
- Độ ưu thế (D)

Trong đó: D : độ ưu thế
na: số lượng cá thể của loài a
n : tổng số cá thể của toàn bộ mẫu theo sinh cảnh hay
địa điểm
Theo Ermilov và Chistyakov, 2007: loài Oribatida ưu thế là những
loài có độ ưu thế đạt giá trị 5% trở lên [15].
2.6. Một vài nét khái quát về vườn quốc gia Tam Đảo
2.6.1. Vị trí địa lý
Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trên địa bàn của 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Thái
Nguyên và Tuyên Quang, cách Hà Nội 75 km về phía Tây Bắc, cách thành
phố Vĩnh Yên 13 km về phía Bắc . Nằm trên dãy núi Tam Đảo, chạy dài trên
11


80km, rộng 10-15km, theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Trụ sở vườn quốc gia
cách thủ đô Hà Nội khoảng 80 km về phía bắc. Toạ độ địa lý:
Từ 21021' đến 21042' độ vĩ Bắc
Từ 105013' đến 105044' độ kinh Đông
2.6.2. Khí hậu
Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
chia làm 2 mùa là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10,
mưa tập trung vào các tháng 7 và 8, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm

sau. Nhiệt độ bình quân năm 180C ở độ cao trên 700 m và 230C ở chân núi, độ
ẩm trung bình hàng năm trong khu vực từ 80 – 87 %, lượng mưa bình quân
năm 1603 mm (vùng có độ cao <700m), và 2630 mm (vùng trên 700 m)
Hướng gió thịnh hành là đông bắc (mùa khô), gió tây nam (mùa mưa)
khí hậu trong vườn quốc gia Tam Đảo mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới
gió mùa, mát về mùa hè và lạnh vào mùa đông, đặc biệt về mùa đông thì nhiệt
độ rất thấp, lại có sương mù, sương muối ở vùng cao trên 700 m nên ít nhiều
có ảnh hưởng đến sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là khâu gieo ươm cây giống.
Từ độ cao trên 900m trở lên, khí hậu mát mẻ quanh năm, thích hợp cho nhiều
loài cây á nhiệt đới sinh trưởng và phát triển.
2.6.3. Đất đai
Nhìn chung các loại đá mẹ hình thành nên dãy Tam Đảo khá cứng,
thành phần khoáng có nhiều thạch anh, muscovit khó phân hoá nên hình thành
các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, cấp hạt thô, dễ bị rửa trôi và xói mòn,
nhất là ở những nơi có độ dốc cao, đất bị xói mòn mạnh để trơ phần đá mẹ.
Theo nguồn gốc phát sinh, trong khu vực có 4 loại đất chính sau:
* Đất feralit vàng nhạt trên núi trung bình: Phát triển trên đá Macma
axid kết tinh chua: Rionit, Daxit, Granit. Diện tích 6968ha, chiếm 17,1% tổng
diện tích tự nhiên. Độ dày tầng đất trung bình ở nơi có độ dốc thấp. Nơi độ

12


dốc cao đất bị xói mòn có tầng mỏng, có nơi trơ đá mẹ. Phân bố chủ yếu ở
độ cao trên 700m.
* Đất feranit màu vàng đỏ trên núi thấp: Phát triển trên đá Macma
axid kết tinh chua: Rionit, Daxit, Granit. Diện tích 9292ha, chiếm 17,8%.
Tầng đất mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, nghèo mùn, đá lộ đầu hơn 75%. Phân
bố quanh sườn Tam Đảo ở độ cao 400-700m.
* Đất feranit đỏ vàng: Diện tích 24.641ha, chiếm 47%, phát triển trên

