Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp (acari oribatida) tại núi ngọc cát bà thuộc huyện cát hải hải phòng và vùng phụ cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 39 trang )

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất là hệ sinh thái hoàn chỉnh, trong đất có chứa cả các nhân tố vô sinh
và hữu sinh. Trong đó thế giới sinh vật trong đất vô cùng đa dạng và phong
phú. Ở đây có đại diện của hơn 10 ngành động vật sinh sống, ta có thể bắt gặp
hầu hết các đại diện của ngành động vật không xương sống và động vật có
xương sống. Động vật sống trong đất có số lượng và sinh khối lớn, chiếm hơn
90% sinh khối sinh vật cạn và 50% tổng số loài động vật trên trái đất, nên
chúng là thành phần quan trọng tạo nên tính đa dạng của sinh giới. Động vật
đất có vai trò vô cùng quan trọng trong tự nhiên, là thành phần không thể thay
thế trong các quá trình sinh học trong đất và sinh quyển (Vũ Quang Mạnh,
2003) [2].
Trong hệ thống động vật đất, nhóm động vật chân khớp bé
(Microarthropoda), với kích thước cơ thể khoảng 0,1 - 0,2mm đến 2,0 3,0mm thường chiếm ưu thế về số lượng. Hai đại diện chính của nhóm này là
Ve bét (Acari) và Bọ nhảy (Collembola). Ngoài ra còn có các đại diện thuộc
các nhóm động vật không xương sống khác như: Nhiều chân (Myriapoda),
Đuôi nguyên thủy (Protura), Hai đuôi (Diplura), Ba đuôi (Thysanura)…
Ve bét (Acari: Oribatida, còn được gọi là Oribatei hoặc
Cryptostigmata) là những chân khớp có kìm (Arthropoda: Chelicerata), thuộc
lớp hình nhện (Arachnida), có kích thước cơ thể nhỏ khoảng 0,1 − 0,2mm đến
1,0 − 2,0mm. Chúng là một trong những nhóm ve bét đa dạng và phong phú
nhất, đặc biệt trong đất rừng, trong các tầng nông sâu của đất (tập trung hầu
hết ở tầng đất phía trên, từ 0 − 20cm). Oribatida tham gia tích cực trong sự
phân hủy vật chất hữu cơ, trong chu trình nitơ và quá trình tạo đất. Chúng ăn
cả thực vật sống và chết, nấm, rêu, địa y và thịt thối rữa. Nhiều loài là vật chủ

Hoàng Văn Hưng



1

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

trung gian của sán dây (sán sơ mít), một vài loài là động vật ăn thịt. Do có
mật độ quần thể lớn, có thể đạt tới vài trăm nghìn cá thể trong 1m2 đất, thành
phần loài đa dạng, nên việc phát hiện đầy đủ nhóm động vật này sẽ góp phần
làm chủ nguồn tài nguyên đa dạng sinh học, đánh giá đặc điểm khu hệ và tính
chất địa động vật.
Nghiên cứu cấu trúc của quần xã Oribatida có ý nghĩa quan trọng trong
chỉ thị sinh học, các quá trình diễn thế của hệ sinh thái, là cơ sở cho việc quản
lý và khai thác bền vững nguồn tài nguyên môi trường đất. Do có số lượng cá
thể phong phú, dễ thu lượm, dễ nhận dạng, lại rất nhạy cảm với những biến
đổi của các điều kiện môi trường sống, đặc biệt là các tác động của con người
và môi trường tự nhiên nên Oribatida được sử dụng như đối tượng nghiên cứu
mẫu, phục vụ công tác quản lý, kiểm tra đánh giá chất lượng đất và sự ô
nhiễm, thoái hóa đất. Một số nhóm Oribatida còn là đối tượng gây hại trực
tiếp cho cây trồng, là vectơ phát tán và lan truyền một số mầm bệnh và giun
sán kí sinh cây trồng, vật nuôi và con người.
Cho đến nay khu hệ động vật Oribatida Việt Nam mới được nghiên cứu
chưa đầy đủ và đồng bộ ở các vùng lãnh thổ. Nhìn chung các nghiên cứu
Oribatida ở khu vực phía Bắc được tiến hành nhiều hơn nhưng dẫn liệu còn ít
và tản mạn.
Với tất cả lí do trên, tôi đã thực hiện “Nghiên cứu sự biến động thành

phần loài Ve giáp (Acari: Oribatida) tại Núi Ngọc Cát Bà thuộc huyện Cát
Hải – Hải phòng và vùng phụ cận”

Hoàng Văn Hưng

2

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
2. Mục đích nghiên cứu

Bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, tạo tiền đề cho nghiên
cứu và giảng dạy sau này.
3. Nội dung nghiên cứu
Thành phần loài Oribatida ở khu vực nghiên cứu.
Đặc điểm phân bố của Ve giáp theo từng khu vực nghiên cứu.
Những loài ưu thế trong sinh cảnh nghiên cứu.
Độ đồng đều và đa dạng thành phần loài trong sinh cảnh nghiên cứu.

