Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp (acari oribatida) ở đai cao 600 900m của vườn quốc gia tam đảo tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.87 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Động vật đất có vai trò quan trọng trong tự nhiên, là thành phần không
thể thay thế trong các quá trình sinh học xảy ra trong đất và trong sinh quyển
nói chung. Nhóm động vật đất tham gia vào mọi chu trình trong tự nhiên và
quyết định hoạt tính sinh học của môi trường nơi chúng sống. Chúng có mối
quan hệ mật thiết đến quá trình tạo đất và làm tăng độ phì của đất, cải tạo và
bảo vệ môi trường đất.
Trong cấu trúc hệ động vật đất, động vật Chân khớp bé
(Microarthropoda) với kích thước cơ thể nhỏ bé (từ 0,1-0,2mm đến 2,03,0mm) thường chiếm ưu thế về số lượng so với các nhóm khác, mật độ từ
hàng chục đến hàng trăm nghìn cá thể trên một mét vuông. Hai đại diện chính
của nhóm này là: Ve giáp (Acari) và Bọ nhảy (Collembola), ngoài ra, còn có
số lượng không đáng kể các nhóm Chân khớp bé khác như: rết tơ
(Myriapoda: Symphyla), côn trùng đuôi nguyên thủy, bọ hai đuôi và bọ ba
đuôi (Insecta: Protura, Diplura, Thysanura). Chúng tham gia tích cực vào quá
trình sinh học của đất, quá trình vận chuyển năng lượng và vật chất, quá trình
làm sạch đất khỏi các ô nhiễm chất thải (hữu cơ, vô cơ, chất phóng xạ) (Vũ
Quang Mạnh, 2003) [7].
Nhiều thực nghiệm đã chứng minh rằng Chân khớp bé trong đó có ve
giáp là những động vật rất nhạy cảm với sự thay đổi các yếu tố môi trường
như: nhiệt độ, pH, chất khoáng, hàm lượng mùn, và các sản phẩm hóa chất
trong nông nghiệp (Vương Thị Hòa và cộng sự, 2005) [3].
Trong hoạt động sống của mình, Ve giáp hoàn trả lại cho đất các
nguyên tố như Canxi, Cacbon…góp phần thay đổi hàm lượng mùn, góp phần
cải tạo đất. Do có kích thước nhỏ, số lượng lớn, vòng đời ngắn sống ở nhiều
loại hình sinh cảnh, độ thích nghi cao, phương pháp thu bắt dễ dàng nên Ve
1


giáp là đối tượng thích hợp phục vụ nghiên cứu về hình thái, sinh thái cá thể
và quần thể, là vật chỉ thị sinh học tốt trong việc đánh giá các yếu tố tác động


của môi trường.
Nghiên cứu nhóm động vật đất góp phần quan trọng tìm hiểu các đặc
tính sinh học của đất và đặc điểm đa dạng của giới sinh vật nói chung. Từ đó
góp phần đưa ra các đề xuất cải tạo và tăng độ phì cho đất hoặc giúp đánh giá
sắp xếp các vùng địa lí tự nhiên, các vùng sinh thái, quy hoạch phân bố các
vùng sản xuất nông nghiệp.
Vườn quốc gia Tam Đảo là một trong những địa điểm có tính đa dạng
sinh học cao. Tại đây, hệ sinh thái rừng tự nhiên và thảm thực vật còn giữ
được khá tốt. Đã có những nghiên cứu về hệ động vật ở đây như: thú, chim,
bò sát, lưỡng cư,... nhưng riêng về khu hệ côn trùng và động vật Chân khớp
bé vẫn chưa được quan tâm.
Với tất cả lí do trên và trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp, tôi đã chọn
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp
(Acari: Oribatida) ở đai cao 600-900m của vườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh
Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích của đề tài
Bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, xây dựng niềm say mê
học tập, làm tiền đề cho giảng dạy và nghiên cứu sau này.
Nghiên cứu sự biến động về thành phần và số lượng của ve giáp theo 4
tầng phân bố ở đai cao 600-900m của vườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh
Phúc.
3. Nội dung nghiên cứu
Xác định thành phần loài Oribatida ở đai cao 600-900m của vườn quốc
gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đặc điểm phân bố của Oribatida theo 4 tầng phân bố ở đai cao 600900m của vườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
2


Phân tích một số chỉ số định lượng của Oribatida ở ở đai cao 600900m của vườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Xác định những loài Oribatida ưu thế.