nhiều loại đá mẹ: Phiến thạch sét, Phiến thạch mica và Sa thạch. Tầng đất
dày, thành phần cơ giới nhẹ. Phân bố ở độ cao 200-400m.
* Đất dốc tụ và phù sa ven sông suối: Diện tích 9497ha, chiếm 18,1%,
thành phần cơ giới trung bình, tầng đất dày, độ ẩm cao, màu mỡ. Phân bố chủ
yếu ở các thung lũng hẹp giữa các dãy núi và ven sông suối.
2.6.4. Tài nguyên sinh vật
Hệ thực vật
Theo kết quả điều tra từ 1997-2000, đã ghi nhận được tại vườn quốc
gia Tam Đảo 1282 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 660 chi, 179 họ.
Trong số 1282 loài thực vật được phát hiện tại Tam Đảo có 66 loài cây quý
hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam: trầm hương, kim tuyến, trầu tiên, vù
hương, đỗ trọng bắc, sưa bắc bộ, vàng tâm, đinh hương, kim giao vv. Đặc
biệt, trong số đó có 42 loài thực vật được coi là đặc hữu của vườn quốc gia
Tam Đảo (nguồn: Các VQG Việt Nam, 2001).
Mặc dù đây mới chỉ là những ghi nhận bước đầu, chắc chắn trong
tương lai sẽ còn nhiều loài được phát hiện tại khu vực, nhưng số liệu trên cho
thấy vườn quốc gia Tam Đảo là nơi có mức độ đa dạng cao về thành phần loài
thực vật và là nguồn gen vô giá cho bảo tồn đa dạng sinh học.
Hệ động vật rừng
Theo kết quả điều tra, tính đến năm 2003, đã phát hiện được tại vườn
quốc gia Tam đảo 70 loài thú, 248 loài chim, 132 loài bò sát 62 loài ếch nhái
13


và 651 loài côn trùng. Với số liệu trên, nếu đánh giá theo chỉ số đa dạng sinh
học thì khu hệ động vật Tam Đảo có mức độ đa dạng rất cao về bộ, họ và đa
dạng cao về thành phần loài so với toàn quốc.
2.6.5. Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân số
Theo số liệu của vườn quốc gia (2001), vùng đệm của vườn quốc gia

Tam Đảo bao gồm 23 xã và thị trấn thuộc 6 huyện thị. Tổng dân số trong
vùng trên 148000 người, thuộc 29598 hộ. Số người trong độ tuổi lao động
89460, trong đó lao động nông nghiệp 84678 người, chiếm 94,65%. Tỷ lệ
tăng dân số 1,0-2,0%.
Trong những năm gần đây với sự hỗ trợ của nhà nước, vườn quốc gia
và các tổ chức khác, nhiều dự án phát triển kinh tế-xã hội vùng đệm đã được
triển khai. Do đường sá, giao thông được mở mang đi lại thuận tiện tạo điều
kện cho người dân trong vùng giao lưu phát triển kinh tế, đổi mới kỹ thuật
canh tác, cơ cấu cây trồng vật nuôi, đời sống người dân được cải thiện khá
hơn trước. Mặc dù vậy, nhìn chung trong khu vực kinh tế người dân còn rất
nhiều khó khăn do phương thức canh tác lạc hậu, năng suất cây trồng thấp,
thiếu đất sản xuất, chậm đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu ngành
nghề. Những khó khăn trên của người dân là áp lực lớn đối với tài nguyên
rừng của vườn quốc gia Tam Đảo.
Giao thông
Trong khu vực vườn quốc gia có đường quốc lộ 2B từ thị xã Vĩnh Yên
đến thị trấn Tam Đảo dài 24km, đường được nâng cấp, mở rộng hiện đại phục
vụ khách du lịch và giao thương trong vùng. Phía đông bắc Tam Đảo có quốc
lộ 13A từ Thái Nguyên qua Đại Từ đến Đèo Khế, dài 80km, phía tây nam có
đường cấp phối từ Đèo Khế qua Vĩnh Linh tới hồ Đại Lải, dài 60km. Hầu hết
các xã trong khu vực đều có đường cấp phối rộng, đảm bảo giao thông thuận
lợi. Nhìn chung, trong khu vực vườn quốc gia và vùng đệm, hệ thống giao
14


thông rất phát triển phục vụ tốt cho nhu cầu đi lại, giao lưu phát triển kinh tế,
xã hội của địa phương.
Y tế, giáo dục văn hoá
Các xã quanh khu vực đều có trường tiểu học và trung học cơ sở, đảm
bảo nhu cầu học tập của trẻ em trong độ tuổi đi học. Những nơi trọng điểm có

trường phổ thông trung học. Phần lớn các trường được kiên cố hoá, khang
trang.
Các xã đều có trạm xá, có đủ đội ngũ y, bác sỹ, giường bệnh, trang
thiết bị, thuốc men phục vụ khám, chữa bệnh tại chỗ cho người dân.