Hoàng Văn Hưng

3

K35B – SP Sinh



Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Bộ Ve giáp (Acari: Oribatida) bao gồm những nhóm ve bét đa dạng và
phong phú nhất, sống trong hệ sinh thái đất và các môi trường liên quan như
là thảm lá rừng và xác vụn thực vật, vỏ cây gỗ, đất và các thảm rêu bám trên
thân cây, và trong tán cây xanh.
Hệ thống phân loại Oribatida, cùng các quan hệ tiến hóa của chúng với
các nhóm ve bét khác được xây dựng và sắp xếp theo hệ thống phân loại của
các tác giả Willmann, 1931; Grandjean, 1954; Sellnick, 1960; Ghilarov et al.,
1975; Balogh J, Balogh J. et al. 1988, 1992. Đây là những chuyên gia nghiên
cứu hệ thống học Oribatida trên thế giới.
Ở Việt Nam những nghiên cứu về Ve giáp được bắt đầu từ những năm
60 và được các tác giả nước ngoài thực hiện, và được mở rộng từ những năm
80 của thế kỉ trước. Trên cơ sở đó đã hình thành một bộ sưu tập khá phong
phú mẫu Oribatida, mà một phần trong đó đã được phân tích tại một số cơ
quan nghiên cứu chuyên ngành của Việt Nam và Quốc tế (Vũ Quang Mạnh,
2007).
Như vậy, việc nghiên cứu phân tích về đặc điểm, cấu trúc, độ đa dạng
thành phần loài, độ ưu thế, chỉ số tương đồng của Oribatida theo sinh cảnh,
theo tầng đất được áp dụng ở các khu vực nghiên cứu nói chung và thị trấn
Cát Bà − Hải Phòng nói riêng để làm cơ sở chỉ ra những tác động tích cực,
tiêu cực của các nhân tố môi trường, con người tới sinh thái đất.
1.2. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới
Vai trò và hoạt động của các nhóm sinh vật sống trong đất từ lâu đã
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Ở Đức, từ năm 1804 với công trình của
Hermann J.F; ở Ý từ năm 1876, 1877 với công trình của Canestrini G. &


Hoàng Văn Hưng

4

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Fanzago F.; ... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về Oribatida chỉ phát
triển mạnh trong thời gian gần đây. Các công trình của Berlese đóng một vai
trò quan trọng và có một vị trí đặc biệt. Ông là một trong số những người
quan tâm đến ve bét ở châu Âu sớm nhất. Chỉ từ năm 1881 đến năm 1923,
ông đứng tên một mình, hoặc là đồng tác giả của 73 công trình nghiên cứu về
Acari, Microarthropoda, Scorpiones. Trong đó, ông đã mô tả khoảng 120 loài
Oribatida. Tuy nhiên, tất cả những loài do Berlese mô tả (hầu hết là loài mới
cho khoa học) đều viết bằng tiếng la tinh, rất ngắn gọn, chỉ gồm một vài nét
gạch đầu dòng. Vì thế sau này, các loài do Berlese mô tả đã được Hammen
(2009) tu chỉnh, sắp xếp lại dựa trên hệ thống phân loại của Grandjean (1954)
và công bố trong công trình “Berlese’s primitive Oribatida mites”.
Khu hệ Oribatida trên thế giới hiện đã mô tả khoảng 10000 loài và thực
tế có thể lên đến 100000 loài theo Balogh J. và Balogh B. (1992), số lượng
giống Oribatida trên thế giới đã tăng từ 700 giống đến 1000 giống chỉ trong
20 năm gần đây. Thậm chí hiện nay ở châu Âu, loài mới vẫn được mô tả đều
đặn hàng năm và ở Bắc Mĩ, khoảng 75% số loài của khu hệ Oribatida còn
chưa được mô tả.
Trong khoảng 20 năm gần đây, các hoạt động nghiên cứu Oribatida

diễn ra mạnh mẽ và nhiều kết quả được công bố.
Đến năm 1999, ve bét (Acari) được coi là cư dân truyền thống của đất và
thảm mục chưa được chú ý đến nhiều. Dẫu sao, độ phong phú của khu hệ Ve bét
sống tự do, cư trú trên tán cây rừng nhiệt đới, ôn đới, được xem như “những sinh
vật sống trôi nổi trên cây” (Wallter et al., 1999) đã được một số tác giả đề cập
tới. Chúng được thu thập từ vỏ cây, rêu, địa y (Trave’, 1963; Andre’ et al.,1984;
Wunderle, 1991; Lindo et al., 2007).
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của
Oribatida theo các hướng: chỉ thị cho chất lượng đất ở mức độ loài hay quần

Hoàng Văn Hưng

5

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

xã, chỉ thị cho thuốc trừ sâu, phân bón... sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
chỉ thị cho môi trường đô thị... [6].
Những lợi thế của Oribatida khi sử dụng chúng như những sinh vật chỉ
thị trong việc đánh giá chất lượng hệ sinh thái trên cạn là ở chỗ: chúng có độ
đa dạng cao, thu lượm với số lượng lớn một cách dễ dàng, ở tất cả các mùa
trong năm, trong nhiều sinh cảnh; việc định loại cá thể trưởng thành tương đối
dễ; hầu hết chúng sống trong tầng hữu cơ của lớp đất màu mỡ và chúng là
nhóm dinh dưỡng không đồng nhất. Chúng bao gồm các taxon được đặc trưng
bởi sự sinh sản nhanh, thời gian sinh sống của các con non và con trưởng

thành dài, khả năng tăng quần thể chậm... (Behan – Pelletire, 1999).
Một số nghiên cứu sơ bộ về chỉ thị sinh học trong môi trường đô thị
cũng cho thấy Oribatida là nhóm động vật nhạy cảm với sự thay đổi chất
lượng không khí (Andre’, 1976; Weighmann, 1972 , 1991).
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế
giới, được nghiên cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và
vai trò chỉ thị.
1.3 . Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam
Trên thế giới, Chân khớp bé được nghiên cứu từ rất sớm nhưng ở Việt
Nam, mãi đến những năm 30 của thế kỷ XX mới bắt đầu được nghiên cứu.
Ban đầu là các nghiên cứu lẻ tẻ của các tác giả nước ngoài kết hợp nghiên cứu
cùng các nhóm sinh vật khác. Sau này chúng được nghiên cứu kỹ và có quy
mô ở nhiều sinh cảnh khác nhau bởi nhóm nghiên cứu của Vũ Quang Mạnh
và cộng sự. Các kết quả nghiên cứu của nhóm Vũ Quang Mạnh và cộng sự đã
được công bố ở một số hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế cũng như trên
các tạp chí chuyên ngành.
Năm 1967, lần đầu tiên trong công trình “New Oribatid from Viet
Nam”, hai tác giả người Hungari là Balogh J. và Mahunka S. đã giới thiệu