3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới
Vào những năm 40-50 của thế kỉ XX, bộ môn khoa học sinh học mới:
khoa học sinh thái đất được hình thành như một chuyên ngành khoa học
riêng. Sinh thái đất là bộ môn khoa học nghiên cứu các nhóm sinh vật đất
cùng với các hoạt động sống của chúng, liên quan chặt chẽ với môi trường
sống.
Chân khớp bé với 2 đại diện chủ yếu là: Ve giáp (Acari: Oribatida) và
Bọ nhảy (Collembola) được biết từ rất lâu, cách đây hàng trăm năm, nhưng
các hoạt động nghiên cứu còn lẻ tẻ. Mấy chục năm gần đây, các hoạt động
nghiên cứu về Oribatida diễn ra mạnh mẽ và nhiều kết quả được công bố.
Ve giáp (Acari: Oribatida) được coi là cư dân truyền thống của đất và
thảm mục. Việc nghiên cứu mức độ phong phú của khu hệ Ve giáp sống tự do,
cư trú trên tán cây rừng nhiệt đới, ôn đới. Chúng được thu thập từ vỏ cây, rêu,
địa y biểu sinh, hay từ tán cây khi phun thuốc trừ sâu. Các kết quả nghiên cứu
này đã cho thấy 1 bức tranh đa dạng về nơi sống của ve giáp (Andre’ et
al.,1984) [19].
Những lợi thế của Oribatida khi sử dụng chúng như những sinh vật chỉ
thị trong việc đánh giá chất lượng hệ sinh thái trên cạn ở chỗ: chúng có độ đa
dạng cao, thu lượm với số lượng lớn một cách dễ dàng, ở tất cả các mùa trong
năm, trong nhiều sinh cảnh; việc định loại cá thể trưởng thành tương đối dễ
dàng; hầu hết chúng sống trong tầng hữu cơ của lớp đất màu mỡ và chúng là
nhóm dinh dưỡng không đồng nhất. Chúng bao gồm các taxon được đặc trưng
bởi sự sinh sản nhanh, thời gian sinh sống của các con non và con trưởng
thành dài, khả năng tăng quần thể chậm... (Behan – Pelletire, 1999) [22].
Rusek, 1986 đã nghiên cứu quần xã Oribatida và phân bố trong các loại

đất khác nhau nhằm đánh giá chất lượng đất thông qua các chỉ số của quần xã
4


này (Ruseck, 1986) [30]. Các nghiên cứu theo hướng đánh giá quần xã
Oribatida như những sinh vật chỉ thị cho chất lượng đất được đề xuất và
nghiên cứu nhiều hơn (Van Straalen, 1998). Tuy nhiên, để đạt được điều này
đòi hỏi phải có sự hiểu biết về phân loại cũng như sinh thái của các loài trong
quần xã (Behan-Pelletier, 1999; Day, 1990) [22], [23].
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác, cùng với
kết quả nghiên cứu của riêng mình, Schatz (2002) đã công bố và tổng hợp bản
danh lục các loài Oribatida đã biết ở khu vực Trung Châu Mỹ. Danh sách này
gồm 543 loài Oribatida thuộc 87 họ. Ngoài ra, ông còn liệt kê số lượng
Oribatida đã thu thập ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác thuộc Trung Mỹ
như: Cuba (225 loài), Antilles (387 loài), Lasser Antilles (172 loài), Jamaica
(28 loài), Dominica (21 loài).... (Schazt, 2002). Hiện tại 498 loài Oribatida đã
được ghi nhận (gồm 300 loài đã xác định tên, 198 loài còn ở dạng sp.,). Số
lượng loài Oribatida của Trung Mĩ, bao gồm cả Mexico là 978 loài, nếu cộng
thêm cả Antilles nữa, con số này 1238 loài (Schazt, 2002) [31].
Năm 2004, Karasawa đã nghiên cứu cấu trúc quần xã Oribatida ở đất
treo và mối liên quan giữa các nhân tố hữu sinh và vô sinh với sự đa dạng của
chúng. Kết quả cho thấy, Oribatida là một trong những nhóm chiếm ưu thế về
số lượng trong đất treo. Từ sinh cảnh này, thu được không ít hơn 50 loài. Tuy
nhiên, độ đa dạng loài Oribatida ở đất treo có thể thấp hơn so với khu hệ
Oribatida ở đất rừng (Karasawa, 2004) [26].
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế
giới, được nghiên cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và
vai trò chỉ thị chất lượng đất.
1.2. Tình hình nghiên cứu ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam
Trước năm 1975, các công trình nghiên cứu về Oribatida ở Việt Nam

còn chưa được nghiên cứu sâu và đồng bộ. Năm 1967, hai tác giả người
Hungari là Balogh J và Mahunka S lần đầu trên đã nghiên cứu và giới thiệu
5


khu hệ, danh pháp đặc điểm phân bố của 33 loài Oribatida trong công trình “
New Oribatids from Viet Nam”, trong đó mô tả 29 loài và 4 giống mới, tiếp
theo là công trình nghiên cứu của hai tác giả Tiệp Khắc, trước đây là A.
Rajski và R. Szudrwicz (Balogh J. et al.; Rajski A. et Szudrwicz R., 1974)
[20] [29].
Từ sau 1975, các tác giả trong nước bắt đầu có các nghiên cứu độc lập
về Oribatida. Đầu tiên là công trình nghiên cứu của Vũ Quang Mạnh (1980)
về thành phần, phân bố và số lượng của các nhóm Chân khớp bé ở một số
kiểu hệ sinh thái đồng bằng sông Hồng và rừng nhiệt đới. Trong công trình
này, tác giả đã nghiên cứu về ảnh hưởng của một số nhân tố tự nhiên tới sự
phân bố và sự biến động số lượng của hai nhóm Acari và Collembola ở đất
(Vũ Quang Mạnh, 1980) [5].
Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva (1987) đã giới thiệu đặc điểm phân bố và
danh pháp phân loại học của 11 loài ve giáp mới cho khu hệ ve giáp của Việt
Nam và 1 loài mới cho khoa học (Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva, 1987) [13] .
Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật (1990)