15


CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đa dạng thành phần loài ve giáp (Acari:Oribatida) ở sinh cảnh đất
canh tác và vườn quanh nhà tại vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc
3.1.1. Thành phần loài ve giáp ở vườn quanh nhà, đất canh tác
Cho đến nay, các loài Oribatida ở đất canh tác, vườn quanh nhà tại
vườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc ghi nhận 40 loài, 27 giống, 17 họ.
Trong số 40 loài Oribatida ghi nhận có 38 loài xác định tên khoa học và 2
loài chưa định tên gồm: Cultroribula sp..; Unguizetes sp.
Trên cơ sở các mẫu ve giáp ở các địa điểm, sinh cảnh nghiên cứu, mẫu
vật lưu trữ ở phòng thí nghiệm cũng như các tài liệu tham khảo của TS. Đào
Duy Trinh, PGS.TS. Vũ Quang Mạnh, chúng tôi tin rằng trong 2 loài chưa
định tên ở trên là loài mới cho khoa học. Tuy nhiên trong khuôn khố của một
luận văn cử nhân, do điều kiện hạn chế về mặt thời gian, nên chúng tôi chưa
định rõ được tên các loài này.
Bảng 3.1. Thành phần loài và sự phân bố của ve giáp ở vườn quanh nhà,
đất canh tác tại vườn quốc gia Tam Đảo

STT

Danh sách loài

ĐCT


VQN

A1 A2 A1 A2
I

EUPHTHIRACARIDAE JACOT, 1930
Giống Rhysotritia Maerkel et Meyer, 1959
1 Rhysotritia ardua (C. L. Koch, 1841)
2 Rhysotritia rasile Mahunka, 1982

II

LOHMANNIIDAE BERLESE, 1916
Giống Lohmannia Michael, 1898

16

x
x


3 Lohmannia javana Balogh, 1961

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

Giống Papilacarus Kunst, 1959
4 Papilacarus aciculatus (Berlese, 1905)
5 Papilacarus arboriseta Vu et Jeleva, 1987
6 Papilacarus undrirostratus Aoki, 1964

x

x

Giống Meristacarus Grandjean, 1934
7 Meristacarus madagaskarensis Balogh, 1961
III

x

TRHYPOCHTHONIDAE WILLMANN,

1931
Giống Archeozetes Grandjean, 1931
8 Archegozetes longisetosus Aoki, 1965

IV

x

x

x

x

NANHERMANNIIDAE SELLNICK, 1928
Giống Nanhermannia Berlese, 1913
9 Nanhermannia thainensis Aoki, 1965

V

x

x

HERMANNIIDAE SELLNICK, 1928
Giống Phyllhermannia Berlese, 1916
10 Phyllhermannia similis Balogh et Mahunka,
1967

VI


x

MICROTEGEIDAE BALOGH, 1972
Giống Microtegeus Berlese, 1916
11 Microtegeus reticulatus Aoki, 1965

VII

x

EREMULIDAE GRANDJEAN, 1965
Giống Eremulus Berlese, 1908
12 Eremulus evenifer Berlese, 1913

VIII

EREMOBELBIDAE BALOGH, 1961

17

x


Giống Eremobelba Berlese, 1908
13 Eremobelba capitata Berlese, 1912
IX

x


ASTEGISTIDAE BALOGH, 1961
Giống Cultroribula Berlese, 1908
14 Cultroribula lata Aoki, 1961
15 Cultroribula sp.