Hoàng Văn Hưng

6

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


khu hệ, danh pháp học và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp, trong đó đã
mô tả 29 loài, 4 giống mới cho khoa học.
Từ sau 1975, các tác giả trong nước bước đầu đã tiến hành nghiên cứu
độc lập về Oribatida. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của tác giả
Vũ Quang Mạnh về nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất Cà Mau và
Từ Liêm năm 1980, 1984... [1].
Tiếp theo là hàng loạt các nghiên cứu của nhiều tác giả nhằm đề xuất
phương pháp nghiên cứu, xác định mật độ, thành phần loài, khu hệ (chủ yếu
là nhóm Acari và Collembola) ở một số vùng địa lý, loại đất và kiểu hệ sinh
thái của Việt Nam.
Vũ Quang Mạnh, Vương Thị Hòa (1995) đã giới thiệu danh sách 146
loài và phân loài Oribatida ở Việt Nam và phân tích đặc điểm thành phần loài
của chúng [3].
Năm 2006, Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh đã nghiên cứu Ve giáp
trong cấu trúc của nhóm Chân khớp bé Microarthropoda ở các đai cao địa lý
của vườn quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ. Kết quả cho thấy ảnh hưởng của thời
tiết lên sự phân bố của nhóm Chân khớp bé theo tầng là rất cao và phát hiện
được 8 họ [4].
Nhìn chung trong những năm gần đây, các công trình nghiên cứu và
các báo cáo khoa học về chân khớp bé đã được nghiên cứu ở nhiều địa
phương trong cả nước. Các địa điểm nghiên cứu thuộc nhiều hệ sinh thái khác
nhau, tập trung chủ yếu vào các khu công nghiệp, khu bảo tồn thiên nhiên.
Tuy nhiên, các kết quả đạt được mới chỉ là những bước đi định hướng ban
đầu. Để tìm hiểu thấu đáo vai trò của nhóm động vật chân khớp bé sống trong
môi trường đất, mở ra khả năng khai thác những mặt lợi ích từ chúng, phục vụ
cho khoa học và thực tiễn thì việc nghiên cứu chân khớp bé cần được đẩy
mạnh nghiên cứu trong những năm tiếp theo.

Hoàng Văn Hưng


7

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài ve bét (Acari: Oribatida) thuộc ngành Chân khớp
(Arthropoda), phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata), lớp Hình nhện
(Arachnida), phân lớp ve bét (Acari).
2.2. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012,
Tổng số mẫu là 30 mẫu.
Mẫu sau khi thu đều được phân tích và xử lí số liệu tại phòng thí
nghiệm động vật học của trường Đai học Sư phạm Hà Nội 2.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành thu mẫu đất tại 3 điểm: Chân Núi Ngọc, đỉnh ở Núi
Ngọc và vườn quanh nhà Cát bà – Hải Phòng ở cả 2 tầng đất (0 – 10cm và 11
– 20 cm). Tổng số mẫu đã thu là 30 mẫu (Bảng 2.1)
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
Tại Núi Ngọc,Cát Bà thuộc huyện Cát Hải – Hải phòng và vùng phụ
cận, chúng tôi tiến hành thu mẫu tầng đất theo phương pháp nghiên cưu của
Ghilarov .Mẫu được lấy ở 2 tầng có độ sâu từ 0 đến 10cm (tính từ mặt đất) kí
hiệu là tầng A1, và ở độ sâu 11 đến 20cm kí hiệu là tầng A2. Mỗi mẫu có kích

thước (5 x 5 x 10)cm.
Các mẫu định lượng của đất được thu lặp lại 5 lần ở mỗi tầng và ở mỗi
điểm nghiên cứu. Mỗi mẫu được cho vào 1 túi nilon riêng và được buộc chặt,
bên trong có chứa nhãn ghi đầy đủ các thông số: tầng đất, ngày tháng, địa
điểm… lấy mẫu.

Hoàng Văn Hưng

8

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Bảng 2.1. Địa điểm, tầng đất và số lượng mẫu thu ở Núi Ngọc, Cát Bà –
Hải Phòng
Địa điểm

A1

A2

Tổng

VCB

5


5

10

CNN

5

5

10

ĐNN

5

5

10

Ghi chú:
CNN: Chân Núi Ngọc

A1: tầng đất 0 – 10 cm

ĐNN: Đỉnh Núi Ngọc

A2: tầng đất 11 – 20 cm


VCB: Vườn Cát Bà
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Mẫu sau khi lấy ở thực địa được đưa về phòng thí nghiệm động vật học
của trường để xử lý. Chúng tôi tiến hành tách nhóm động vật chân khớp bé
theo phương pháp phễu lọc “Berlese – Tullgren”.
Mẫu được tách lọc trong điều kiện phòng thí nghiệm 250C – 300C, bảy
ngày đêm rồi tiến hành thu ống nghiệm dưới đáy phễu đã được lọc. Dùng nút
bông bịt kín ống nghiệm và lấy dây chun bó các ống nghiệm của cùng một
tầng tại một địa điểm lại với nhau, sau đó cho vào lọ nhựa có chứa dung dịch
formon 4% để giữ mẫu không bị hỏng.
Xử lý, phân tích Oribatida
Đặt giấy lọc có chia ô lên phễu lọc, đổ dung dịch có chứa trong ống
nghiệm lên tờ giấy lọc đó, tráng lại nhiều lần bằng nước cất để tránh sót mẫu.
Đến lúc đã lọc hết dung dịch trong giấy lọc thì đặt giấy lọc ra đĩa Petri và tiến
hành phân tích dưới kính hiển vi. Khi soi mẫu dưới kính hiển vi, dùng kim
phân tích nhặt từng cá thể động vật để tập trung tại một góc của đĩa Petri,