xác định được 24 loài

Oribatida ở vùng đồi núi Đông Bắc Việt Nam khi tiến hành nghiên cứu cấu
trúc định lượng của nhóm chân khớp bé ở 7 kiểu sinh thái, ở 5 dải độ cao khí
hậu và 3 loại đất. Theo 2 tác giả này, trong nhóm chân khớp bé, Oribatida
luôn chiếm số lượng chủ yếu từ 70 – 80% tổng số lượng, còn nhóm
Collembola chỉ chiếm 10% (Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật, 1990) [14].
Vương Thị Hòa, Vũ Quang Mạnh (1995) đã giới thiệu danh sách 146

loài và phân loài Oribatida ở Việt Nam và phân tích đặc điểm thành phần loài
của chúng (Vương Thị Hòa, Vũ Quang Mạnh, 1995) [9] .
Năm 2005, Vương Thị Hòa và các cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng
của một số thuốc sử dụng trong nông nghiệp như: Shachong Shuang 200SL,
Butavi 60EC lên cấu trúc quần xã động vật Chân khớp bé đã cho thấy: chỉ với
50ml cộng với khoảng 10 – 20 lít nước cũng gây ảnh hưởng rất nhiều tới số
6


lượng của nhóm Chân khớp bé. Đồng thời cho thấy trong điều kiện thời tiết
khác nhau, kể cả tác động của hai loại thuốc trên thì nhóm Oribatida luôn
chiếm tỷ lệ cao nhất trong cấu trúc của nhóm Chân khớp bé (Vương Thị Hòa,
2005) [4].
Năm 2006, Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh đã nghiên cứu Ve giáp
trong cấu trúc của nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở các đai cao địa lý
của vườn quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ. Kết quả cho thấy ảnh hưởng của thời
tiết lên lên sự phân bố của nhóm Chân khớp bé theo tầng là rất cao và phát
hiện được 8 họ (Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh, 2006) [16].
Có thể nói, trong vòng chục năm trở lại đây, những đề tài nghiên cứu
về động vật chân khớp bé, trong đó có ve giáp đã bổ sung nhiều dẫn liệu mới
không chỉ về khu hệ và đặc điểm phân bố theo kiểu sinh cảnh, theo độ sâu của
đất, theo đai cao khí hậu…mà còn đi sâu nghiên cứu về mối quan hệ hữu cơ
giữa đối tượng này với các điều kiện ngoại cảnh, về vai trò chỉ thị sinh học
của ve giáp cho sự suy giảm của lớp phủ thực vật, cho sự suy thoái và mức độ
ô nhiễm đất bởi chất thải công nghiệp, bởi việc sử dụng không hợp lý các hóa
chất bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp… phục vụ cho
công tác kiểm tra, giám sát sinh học, sinh thái môi trường sống (Nguyễn Thị
Thu Anh, Nguyễn Trí Tiến, Phan Thị Thu Hiền, 2008; Thái Trần Bái, Nguyễn
Văn Khang, 1998) [1], [2].


7


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm Ve giáp (Acari: Oribatida) thuộc lớp Hình nhện (Arachnida),
phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata), ngành Chân khớp (Arthropoda)
ở bốn sinh cảnh thuộc đai cao 600-900m của vườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh
Vĩnh Phúc.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 04 năm 2012 đến tháng 05 năm 2013.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Các mẫu Ve giáp được điều tra, thu thập tại đai cao 600 – 900m ở vườn
quốc gia Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
Sử dụng phương pháp nghiên cứu chuẩn trong điều tra thực địa và
phòng thí nghiệm của Ghilarov (1975) [24]. Các mẫu thu ngoài thực địa bao
gồm:
Mẫu thảm rêu: mẫu định lượng 200 gram Rêu bám trên thân cây gỗ
rừng, xác vụn thực vật ở trên mặt đất nằm ở độ cao từ (0 - 100)cm trên mặt
đất.
Mẫu thảm lá rừng phủ trên mặt đất, gồm tất cả lá mục, cành cây, xác
hữu cơ phủ trên mặt đất có diện tích (20x20)cm, đem cân và ghi lại trọng
lượng.
Mẫu đất được lấy ở độ sâu (0 - 10)cm, và (11 - 20)cm. Kích thước của
mỗi mẫu thu là (5x5x10)cm.

8



Tất cả các mẫu định lượng của đất, lá, rêu được thu làm 2 đợt và lặp lại
5 lần cho mỗi đợt thu mẫu. Các mẫu được cho vào túi nilon, bên trong có
nhãn ghi đầy đủ các thông số: ngày, tháng lấy mẫu, địa điểm, sinh cảnh... và
buộc chặt lại.
Tổng số mẫu thu là 40 mẫu.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Mẫu sau khi lấy ở thực địa được đưa ngay về phòng thí nghiệm động
vật của trường để xử lý. Chúng tôi tiến hành tách nhóm động vật chân khớp
bé theo phương pháp phễu lọc “Berlese - Tullgren”, phương pháp này đã “lợi
dụng” tập tính của các loài động vật đất là: hướng đất dương và hướng sáng
âm, khi đất trong phễu lọc khô dần chúng sẽ chui sâu xuống lớp đất phía
dưới, qua lưới lọc và rơi xuống đáy phễu.
Dụng cụ dùng trong phương pháp này gồm có phễu thủy tinh và rây
lọc. Phễu thủy tinh có đường kính miệng là 18cm, đường kính vòi là 1,5cm.
Bộ phễu được đặt trong giá gỗ, vòi phễu gắn với ống nghiệm chứa dung dịch
formon 4%, bên trong có nhãn ghi thời gian đặt mẫu, địa điểm, tầng đất….
Rây lọc hình trụ đặt trên phễu, thành của rây lọc là vành kim loại, đường kính
15cm, cao 4cm, lưới lọc bằng sợi nilon, kích thước mắt lưới (1,0 x 1,0)mm.
Thao tác đặt mẫu: thu và rải đều trên mặt lớp lưới, phần vụn lọt qua
mắt lưới sẽ được đổ trở lại trước khi đặt rây vào phễu.
Mẫu được tách lọc trong điều kiện phòng thí nghiệm nhiệt độ từ 250C
– 300C, 7 ngày đêm rồi mới tiến hành thu ống nghiệm dưới đáy phễu đã được
lọc. Dùng nút bông bịt kín ống nghiệm và lấy dây chun bó các ống nghiệm
của cùng một tầng tại một địa điểm lại với nhau, sau đó cho vào lọ nhựa có
chứa dung dịch formon 4% để giữ cho mẫu không bị hỏng.