X

x
x

x

x

CARABODIDAE C. L. KOCH, 1837
Giống Gibbicepheus Balogh, 1958
16 Gibbicepheus baccanensis Jeleva et Vu, 1987

XI

x

OTOCEPEIDAE BALOGH, 1961
Giống Acrotocepheus Berlese, 1905
17 Acrotocepheus discrepans Balogh et

x

x


Mahunka, 1967
18 Acrotocepheus duplicornutus Aoki, 1965

x

19 Acrotocepheus triplicornutus Balogh et

x

Mahunka, 1967
Giống Dolicheremaeus Jacot, 1938
20 Dolicheremaeus aoki (Balogh et Mahunka,

x

x

x

x

1967)
21 Dolicheremaeus inaequalis Balogh et

x

Mahunka, 1967
22 Dolicheremaeus lineolatus Balogh et

x


Mahunka, 1967
23 Dolicheremaeus ornata (Balogh et Mahunka,

18

x

x


1967)
XII

EREMELLIDAE BALOGH, 1961
Giống Eremella Berlese, 1913
24 Eremella vestita Berlese, 1913

XIII

x

x

x

x

OPPIIDAE GRANDJEAN, 1954
Giống Pulchroppia Subias et Balogh, 1989


25 Pulchroppia vietnamica (Balogh et Mahunka,

x

1967)
Giống Karenella Hammer, 1962
26 Karenella acuta (Csiszar, 1961)

x

Giống Cryptoppia Csiszár, 1961
27 Cryptoppia elongata Csiszar, 1961

x

Giống Lasiobelba Aoki, 1959
28 Lasiobelba remota Aoki, 1959
XIV

x

MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN, 1960
Giống Unguizetes Sellnick, 1925

29 Unguizetes clavatus Aoki, 1967
30 Unguizetes sp.
XV

x

x

x

x

x

XYLOBATIDAE J. BALOGH ET P.
BALOGH, 1984
Giống Brasilobates Pérez-Inigo et Baggio,
1980
31 Brasilobates maximus Mahunka, 1988
Giống Setoxylobates Balogh et Mahunka,

19

x


1967
32 Setoxylobates foveolatus Balogh et Mahunka,

x

x

1967
Giống Perxylobates Hammer, 1972
33 Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988

34 Perxylobates vermiseta (Balogh et Mahunka,

x

x

x

x

x

1968)
35 Perxylobates vietnamensis (Jeleva et Vu,

x

x

x

1987)
Giống Xylobates Jacot, 1929
36 Xylobates capucinus (Berlese, 1908)

x

37 Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904)
XVI


x

x

PROTORIBATIDAE J. BALOGH ET P.
BALOGH, 1984
Giống Liebstadia Oudemans, 1906

38 Liebstadia humerata Sellnick, 1928
XVII

x

HAPLOZETIDAE GRANDJEAN, 1936
Giống Peloribates Berlese, 1908

39 Peloribates pseudoporosus Balogh et

x

x

Mahunka, 1967
Giống Rostrozetes Sellnick, 1925
40 Rostrozetes areolatus (Balogh, 1958)

x
19

Tổng số loài


17
40

20

19

18


Ghi chú:
ĐCT: Đất canh tác

A1: Tầng đất 0 – 10 cm

VQN: Vườn quanh nhà

A2: Tầng đất 11 – 20 cm

3.1.2. Thành phần phân loại học của ve giáp ở vườn quanh nhà, đất canh
tác tại vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc
Kết quả nghiên cứu về thành phần phân loại học trình bày ở bảng 3.2
cho thấy:
Có 4 họ (Lohmanniidae Berlese,1961; Otocepeidae Balogh,1961;
Oppiidae Grandjean, 1954; Xylobatidae J. Balogh et P. Balogh, 1984) có số
loài từ 4 - 7 loài/họ (tương ứng chiếm 10,0% - 17,5% tổng số loài).
4 họ (Euphthiracaridae Jacot 1930; Astegistidae Balogh,1961;
Mochlozetidae Grandjean, 1960; Haplozetidae Grandjean, 1936) có 2
loài/họ ( tương ứng chiếm 5,0% tổng số loài).