Hoàng Văn Hưng

9

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

nhận dạng và ghi số liệu từng nhóm vào theo dõi. Tất cả các mẫu phân tích
sau khi được TS. Đào Duy Trinh kiểm tra sẽ được đưa vào ống nghiệm nhỏ

có chứa dung dịch bảo quản, bên trong có nhãn ghi địa điểm, thời gian, sinh
cảnh tầng đất rồi nút lại bằng bông không thấm nước. Để giữ mẫu được lâu và
không bị giòn, nát cần bổ sung vài giọt dung dịch định hình glixerin.
Định loại Oribatida
Trước khi định loại cần phải tẩy màu, làm trong vỏ kitin cứng. Quá
trình này diễn ra trong vài ngày hoặc lâu hơn nên cần nhặt Oribatida riêng ra
một lam kính lõm. Đưa lam kính lõm quan sát dưới kính hiển vi. Dùng kim
chuyển từng Oribatida vào chỗ lõm dưới lamen để quan sát các tư thế khác
nhau theo hướng lưng bụng và ngược lại.
Sau khi quan sát, định loại xong, tất cả Oribatida đã được định tên cùng
sinh cảnh được chuyển vào ống nghiệm 5 x 40mm có chứa dung dịch formon
4%, nút chặt bằng bông để bảo quản lâu dài.
Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã phân tích, xử lý và định loại đều
được TS. Đào Duy Trinh kiểm định lại.
2.4.3. Xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê trong tính toán và xử lý số liệu, trên
nền phần mềm Primer, 2001; phần mềm Excell 2003.
Các công thức tính:
- Độ ưu thế D:

Trong đó: D : độ ưu thế
na: số lượng cá thể của loài a
n: tổng số cá thể của toàn bộ mẫu theo sinh cảnh hay địa điểm
Theo Ermilov và Chistyakov, 2007: loài Oribatida ưu thế là những loài
có độ ưu thế đạt giá trị 5% trở lên.

Hoàng Văn Hưng

10


K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

- Chỉ số Shannon – Weaver (H’)
ni ni
ln
n
i =1 n
s

H ' = −∑

Trong đó: s: Số lượng loài.
ni: Số lượng cá thể trong sinh cảnh nghiên cứu
- Chỉ số đông đều (J’)

J' =

H'
ln S

Trong đó: H’: Độ đa dạng.
S : Số loài có trong sinh cảnh.
Giá trị J’ dao động trong khoảng từ 0 đến 1.

2.5. Vài nét khái quát về khu vực nghiên cứu Núi Ngọc, Cát Bà – Hải

Phòng.
2.5.1. Vị trí địa lý, địa hình

Hình 2.1. Vị trí địa lý Cát Bà – Hải Phòng [ 8 ].

Hoàng Văn Hưng

11

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Hình 2.2. Vị trí Núi Ngọc ở thị trấn Cát Bà thuộc huyện Đảo Cát Hải
– Hải Phòng [ 8 ].
Quần đảo Cát Bà cách Hải Phòng 45 km về phía đông, cách thành phố
Hạ Long 25 km về phía nam và cách Hà Nội khoảng 150 km về phía Đông
Nam. Phía bắc giáp Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, phía tây giáp đảo Cát
Hải, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, phía đông và nam là Biển Đông
trong khoảng tọa độ :
Vĩ độ Bắc: 200 42’40” – 200 52’45”
Kinh độ Đông: 1060 54’11” - 1070 07’05”
Tọa độ trung tâm là: 20047’42” vĩ độ Bắc, 1070 00’38” kinh độ Đông.

Hoàng Văn Hưng

12


K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Tổng diện tích đất tự nhiên của khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà
là 26240 ha, trong đó diện tích mặt đất (trên quần đảo) 17040 ha và 9200 ha
mặt nước biển.
2.5.2. Khí hậu và thủy văn
Đảo Cát Bà thuộc ven bờ Hải Phòng có khí hậu vừa mang đặc điểm
chung của đồng bằng Bắc bộ, vừa có những đặc điểm khí hậu riêng của một
đảo đá vôi ven biển.
Tính chất nhiệt đới, có một mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 5 tháng 9) và một mùa đông lạnh ít mưa (từ tháng 11 – tháng 3).
Tính biến động thường xuyên của thời tiết và khí hậu do sự luân phiên
tranh chấp của các khối không khí có bản chất khác nhau.
Là một đảo ven bờ, nên khu vực còn chịu sự chi phối của biển dưới tác
động của gió biển - đất làm điều hoà khí hậu, tạo nên mùa đông ấm hơn và
mùa hè mát hơn so với đất liền.
Lượng mưa: 1700 - 1800 mm/năm, dao động theo mùa. Mùa mưa chủ
yếu là tháng 7, 8.
Nhiệt độ trung bình: 25 - 28°C, dao động theo mùa. Về mùa hè có thể
lên trên 30°C, về mùa đông trung bình 15-20°C nhưng có thời điểm có thể
xuống dưới 10°C (khi có gió mùa đông bắc).
Độ ẩm trung bình: 85%.
Dao động của thủy triều: 3,3 - 3,9 mét.
Độ mặn nước biển: Từ 0,930% (mùa mưa) đến 3,111% (mùa khô)
2.5.3. Thổ nhưỡng

Đảo Cát Bà chủ yếu là núi đá vôi xen kẽ nhiều thung lũng hẹp chạy dài
theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, bao gồm một vùng núi non hiểm trở có độ
cao <500 m, trong đó đa phần là nằm trong khoảng 50 - 200 m. Ở đây bắt gặp
chủ yếu một số loại đất như là:

Hoàng Văn Hưng

13

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nhóm đất feralit đỏ nâu hoặc nâu vàng triển trên sản phẩm đá vôi ít
chua hay gần trung tính.
Nhóm đất thung lũng cạn phát triển trên đá vôi hoặc sản phẩm đá vôi,
tập trung ở các thung lũng, được rừng tự nhiên che phủ.
Nhóm đất thung lũng ngập nước, phát triển chủ yếu do quá trình bồi tụ,
mùa mưa thường ngập nước, tầng đất mặt trung bình hoặc mỏng.
Nhóm đất bồi tụ ngập mặn do sản phẩm bồi tụ ở cửa sông, phát triển
trên vùng ngập mặn ở Cái Viềng, Phù Long.
2.5.4 Tài nguyên sinh vật
Tài nguyên thực vật
Rừng ở đây có một kiểu chính là kiểu rừng mưa nhiệt đới thường xanh,
nhưng do điều kiện địa hình, đất đai và chế độ nước nên ở đây có một số kiểu
rừng phụ: rừng trên núi đá vôi, rừng ngập mặn ven đảo, rừng ngập nước ngọt
trên núi. Rừng ở đây cũng có nhiều kiểu sinh thái rừng cá biệt như quần hợp

Kim giao (tại khu vực gần đỉnh Ngự Lâm); đơn ưu và nước (khu vực Ao
Ếch).
Thành phần thực vật có 741 loài khác nhau, nhiều loại cây gỗ quý như
trai lý, lát hoa, lim xẹt, dẻ hoa, kim giao, gõ trắng, chò đãi. Thực vật ngập
mặn 23 loài, rong biển 75 loài, thực vật phù du 199 loài.
Động vật
Trên khu vực có 282 loài trong đó 32 loài thú, 78 loài chim, 20 loài bò
sát và lưỡng cư, 11 loài ếch nhái. Đặc biệt có loài voọc Cát Bà (tên khoa
học: Trachypithecus poliocephalus phân loài poliocephalus) tức voọc đầu vàng
(một số tài liệu gọi nhầm là voọc đầu trắng, tên khoa học: Trachypithecus
poliocephalus phân loài leucocephalus chỉ có ở Trung Quốc) là loài đặc hữu
hẹp của Cát Bà, hiện tại chỉ còn 66 cá thể, chỉ còn phân bố ở các núi ven bờ

Hoàng Văn Hưng

14

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

biển (theo số liệu cung cấp của chi cục kiểm lâm VQG Cát Bà, năm 2007).
Động vật phù du 98 loài, cá biển 196 loài, san hô 177 loài.
2.5.5. Điều kiện kinh tế - xã hội
Huyện đảo Cát Hải bao gồm đảo Cát Bà và đảo Cát Hải, nằm ở phía
Đông Bắc thành phố Hải Phòng. Cát Bà là quần thể các núi đá vôi nằm ở
phía nam vịnh Hạ Long, gồm 1 thị trấn và 6 xã. Dân số trung bình của huyện

Cát Hải tính đến năm 2005 là 27827 người.
Dân cư phân bố không đồng đều với mật độ bình quân các xã vùng
đệm: 127 người/km2, mật độ này thấp hơn so với mật độ bình quân của huyện Cát
Hải là 207 người/km2. Sự phân bố dân cư không đồng đều, cao nhất là Thị trấn Cát
Bà với 4596 gười/km2 và thấp nhất là xã Việt Hải 7 người/km2. Thành phần dân
tộc chủ yếu là người kinh sống tập trung ở khu vực có vị trí thuận lợi hơn về
các hoạt động mưu sinh.
Mức thu nhập bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 4,7 triệu
đồng/năm, cao hơn mức thu nhập bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ có mức
sống từ trung bình trở lên chiếm 94% tổng số hộ trên địa bàn. Tuy nhiên tỷ lệ
hộ nghèo vẫn chiếm 5,9%.
Bởi cấu tạo núi đá vôi nên Cát Bà như được thiên nhiên tạo ra đầy dáng
vẻ kỳ vĩ, phủ trên địa hình hiểm trở là cả một thảm thực vật đa dạng và phong
phú đầy hấp dẫn nên Cát Bà rất phát triển về du lịch. Trong những năm gần
đây Cát Bà đã nổi lên như một điểm sáng của ngành du lịch trong cả nước.
Ngoài phát triển du lịch, thị trấn Cát Bà còn có ngành nuôi trồng thủy sản với
các loài cá hay các loài nhuyễn thể như tu hài, vẹm xanh phục vụ ngành du
lịch, dịch vụ tại địa phương và xuất khẩu.
Do địa thế Cát Bà nằm cách biệt với đất liền nên mạng lưới thống giao
thông nói riêng và các cơ sở hạ tầng nói chung vẫn còn nhiều mặt hạn chế.

Hoàng Văn Hưng

15

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đa dạng thành phần loài Oribatida ở Núi Ngọc, Cát Bà – Hải Phòng
3.1.1. Thành phần loài Oribatida ở Núi Ngọc, Cát Bà – Hải Phòng
Danh sách loài Oribatida thu thập được tại Núi Ngọc, Cát Bà – Hải
Phòng, có tổng số 46 loài, 33 giống, 20 họ. Trong danh sách này, thành phần
loài Oribatida được xếp theo hệ thống phân loại của Balogh J. et al., 1992; Vũ
Quang Mạnh, 2007 và các tác giả Willmann, 1931; Grandjean, 1954;
Sellnick, 1960; Ghilarov, 1975, trình bày trong bảng 3.1 và bảng 3.2.
Bảng 3.1. Thành phần loài và sự phân bố của Ve giáp ( Oribatida) độ sâu
của các tầng đất ở Núi Ngọc, Cát Bà – Hải Phòng.
STT loài

STT họ
I

A1

I1

Rhysotritia Maerkel et Meyer, 1959

1

Rhysotritia rasile, Mahunka, 1982

II
II2


A2

A1

A2

X

Papillacarus Kunst, 1959

Papilacarus

undrirostratus

X

Aoki,

1964
HERMANNIELLIDAE GRANDJEAN,

III

1934

III1
3
IV

4


A1

VCB

LOHMANNIIDAE BERLESE, 1916

2

3

A2

ĐNN

EUPHTHIRACARIDAE JACOT, 1930

1

2

CNN

Loài

Hermanniella Berlese, 1908
Hermanniella thani Mahunka, 1987

X


ASTEGISTIDAE BALOGH, 1961

IV1

Cultroribula Berlese, 1908

4

Cultroribula lata Aoki, 1961

Hoàng Văn Hưng

16

X

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

V

PELOPPIIDAE BALOGH, 1943

5

V1

5

6

6

Furcoppia parva Balogh et Mahunka, 1967

VI1

Aokiella florens Balogh et Mahunka, 1967

X

8

Aokiella sp.