9



2.4.3. Phân tích mẫu và xử lý số liệu.
- Phân tích mẫu
Đặt giấy lọc có chia ô lên phễu lọc, đổ dung dịch có chứa trong ống
nghiệm lên tờ giấy lọc đó, tráng lại nhiều lần bằng nước cất để tránh sót mẫu.
Đến lúc đã lọc hết dung dịch trong giấy lọc thì đặt giấy lọc ra đĩa petri và tiến
hành phân tích dưới kính hiển vi. Khi soi mẫu dưới kính hiển vi, dùng kim
phân tích nhặt từng cá thể động vật để tập trung tại một góc của đĩa petri,
nhận dạng và ghi số lượng từng nhóm vào sổ bảo tàng.
Danh sách các loài Oribatida được sắp xếp theo hệ thống cây chủng
loại phát sinh dựa theo hệ thống phân loại của Balogh J. và Balogh P., 1992.
Các loài trong một giống được sắp xếp theo vần a, b, c. Định loại tên loài theo
các tài liệu phân loại, các khóa định loại của các tác giả: Ghilarov M., et al.,
1975; Norton R.A.,1986; Vũ Quang Mạnh, 2007 [21], [25], [27], [8].
Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã phân tích, xử lý và định loại đều
được Tiến sĩ Đào Duy Trinh kiểm định lại, các mẫu được lưu trữ tại phòng thí
nghiệm Tổ Động vật của trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
- Xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê trong tính toán và xử lý số liệu, trên
nền phần mềm Primer - E, 2001 [28]; phần mềm Excell 2003.
Công thức tính toán gồm:
+ Số lượng loài: được tính bằng tổng số loài có mặt trong điểm nghiên
cứu của tất cả các lần thu mẫu.
+ Mật độ trung bình: được tính bằng số lượng cá thể trung bình
(con/m2 đối với mẫu đất, thảm lá, con/kg đối với mẫu rêu) trong tất cả các lần
thu mẫu ở điểm nghiên cứu.

10



+ Chỉ số đa dạng loài (H’)
s

H '= ∑
i =1

Trong đó:

ni
n 
× ln i 
N
N

s: số lượng loài.
ni: số lượng cá thể của loài thứ i
N: tổng số lượng cá thể trong sinh cảnh nghiên cứu

Chỉ số đa dạng loài (H’) được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay số
lượng loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài
trong quần xã.
Giá trị H’ dao động trong khoảng 0 đến ∞.
+ Chỉ số đồng đều Pielou (J’):
J’=

Trong đó:

H'
ln S


H’: là chỉ số đa dạng loài
S: số loài có trong sinh cảnh.

Giá trị J’ dao động trong khoảng 0 đến 1.
+ Độ ưu thế (D):

Trong đó:

na: số lượng cá thể của loài a
n : tổng số cá thể của toàn bộ mẫu theo sinh cảnh hay địa
điểm

Theo Vũ Quang Mạnh, 2007 [7]: loài Oribatida ưu thế là những loài
có độ ưu thế đạt giá trị 5% trở lên.

11


2.5. Một vài nét khái quát về khu vực nghiên cứu

Biểu đồ 1. Bản đồ hành chính vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc
2.5.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Tam Đảo là tên gọi của 3 đỉnh núi cao: Thiên Thị (1375m); Thạch Bàn
(1388m); Phù Nghĩa (1375m). Dãy núi Tam Đảo kéo dài trên 80 km, với
khoảng 20 đỉnh núi cao, cao nhất là đỉnh Tam Đảo Bắc (1592 m). Vườn quốc
gia Tam Đảo nằm trong dãy núi Tam Đảo, chạy dài trên 80 km theo hướng
Tây Bắc – Đông Nam có toạ độ địa lý từ 21021’ - 21042’ vĩ độ Bắc, 105023’ 105044’ kinh độ Đông; trên địa giới hành chính 3 tỉnh: Vĩnh phúc, Thái
Nguyên và Tuyên Quang. Trung tâm vườn quốc gia Tam Đảo cách thủ đô Hà
Nội 75 km về phía Tây Bắc và cách thành phố Vĩnh Yên 13 km về phía Bắc.
Vườn quốc gia Tam Đảo được quy hoạch ban đầu có diện tích là 36

883 ha từ độ cao 100 m trở lên. Sau khi điều chỉnh ranh giới năm 2002 (Quyết
định 155/2002/QĐ-TTG) thì diện tích hiện nay do Vườn quốc gia Tam Đảo
quản lý là 34 995 ha.