Các họ còn lại chỉ có 1 loài/họ (chỉ chiếm 2,5% tổng số loài).
Có 2 họ có số giống nhiều nhất là 4 giống / họ (Oppiidae Grandjean,
1954 ; Xylobatidae J. Balogh et P. Balogh, 1984).
Một họ có 3 giống / họ (Lohmanniidae Berlese,1961).
Hai họ có 2 giống/ họ (Otocepeidae Balogh,1961 ; Haplozetidae
Grandjean, 1936). Các họ còn lại chỉ có 1 giống/ họ.

21


Bảng 3.2. Thành phần phân loại học ve giáp ở vườn quanh nhà, đất canh
tác tại vườn quốc gia Tam Đảo
Tỷ lệ %

Số loài
TT

Họ

so với tổng số

Số
giống

Đã

Chưa

xác


xác

định

định

Tổng

Loài

Giống

1

Euphtiracaridae

1

2

0

2

5,00

3,70

2


Lohmanniidae

3

5

0

5

12,50

11,11

3

Trhypochthonidae

1

1

0

1

2,50

3,70


4

Nanhermanniidae

1

1

0

1

2,50

3,70

5

Hermanniidae

1

1

0

1

2,50


3,70

6

Microtegeidae

1

1

0

1

2,50

3,70

7

Eremulidae

1

1

0

1


2,50

3,70

8

Eremobelbidae

1

1

0

1

2,50

3,70

9

Astegistidae

1

1

1


2

5,00

3,70

10

Carabodidae

1

1

0

1

2,50

3,70

11

Otocepheidae

2

7


0

7

17,50

7,41

12

Eremellidae

1

1

0

1

2,50

3,70

13

Oppiidae

4


4

0

4

10,00

14,81

14

Mochlozetidae

1

1

1

2

5,00

3,70

15

Xylobatidae


4

7

0

7

17,50

14,81

16

Protoribatidae

1

1

0

1

2,50

3,70

17


Haplozetidae

2

2

0

2

5,00

7,41

27

38

2

40

100

100

Tổng số

22



Có 4 giống có số loài nhiều nhất (3 loài/ 1 giống), gồm giống
Papilacarus Kunst, 1959; Acrotocepheus Berlese, 1905; Dolicheremaeus
Jacot, 1938; Perxylobates Hammer, 1972.
Các giống còn lại chỉ có 1-2 loài/ giống.
3.2. Đặc điểm phân bố của ve giáp ở vườn qunah nhà, đất canh tác tại
vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc
3.2.1. Phân bố theo sinh cảnh
Trong số 40 loài nêu trên có 14 loài xuất hiện ở cả 2 sinh cảnh (bảng
3.1), gồm: Lohmannia javana Balogh, 1961; Papilacarus aciculatus (Berlese,
1905); Papilacarus undrirostratus Aoki, 1964; Archegozetes longisetosus
Aoki, 1965; Nanhermannia thainensis Aoki, 1965; Cultroribula sp.;
Acrotocepheus discrepans Balogh et Mahunka, 1967; Dolicheremaeus aoki
(Balogh et Mahunka, 1967) ; Dolicheremaeus lineolatus Balogh et Mahunka,
1967; Eremella vestita Berlese, 1913; Setoxylobates foveolatus Balogh et
Mahunka, 1967;

Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988 ; Perxylobates

vermiseta (Balogh et Mahunka, 1968); Perxylobates vietnamensis (Jeleva et
Vu, 1987) . Có thể xem đây là các loài Oribatida phổ biến ở hai sinh cảnh này
của vườn quốc gia Tam Đảo - Vĩnh Phúc.
3.2.2. Phân bố theo tầng đất
Từ bảng 3.1 ta thấy, số lượng loài ở các sinh cảnh nghiên cứu tại vườn
quốc gia Tam Đảo có sự khác nhau ở các tầng đất khác nhau. Cụ thể:
- Tại sinh cảnh đất canh tác là 36 loài, tuy nhiên số loài phân bố ở tầng
đất từ 0 - 10 cm là nhiều hơn với 19 loài, ở tầng đất 11 – 20 cm là 17 loài.
Trong đó số loài có mặt ở cả 2 tầng là 9 loài (Papilacarus undrirostratus
Aoki, 1964; Archegozetes longisetosus Aoki, 1965; Dolicheremaeus aoki
(Balogh et Mahunka, 1967) ; Eremella vestita Berlese, 1913; Unguizetes sp.;