X

OTOCEPHEIDAE BALOGH, 1961

VII1

VII2

VIII

Dolicheremaeus Jacot, 1938
Dolicheremaeus


lineolatus

Balogh

et

X

Mahunka, 1967
Fissicepheus Balogh et Mahunka, 1967
Fissicepheus elegans Balogh et Mahunka, X
1967
EREMELLIDAE BALOGH, 1961

VIII1 Eremella Berlese, 1913
11
IX

11

12

13

Eremella vestita Berlese, 1913

X

OPPIIDAE GRANDJEAN, 1954


IX1

Pulchroppia Subias et Balogh, 1989

12

Pulchroppia granulata Mahunka, 1988

IX2

Lasiobelba Aoki, 1959

13

Lasiobelba remota Aoki, 1959

IX3

Oppia C. L. Koch, 1836

14

Oppia kuhnelti Csiszar, 1961
CYMBAEREMAEIDAE

X
14

Aokiella Balogh et Mahunka, 1967


7

10

10

X

CARABODIDAE C. L. KOCH, 1837

9
9

X

1967
Furcoppia Balogh et Mahunka, 1966

VII
8

Ceratoppia crassiseta Balogh et Mahunka,

V2
VI

7

Ceratoppia Berlese, 1908


X

X

X

X

X

SELLNICK,

1928
X1

Scapheremaeus Berlese, 1910

15

Scapheremaeus crassus Mahunka, 1988

16

Scapheremaeus foveolatus Mahunka, 1987

Hoàng Văn Hưng

17


X
X

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

XYLOBATIDAE J. BALOGH ET P.

XI
15

16

BALOGH, 1984

XI1

Brasilobates Pérez-Inigo et Baggio, 1980

17

Brasilobates maximus Mahunka, 1988

XI2

Setoxylobates Balogh et Mahunka, 1967


18
17

Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988
Perxylobates

vermiseta

(Balogh

X
et X

Mahunka, 1968)
Perxylobates vietnamensis (Jeleva et Vu, X
1987)
Xylobates Jacot, 1929

22

Xylobates capucinus (Berlese, 1908)

X

23

Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904)

X


24

Xylobates monodactylus (Haller, 1804)

X

25

Xylobates sp.

X

XII1
XIII

X

X

PROTORIBATIDAE J. BALOGH ET
P. BALOGH, 1984
Liebstadia Oudemans, 1906
Liebstadia humerata Sellnick, 1928

X

X

HAPLOZETIDAE GRANDJEAN, 1936


XIII1 Peloribates Berlese, 1908
27

Peloribates

pseudoporosus

Balogh

et X

Mahunka, 1967

XIII2 Rostrozetes Sellnick, 1925
28
XIV

22

X

XI4

26

21

et


Mahunka, 1967

19

XII

20

Balogh

Perxylobates Hammer, 1972

21

19

foveolatus

XI3

20

18

Setoxylobates

X

XIV1


Rostrozetes

trimorphus

Balogh

et X

X

X

X

Mahunka, 1979
SCHELORIBATIDAE

GRANDJEAN,

1953
Nanobates Balogh et Balogh, 1980

Hoàng Văn Hưng

18

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

29
23

XIV2

X

31

Scheloribates fimbriatus Thor, 1930

X

32

Scheloribates latipes (C. L. Koch, 1841)

X

35

Scheloribates sp.

XV1
XV2
38
XVI


X

X
X
X

Tuberemaeus Sellnick, 1930
Tuberemaeus sculpturatus Mahunka, 1987

X

Oripoda Bank, 1904
Oripoda excavata Mahunka, 1988

X

X

X

X

Truncopes Grandjean, 1956
Truncopes orientalis Mahunka, 1987
CERATOZETIDAE JACOT, 1925

XVI1 Allozetes Berlese, 1914
39


XVII
28

X

ORIPODIDAE JACOT, 1925

37

27

X

1840)
Scheloribates praeincisus (Berlese, 1916)

XV

26

Scheloribates pallidulus (C. L. Koch, X

34

36

X

Scheloribates Berlese, 1908
Scheloribates cruciseta Vu et Jeleva, 1987


XIV3

25

X

30

33

24

Nanobates clavatus Mahunka, 1988

Allozetes pusillus Berlese, 191
AUSTRACHIPTERIIDAE

X
LUXTON,

1985

XVII Lamellobates Hammer, 1958
1

40
XVIII
29


ORIBATELLIDAE JACOT, 1925

I1
XIX

Oribatella sculpturata Mahunka, 1987

X

ACHIPTERIDAE THOR, 1929

XIX1 Parachipteria Hammen, 1952
42

31

X

XVII Oribatella Bank, 1895
41

30

Lamellobates palustris Hammer, 1958

Parachipteria distincta (Aoki, 1959)

X

X


XIX2 Achipteria Berlese, 1885

Hoàng Văn Hưng

19

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

43

Achipteria curta Aoki, 1970

XX
32

33

X

X

GALUMNIDAE JACOT, 1925

XX1


Galumna Heyden, 1826

44

Galumna flabellifera Hammer, 1952

45

Galumna obvia (Berlese, 1915)

XX2

Pergalumna Grandjean, 1936

46

X
X

Pergalumna kotschyi Mahunka, 1989

X

Số loài theo độ sâu tầng đất

20

Số loài theo sinh cảnh


6

24

23

12
32

0

1
1

Ghi chú:
CNN: Chân Núi Ngọc

A1: Tầng đất 0 – 10 cm

ĐNN: Đỉnh Núi Ngọc

A2: Tầng đất 11 – 20 cm

VCB : Vườn Cát Bà

X: Chỉ sự bắt gặp

Qua quá trình nghiên cứu ở khu vực Núi Ngọc Cát Bà thì chúng tôi đã
xắc định được 20 họ, 33 giống, 43 loài đã xác định tên, và 3 loài ở dạng sp. là
Aokiella sp., Xylobates sp., Scheloribates sp.