12


2.5.2. Khí hậu, thuỷ văn
Tam Đảo nằm trong vành đai khí hậu ẩm nhiệt đới mưa mùa vùng núi.
Lượng mưa bình quân hàng năm ở vùng thấp là 1603 mm. Lượng mưa ở đai
cao của núi Tam Đảo khá lớn (2600 mm) vì ở đây còn có thêm lượng mưa địa
hình. Mùa mưa ở đây từ tháng 4 đến tháng 10, chiếm 90% lượng mưa cả năm.
Mưa tập trung vào các tháng 6, 7, 8, 9; cao nhất là tháng 8. Số ngày mưa khá
nhiều từ 142 -190 ngày /năm.
Do ảnh hưởng của điều kiện địa hình, địa mạo nên nhiệt độ bình quân/
năm vùng núi thấp là 23,70C; Tháng nóng nhất ở vùng thấp là 280C (tháng 7);
Tháng lạnh nhất (<150C) là tháng 1. Vùng đỉnh có nền nhiệt độ thấp hơn, bình
quân là 180C. Tháng nóng nhất là tháng 7 (230C) và tháng lạnh nhất là tháng 1
(10.80C).
Độ ẩm bình quân ở vùng dưới thấp >80%, trên cao 87%. Mùa mưa nhất
là khi có mưa dầm độ ẩm lên tới trên 90%, nhưng đến mùa khô hanh độ ẩm
chỉ còn 70-75%, các biệt có ngày độ ẩm chỉ còn 50-60% (vùng núi cao).
Trong khu vực có 2 hệ thống sông chính là sông Phó Đáy ở phía Tây và
Sông Công ở phía Đông. Đường phân thuỷ của 2 hệ thống sông chính là dông
núi Tam Đảo chạy từ Đèo Khế (Sơn Dương) đến Mỹ Khê (Bình Xuyên).
Mạng lưới sông suối hai sườn Tam Đảo dồn xuống các sông chính như chân
rết khá dày và ngắn, có cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân núi, lưu
lượng nước lớn; khi xuống tới các chân núi suối thường chảy dọc theo các
chân thung lũng dài và hẹp trước khi đổ ra vùng đồi và vùng đồng bằng. Tất
cả các sông suối trong vùng không có khả năng vận chuyển thuỷ, chỉ có thể

làm các thuỷ điện nhỏ.
2.5.3. Tài nguyên sinh vật
*Hệ thực vật : Theo kết quả điều tra từ 1997-2000, đã ghi nhận được
tại VQG Tam Đảo 1282 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 660 chi, 179 họ.
Trong số 1282 loài thực vật được phát hiện tại Tam Đảo có 66 loài cây quý
13


hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam: Trầm hương, Kim tuyến, Trầu tiên, Vù
hương, Đỗ trọng bắc, Sưa bắc bộ, Vàng tâm, Đinh hương, Kim giao vv... Đặc
biệt, trong số đó có 42 loài thực vật được coi là đặc hữu của Vườn quốc gia
Tam Đảo .
*Hệ động vật rừng : Theo kết quả điều tra, tính đến năm 2003, đã phát
hiện được tại Vườn quốc gia Tam đảo 70 loài thú, 248 loài chim, 132 loài bò
sát 62 loài ếch nhái và 651 loài côn trùng. Với số liệu trên, nếu đánh giá theo
chỉ số đa dạng sinh học thì khu hệ động vật Tam Đảo có mức độ đa dạng rất
cao về bộ, họ và đa dạng cao về thành phần loài so với toàn quốc.
2.5.4. Địa chất
Trong quá trình điều tra thực địa 4 loại đất chính ở Tam Đảo được phát
hiện là:
1. Đất Feralit mùn vàng nhạt: Loại đất này phát triển trên núi trung
bình, diện tích 8 968 ha, chiếm 17,1 % diện tích.
2. Đất Feralit mùn vàng đỏ: Loại đất này phân bố trên núi thấp, diện
tích 9 292 ha, chiếm 17,8 % diện tích.
3. Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên nhiều loại đá khác nhau: Loại đất
này có diện tích 24641 ha, chiếm 47,0 % diện tích.
4. Đất phù sa và dốc tụ: Loại đất này có diện tích 9497 ha, chiếm
18,1%.
2.5.5. Điều kiện kinh tế - xã hội
Theo số liệu của vườn quốc gia (2001), vùng đệm của vườn quốc gia

Tam Đảo bao gồm 23 xã và thị trấn thuộc 6 huyện thị. Tổng dân số trong
vùng trên 148000 người, thuộc 29598 hộ. Số người trong độ tuổi lao động
89460, trong đó lao động Nông nghiệp 84678 người, chiếm 94,65%. Tỷ lệ
tăng dân số 1,0-2,0%.