Brasilobates maximus Mahunka, 1988; Perxylobates brevisetus Mahunka,

23


1988 ) ; Perxylobates vietnamensis (Jeleva et Vu, 1987); Peloribates
pseudoporosus Balogh et Mahunka, 1967).
- Tại sinh cảnh vườn quanh nhà là 37 loài, tầng 0 – 10 cm là 19 loài, ở
tầng đất từ 11 - 20 cm là 18 loài. Trong đó số loài có mặt ở cả hai tầng là 10
loài (Lohmannia javana Balogh, 1961 ; Papilacarus aciculatus (Berlese,
1905) ;

Papilacarus

undrirostratus

Aoki,

arboriseta
1964;

Vu

et

Archegozetes

Jeleva,

1987;


longisetosus

Papilacarus
Aoki,

196 ;

Cultroribula lata Aoki, 1961; Dolicheremaeus aoki (Balogh et Mahunka,
1967); Eremella vestita Berlese, 1913; Cryptoppia elongata Csiszar, 1961;
Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904).
Như vậy, sự phân bố của Oribatida khá đồng đều ở hai sinh cảnh
nghiên cứu (vườn quanh nhà và đất canh tác) của Vườn quốc gia Tam Đảo,
cũng như ở hai độ sâu tầng đất của mỗi sinh cảnh.
3.3. Một số chỉ số định lượng của ve giáp ở vườn quanh nhà, đất canh tác
tại vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc
3.3.1. Số lượng loài
Kết quả nghiên cứu về số loài Oribatida trình bày ở bảng 3.3 cho thấy:
số loài ghi nhận tương đương nhau ở hai sinh cảnh nghiên cứu (cùng 27 loài).

24


Bảng 3.3. Chỉ số định lượng cấu trúc của Oribatida theo tầng ở các sinh
cảnh của VQG Tam Đảo, Vĩnh Phúc
Sinh cảnh
ĐCT

Chỉ số
Số loài


A1

A2

A1

A2

19

17

19

18

27

Số loài chung
Số lượng cá thể

VQN

153

27
121

173


139

274

312

H’

2,19

2,61

J’

0,66

0,79

Ghi chú:
H’: chỉ số đa dạng
J’: chỉ số đồng đều
Xét số loài theo hai độ sâu tầng đất cho thấy tầng đất A1 ở cả 2 sinh
cảnh cũng có số loài tương đương (cùng 19 loài), nhưng trong mỗi sinh cảnh
cụ thể thì tầng A1 có số loài nhiều hơn (tuy không đáng kể) so với số loài thu
được ở tầng đất A2. Cụ thể: ở đất canh tác tầng A1 chỉ nhiều hơn tầng A2 2
loài (ĐCT: A1: 19 loài; A2: 17 loài), còn ở vườn quanh nhà tầng A1 nhiều
hơn tầng A2 1 loài (VQN: A1: 19 loài; A2: 18 loài). Nhìn chung, dù ở đất
canh tác hay vườn quanh nhà thì số loài Oribatida cũng tập trung chủ yếu ở
tầng đất A1 (0-10) cm (bảng 3.3).

3.2.2. Số cá thể
Kết quả nghiên cứu cho thấy: mặc dù số loài ghi nhận ở vườn quanh
nhà tương đương với số loài ở đất canh tác nhưng số cá thể ở vườn quanh nhà
lại nhiều hơn ở đất canh tác (tương ứng: vườn quanh nhà: 312 cá thể, đất canh
25


×