Sinh cảnh Đỉnh Núi Ngọc có số lượng loài nhiều nhất là 32 loài (chiếm
69,57% so với tổng số loài), tiếp theo là chân Núi Ngọc có số lượng loài là 23
loài (chiếm 50% so với tổng số loài) và cuối cùng là vườn Cát Bà có số lượng
loài là loài 1 loài (chiếm 2,17% so với tổng số loài).

Hoàng Văn Hưng

20

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

3.1.2. Thành phần phân loại học
Bảng 3.2. Thành phần phân loại học của Ve giáp ở tại Núi Ngọc, Cát Bà – Hải Phòng
ĐNN

CNN
STT

Taxon

VCB

Số

Số


Số

Số

Số

Số

giống

loài

giống

loài

giống

loài

Số

Số

Tỉ lệ % so với tổng

giống

loài


Giống

Loài

1

EUPHTHIRACARIDAE

0

0

1

1

0

0

1

1

3,03

2,17

2


LOHMANNIIDAE

0

0

1

1

0

0

1

1

3,03

2,17

3

HERMANNIELLIDAE

0

0


1

1

0

0

1

1

3,03

2,17

4

ASTEGISTIDAE

0

0

1

1

0


0

1

1

3,03

2,17

5

PELOPPIIDAE

0

0

1

1

1

1

2

2


6,06

4,34

6

CARABODIDAE

0

0

1

2

0

0

1

2

3,03

4,34

7


OTOCEPHEIDAE

2

2

0

0

0

0

2

2

6,06

4,34

8

EREMELLIDAE

0

0


1

1

0

0

1

1

3,03

2,17

9

OPPIIDAE

1

1

3

3

0


0

3

3

9,09

6,52

10

CYMBAEREMAEIDAE

1

1

1

1

0

0

1

2


3,03

4,34

11

XYLOBATIDAE

4

9

1

1

0

0

4

9

12,12

19,56

12


PROTORIBATIDAE

1

1

1

1

0

0

1

1

3,03

2,17

Hoàng Văn Hưng

21

K35B – SP Sinh



Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

13

HAPLOZETIDAE

2

2

1

1

0

0

2

2

6,06

4,34

14


SCHELORIBATIDAE

2

5

3

7

0

0

3

8

9,09

17,4

15

ORIPODIDAE

2

2


2

2

0

0

2

2

6,06

4,34

16

CERATOZETIDAE

0

0

1

1

0


0

1

1

3,03

2,17

17

AUSTRACHIPTERIIDAE

0

0

1

1

0

0

1

1


3,03

2,17

18

ORIBATELLIDAE

0

0

1

1

0

0

1

1

3,03

2,17

19


ACHIPTERIDAE

0

0

2

2

0

0

2

2

6,06

4,34

20

GALUMNIDAE

0

0


2

3

0

0

2

3

6,06

6,52

15

23

26

32

1

1

33


46

100

100

Tổng số
Ghi chú:

CNN : Chân Núi Ngọc
ĐNN : Đỉnh Núi Ngọc
VCB : Vườn Cát Bà

Hoàng Văn Hưng

22

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Phân tích thành phần phân loại học Ve giáp ở tại Núi Ngọc huyện Cát
Bà – Hải Phòng ở bảng 3.2 ta thấy: sự đa dạng thành phần giống và loài
Oribatida cao nhất ở ĐNN. Đa số các giống và loài Oribatida tập trung ở
ĐNN, đi xuống dưới CNN thì số lượng giống và loài Oribatida giảm dần và
thấp nhất ở VCB. Về số lượng giống: 26 giống (ĐNN) → 23 giống (CNN) →
1 giống (VCB). Về số lượng loài: 32 loài (ĐNN) → 23 loài (CNN) → 1 loài

(VCB).
Các họ có số lượng giống và loài nhiều nhất là họ OPPIIDAE (3 giống
(Pulchroppia Subias et Balogh, 1989; Lasiobelba Aoki, 1959; Oppia C. L.
Koch, 1836), 3 loài (Pulchroppia granulata Mahunka, 1988; Lasiobelba
remota Aoki, 1959; Oppia kuhnelti Csiszar, 1961)), họ XYLOBATIDAE (4
giống (Brasilobates Pérez-Inigo et Baggio, 1980 ; , Setoxylobates Balogh et
Mahunka, 1967; Perxylobates Hammer, 1972 ; Xylobates Jacot, 1929 ), 9 loài
(Brasilobates maximus Mahunka, 1988 ; Setoxylobates foveolatus Balogh et
Mahunka, 1967 ; Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988 ; Perxylobates
vermiseta (Balogh et Mahunka, 1968) ; Perxylobates vietnamensis (Jeleva et
Vu, 1987) ; Xylobates capucinus (Berlese, 1908) ; Xylobates lophotrichus
(Brerlese, 1904) ; Xylobates monodactylus (Haller, 1804) ; Xylobates sp. )),
họ SCHELORIBATIDAE (3 giống (Nanobates Balogh et Balogh, 1980;
Scheloribates Berlese, 1908; Tuberemaeus Sellnick, 1930), 8 loài (Nanobates
clavatus Mahunka, 1988; Scheloribates cruciseta Vu et Jeleva, 1987;
Scheloribates fimbriatus Thor, 1930 ; Scheloribates latipes (C. L. Koch,
1841) ; Scheloribates pallidulus (C. L. Koch, 1840) ;

Scheloribates

praeincisus (Berlese, 1916); Scheloribates sp.; Tuberemaeus sculpturatus
Mahunka, 1987)), họ GALUMNIDAE (2 giống (Galumna Heyden, 1826 ;
Pergalumna Grandjean, 1936), 3 loài (Galumna flabellifera Hammer, 1952 ;
Galumna obvia (Berlese, 1915) ; Pergalumna kotschyi Mahunka, 1989)).