14


Thành phần dân tộc: Trong vùng đệm của vườn quốc gia có 8 dân tộc
anh em sinh sống, bao gồm: Kinh, Dao, Nùng, Tày, Sán chỉ, Sán dìu, Cao lan
và Hoa. Trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số (63%).
Nguồn thu nhập chính của người dân là Nông nghiệp, chiếm 80%, khai
thác Lâm sản (chủ yếu từ vườn quốc gia) 12%, từ ngành nghề phụ 5%, buôn
bán nhỏ 3%. Thu nhập bình quân 120000đ/người/tháng.
Trong những năm gần đây với sự hỗ trợ của nhà nước, vườn quốc gia
và các tổ chức khác, nhiều dự án phát triển kinh tế-xã hội vùng đệm đã được
triển khai. Đường sá, giao thông được mở mang đi lại thuận tiện tạo điều kện
cho người dân trong vùng giao lưu phát triển kinh tế, đổi mới kỹ thuật canh
tác, cơ cấu cây trồng vật nuôi, đời sống người dân được cải thiện khá hơn
trước. Mặc dù vậy, nhìn chung trong khu vực kinh tế người dân còn rất nhiều
khó khăn do phương thức canh tác lạc hậu, năng suất cây trồng thấp, thiếu đất
sản xuất, chậm đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu ngành nghề. Những
khó khăn trên của người dân là áp lực lớn đối với tài nguyên rừng của vườn
quốc gia Tam Đảo.

15


CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Thành phần loài Oribatida ở đai cao 600m-900m của vườn quốc gia

Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.1.1 Danh sách loài
Danh sách loài Oribatida ghi nhận ở đai cao 600-900m ở vườn quốc gia
Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc gồm 73 loài thuộc 53 giống, 36 họ(bảng 1). Trong
số 73 loài Oribatida ghi nhận được có 2 loài chưa định tên gồm: Cultroribula
sp.; Unguizetes sp.. Trên cơ sở phân tích so sánh các mẫu ve giáp ở khu vực
nghiên cứu với các mẫu vật lưu trữ tại phòng thí nghiệm cũng như các tài liệu
tham khảo của Vũ Quang Mạnh, chúng tôi tin rằng : trong 2 loài chưa được
định tên ở trên có thể là loài mới cho khoa học. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
của một Luận văn cử nhân, do nhiều hạn chế về thời gian nên chúng tôi chưa
định rõ được tên của 2 loài này.
Bảng 3.1. Danh sách thành phần loài Oribatida theo các tầng phân bố ở
đai cao 600 – 900m củavườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
ĐAI CAO 600-900m
STT
I

Loài

A1

A2



rêu

x

x


HYPOCHTHONIIDAE BERLESE, 1910
Eniochthonius Berlese, 1910

x

1 Eniochthonius minutissimus Berlese, 1904
II

COSMOCHTHONIIDAE GRANDJEAN, 1974
Cosmochthonius Berlese, 1910
2 Cosmochthonius lanatus Michael, 1887

III

x

PHTHIRACARIDAE PERTY, 1841
Hoplophorella Berlese, 1923
3 Hoplophorella cuneiseta Mahunka, 1988

IV

EUPHTHIRACARIDAE JACOT, 1930

16

x



Rhysotritia Maerkel et Meyer, 1959
4 Rhysotritia ardua C. L. Koch, 1841

x

5 Rhysotritia duplica Grandjean, 1953

x

6 Rhysotritia rasile, Mahunka, 1982
V

x

x
x

x

x

LOHMANNIIDAE BERLESE, 1916
Mixacarus Balogh, 1958
7 Mixacarus follifer Golosova, 1984

x

Papillacarus Kunst, 1959
8 Papilacarus aciculatus Berlese, 1905


x

9 Papilacarus arboriseta Vu et Jeleva, 1987

x

x

10 Papilacarus undrirostratus Aoki, 1964

x

Meristacarus Grandjean, 1934
11 Meristacarus madagaskarensis Balogh, 1961
VI

x

x

EPILOHMANNIIDAE OUDEMANS, 1923
Epilohmannia Berlese, 1910
12 Epilohmannia cylindrica Berlese, 1904

VII

x

NOTHRIDAE BERLESE, 1896
Nothrus C. L. Koch, 1836

13 Nothrus shapensis Krivolutsky, 1998

VIII

x

TRHYPOCHTHONIDAE WILLMANN, 1931
Archeozetes Grandjean, 1931
14 Archegozetes longisetosus Aoki, 1965

IX

x

x

x

NANHERMANNIIDAE SELLNICK, 1928
Nanhermannia Berlese, 1913
15 Nanhermannia thainensis Aoki, 1965

X

x

x

x


HERMANNIIDAE SELLNICK, 1928
Phyllhermannia Berlese, 1916

XI

16 Phyllhermannia gladiata Aoki, 1965

x

x

x

x

17 Phyllhermannia similis Balogh et Mahunka, 1967

x

x

x

x

LIODIDAE GRANDJEAN, 1954
Liodes von Heyden, 1826

17



18 Liodes theleproctus Hermann, 1804
XII

x

x

CEPHEIDAE BERLESE, 1896
Sphodrocepheus Woolley et Higgins, 1963
19 Sphodrocepheus tuberculatus Mahunka, 1988

XIII

x

x

x

x

MICROTEGEIDAE BALOGH, 1972
Microtegeus Berlese, 1916
20 Microtegeus reticulatus Aoki, 1965

XIV

x


MICROZETIDAE GRANDJEAN, 1936
Kaszabozetes Mahunka, 1988
21 Kaszabozetes velatus Mahunka, 1988

XV

x

EREMOBELBIDAE BALOGH, 1961
Eremobelba Berlese, 1908
22 Eremobelba bellicosa Balogh et Mahunka, 1967

XVI

x

ZETORCHESTIDAE MICHAEL, 1898
Zetochestes Berlese, 1888
23 Zetochestes saltator Oudemans, 1915

XVII

x

x

x

x


24 Cultroribula lata Aoki, 1961

x

x

x

x

25 Cultroribula lata sp.s

x

x

x

x

x

x

ASTEGISTIDAEBALOGH, 1961
Cultroribula Berlese, 1908

XVIII

PELOPPIIDAE BALOGH, 1943

Ceratoppia Berlese, 1908
26 Ceratoppia crassiseta Balogh et Mahunka, 1967
Furcoppia Balogh et Mahunka, 1966
27 Furcoppia parva Balogh et Mahunka, 1967

XIX

x

CARABODIDAE C. L.KOCH, 1837
Aokiella Balogh et Mahunka, 1967
28 Aokiella florens Balogh et Mahunka, 1967

x

Austrocarabodes Hammer, 1966
29 Austrocarabodes szentivanyi Balogh et Mahunka,
1967

18

x


Gibbicepheus Balogh, 1958
30 Gibbicepheus baccanensis Jeleva et Vu, 1987
XX

x


NIPPOBODIDAE, 1959
Leobodes Aoki, 1965
31 Leobodes montsruosus Vu et Jeleva, 1987

XXI

x

TECTOCEPHEIDAE GRRANDJEAN, 1954
Tectocepheus Berlese, 1913
32 Tectocepheus cuspidentatus Knulle, 1954

XXII

x

OTOCEPHEIDAE BALOGH,1961
Acrotocepheus Berlese, 1905
33 Acrotocepheus duplicornutus Aoki, 1965

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

x

40 Pulchroppia granulata Mahunka, 1988

x

x

x

41 Pulchroppia vietnamica Balogh et Mahunka, 1967

x

34 Acrotocepheus triplicornutus Balogh et Mahunka,


x

1967
Dolicheremaeus Jacot, 1938
35 Dolicheremaeus aoki Balogh et Mahunka, 1967
36 Dolicheremaeus inaequalis Balogh et Mahunka, 1967

x

37 Dolicheremaeus lineolatus Balogh et Mahunka, 1967

x

Fissicepheus Balogh et Mahunka, 1967
38 Fissicepheus elegans Balogh et Mahunka, 1967
XXIII

x

EREMELLIDAE BALOGH,1961
Eremella Berlese, 1913
39 Eremella vestita Berlese, 1913

XXIV

x

OPPIIDAE GRANDJEAN, 1954
Pulchroppia Subias et Balogh, 1989


42 Oppiela nova Oudemans, 1902

x

x

Arcoppia Hammer, 1977
43 Arcoppia hammereae Rodriguez et Subias, 1984

x

Pseudoamerioppia Subias, 1989
44 Pseudoamerioppia vietnamica Mahunka, 1988

19

x


XXV

LIMNOZETIDAE GRANDJEAN, 1954
Limnozetes Hull, 1916
45 Limnozetes pastulatus Mahunka, 1987

XXVI

x

x


x

CYMBAEREMAEIDAE SELLNICK, 1928
Scapheremaeus Berlese, 1910
46 Scapheremaeus crassus Mahunka, 1988

XXVII

x

PARAKALUMIDAE GRANDJEAN, 1936
Neoribates Berlese, 1914

47 Neoribates aurantiacus Oudemans, 1913
XXVIII

x

MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN, 1960
Unguizetes Sellnick, 1925

XIX

48 Unguizetes clavatus Aoki, 1967

x

x


x

x

49 Unguizetes sp.

x

x

x

x

XYLOBATIDAE J.BALOGH ET P.BALOGH,
1984
Brasilobates Pérez-Inigo et Baggio, 1980
50 Brasilobates maximus Mahunka, 1988

x

x

Setoxylobates Balogh et Mahunka, 1967
51 Setoxylobates foveolatus Balogh et Mahunka, 1967

x

x


x

x

52 Perxylobates vermiseta Balogh et Mahunka, 1968

x

x

x

53 Perxylobates vietnamensis Jeleva et Vu, 1987

x

x

Perxylobates Hammer, 1972

Xylobates Jacot, 1929
54 Xylobates capucinus Berlese, 1908

XXX

x

x

55 Xylobates lophotrichus Brerlese, 1904


x

56 Xylobates monodactylus Haller, 1804

x

x

x

PROTORIBATIDAE J.BALOGH ET P,BALOGH,
1984
Liebstadia Oudemans, 1906
57 Liebstadia humerata Sellnick, 1928

XXXI

HAPLOZETIDAE GRANDDJEAN, 1936

20

x

x

x


Peloribates Berlese, 1908

58 Peloribates pseudoporosus Balogh et Mahunka, 1967

x

x

x

59 Peloribates gressitti Balogh et Mahunka, 1967

x
x

Rostrozetes Sellnick, 1925
60 Rostrozetes punctulifer Balogh et Mahunka, 1979

x

61 Rostrozetes trimorphus Balogh et Mahunka, 1979
XXXII

x
x

SCHELORIBATIDAE GRANDJEAN, 1953
Rhabdoribates Aoki, 1967

62 Rhabdoribates siamensis Aoki, 1967

x


Euscheloribates Kunst, 1958
63 Euscheloribates samsinaki Kunst, 1958

x

Scheloribates Berlese, 1908
64 Scheloribates cruciseta Vu et Jeleva, 1987
65 Scheloribates laevigatus C. L. Koch, 1836

x

x

66 Scheloribates latipes C. L. Koch, 1841
67 Scheloribates pallidulus C. L. Koch, 1840
XXXIII

x

x

x

x

x

x


x

x

x

ORIPODIDAE JACOT, 1925
Subpirnodus Mahunka, 1988

68 Subpirnodus mirabilis Mahunka, 1988

x

Cosmopirnodus Balogh, 1970
69 Cosmopirnodus tridactylus Mahunka, 1988
XXXIV

x

x

AUSTRACHIPTERIIDAE LUXTON, 1985
Lamellobates Hammer, 1958

70 Lamellobates ocularis Jeleva et Vu, 1987

x

Paralamellobates Bhaduri et Raychaudhuri, 1968
71 Paralamellobates schoutedeni Balogh, 1959