Hoàng Văn Hưng

23

K35B – SP Sinh



Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Những họ này có số lượng giống và loài tăng dần khi đi lên sinh cảnh Đỉnh
Núi Ngọc, trừ họ XYLOBATIDAE (CNN).
Có 9 họ chỉ có 1 giống, 1 loài là: họ EUPHTHIRACARIDAE, họ
LOHMANNIIDAE, họ HERMANNIELLIDAE, họ ASTEGISTIDAE, họ
EREMELLIDAE, họ PROTORIBATIDAE, họ CERATOZETIDAE, họ
AUSTRACHIPTERIIDAE, họ ORIBATELLIDAE. Tất cả các họ này đều
ghi nhận ở sinh cảnh đỉnh Núi Ngọc, ngoài ra 1 họ PROTORIBATIDAE cũng
có mặt ở sinh cảnh chân Núi Ngọc.
Có 2 họ chỉ có 1 giống, 2 loài: họ CARABODIDAE; họ
CYMBAEREMAEIDAE, trong đó họ CARABODIDAE ở sinh cảnh đỉnh
Núi Ngọc, còn họ CYMBAEREMAEIDAE ở cả sinh cảnh đỉnh Núi Ngọc và
chân Núi Ngọc.
Có 1 họ (XYLOBATIDAE) với số loài trong họ là 9 loài/họ (chiếm 5%
tổng số họ và 19,56% tổng số loài), 1 họ (SCHELORIBATIDAE) với số loài
trong họ là 8 loài/họ (chiếm 5% tổng số họ và 17,4% tổng số loài), 2 họ
(OPPIIDAE, GALUMNIDAE) với số loài trong họ là 3 loài/họ (chiếm 10%
tổng số họ và 6,52% tổng số loài), 7 họ (PELOPPIIDAE ; CARABODIDAE
; OTOCEPHEIDAE ; CYMBAEREMAEIDAE ; HAPLOZETIDAE;
ORIPODIDAE ; ACHIPTERIDAE) với số loài trong họ là 2 loài/họ (chiếm
35% tổng số họ và 4,34% tổng số loài), 9 họ còn lại
(EUPHTHIRACARIDAE, LOHMANNIIDAE, HERMANNIELLIDAE,
ASTEGISTIDAE, EREMELLIDAE, PROTORIBATIDAE,
CERATOZETIDAE, AUSTRACHIPTERIIDAE, ORIBATELLIDAE) có số
loài trong họ là 1 loài/họ (chiếm 45% tổng số họ và 2,17% tổng số loài).

Phân tích tính đa dạng ở taxon giống cho thấy: Giống có số loài nhiều
nhất là giống (Scheloribates), có 6 loài/giống (chiếm 75,5% tổng số loài của
họ, và 13,04% tổng số loài). Tiếp đến giống (Xylobates) có 4 loài/giống

Hoàng Văn Hưng

24

K35B – SP Sinh


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

(chiếm 44,44% tổng số loài của họ, và 8,69% tổng số loài), giống
(Perxylobates), có 3 loài/giống (chiếm 33,33% tổng số loài của họ, và 6,52%
tổng số loài), với 3 giống (Aokiella ; Scapheremaeus ; Galumna) có 2
loài/giống (chiếm 66,66% - 100% tổng số loài của họ, và 4,35%- 6,52% tổng
số loài), còn lại 27 giống (Rhysotritia ; Papillacarus; Hermanniella;
Cultroribula ; Ceratoppia ; Furcoppia; Dolicheremaeus; Fissicepheus;
Eremella; Pulchroppia; Lasiobelba; Oppia; Brasilobates; Setoxylobates;
Liebstadia; Peloribates; Rostrozetes; Nanobates; Tuberemaeus; Oripoda;
Truncopes; Allozetes; Lamellobates; Oribatella) có 1 loài/giống (chiếm
11,11% - 100% tổng số tổng số loài của họ, va 2,17% tổng số loai).
Như vậy ; sự đa dạng thành phần giống và loài Oribatida phân bố
không đồng đều trong các họ, và khá dàn trải trong các giống, cao nhất là ở
ĐNN. Đa số các giống và loài Oribatida tập trung ở ĐNN, đi xuống dưới
CNN thì số lượng giống và loài Oribatida giảm dần và thấp nhất ở VCB. Về
số lượng giống: 26 giống (ĐNN) → 23 giống (CNN) → 1 giống (VCB). Về

số lượng loài: 32 loài (ĐNN) → 23 loài (CNN) → 1 loài (VCB).
3.1.3 Những loài ưu thế có trong sinh cảnh nghiên cứu.
Theo Ermilov và Chistyakov, 2007 độ ưu thế được phân ra 4 mức sau
(tính theo giá trị %):
Rất ưu thế : > 10,00% tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
Ưu thế : 5 – 9,99% tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
Ưu thế tiềm tàng : 2 – 4,99% tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
Không ưu thế : < 2,00% tổng số cá thể sinh cảnh nghiên cứu.
Loài Oribatida ưu thế là những loài có độ ưu thế đạt giá trị 5% trở
lên trong tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu. Ở mỗi sinh cảnh, mỗi tầng
phân bố trong cùng một sinh cảnh… có một tập các loài ưu thế đặc trưng và
tập hợp này thay đổi ở các sinh cảnh, mỗi tầng phân bố trong cùng một sinh

Hoàng Văn Hưng

25

K35B – SP Sinh


×