XXXV

x

ACHIPTERIDAE THOR, 1929
Achipteria Berlese, 1885

72 Achipteria curta Aoki, 1970
XXXVI

x

GALUMNIDAE JACOT, 1925
Galumna Heyden, 1826

21


73 Galumna flabellifera Hammer, 1952

x
36

Số loài theo tầng phân bố

33

42

40


73

Tổng số loài

Ghi chú: A1: lớp đất mặt 0-10cm; A2: lớp đất ở độ sâu 11-20cm
So với khu hệ Vườn quốc gia Tam Đảo nghiên cứu bởi Vũ Quang Mạnh
năm 2004 (63 loài, 39 giống, 25 họ), khu hệ ve giáp ở đai cao 600-900m đã
bổ sung thêm 10 loài, 14 giống và 11 họ. Còn so với khu hệ vườn quốc gia
Xuân Sơn, Phú Thọ bởi Đào Duy Trinh, 2011 thì khu hệ ve giáp của vườn
quốc gia Tam Đảo đa dạng hơn về số họ và số giống (hơn 8 họ và 5 giống)
(Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm ,2004; Đào Duy Trinh, 2011) [12] [18].
Bảng 3.2: So sánh tính đa dạng các taxon họ, giống, loài của khu hệ ve
giáp ở đai cao 600-900 của vườn quốc gia Tam Đảo với các khu hệ ve giáp
khác được nghiên cứu trước đây
Đai cao 600-900
VQG Tam Đảo, Vĩnh
VQG Xuân Sơn,
Taxon
VQG Tam Đảo,
Phúc (2004)
Phú Thọ (2011)
Vĩnh Phúc
Loài

63

103

73


Giống

39

48

53

Họ

25

28

36

3.1.2. Thành phần phân loại học
Phân tích thành phần phân loại học quần xã Oribatida ở đai cao 600900m của vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc cho thấy : có 1 họ Xylobatidae
có số loài nhiều nhất (7 loài/họ tương ứng chiếm 9,59% tổng số loài). Tiếp
đến là 2 họ Otocepheidae, Scheloribatidae cùng có 6 loài/họ (chiếm 8,22%
tổng số loài).
Có 2 họ Lohmanniidae, Oppiidae cùng có 5 loài, chiếm 6,85% tổng số
loài. Các họ còn lại có từ 2-4 loài, chiếm tương ứng từ 2,74% đến 5,48% tổng
số loài. Có 22 họ chỉ có 1 giống 1 loài.
22


Giống Scheloribates thuộc họ Scheloribatidae có số loài nhiều nhất (4
loài/giống, chiếm 1,89% tổng số giống ), có 5 giống Rhysotritia,

Papillacarus, Dolicheremaeus, Pulchroppia, Xylobates

có 3 loài/giống (

chiếm 9,43% tổng số giống), có 7 giống Phyllhermannia, Cultroribula,
Otocepheus, Unguizetes, Perxylobate, Peloribates Rostrozetes có 2 loài/giống
( chiếm 13,20% tổng số giống). Còn lại các giống chỉ có 1 loài/giống.
Như vậy, khu hệ ve giáp ở đai cao 600-900m của Vườn quốc gia Tam
Đảo có tính đa dạng cao tập trung ở 5 họ (Lohmanniidae, Oppiidae,
Otocepheidae, Scheloribatidae, Xylobatidae).
Bảng 3.3. Thành phần phân loại học Oribatida ở đai cao 600-900m ở Vườn
quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tỷ lệ % so với

Loài
Họ

Giống

tổng số

Đã xác

Chưa xác

Tổng

định

định


số

Loài

Giống

HYPOCHTHONIIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

COSMOCHTHONIIDAE

1

1

0

1


1,37

1,89

PHTHIRACARIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

EUPHTHIRACARIDAE

1

3

0

3

4,11


1,89

LOHMANNIIDAE

3

5

0

5

6,85

5,66

EPILOHMANNIIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89


NOTHRIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

TRHYPOCHTHONIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

NANHERMANNIIDAE


1

1

0

1

1,37

1,89

HERMANNIIDAE

1

2

0

2

2,74

1,89

LIODIDAE

1


1

0

1

1,37

1,89

CEPHEIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

MICROTEGEIDAE

1

1


0

1

1,37

1,89

MICROZETIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

EREMOBELBIDAE

1

1

0


1

1,37

1,89

23


ZETORCHESTIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

ASTEGISTIDAE

1

1


1

2

2,74

1,89

PELOPPIIDAE

2

2

0

2

2,74

3,77

CARABODIDAE

3

3

0


3

4,11

5,66

NIPPOBODIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

TECTOCEPHEIDAE

1

1

0

1


1,37

1,89

OTOCEPHEIDAE

3

6

0

6

8,22

5,66

EREMELLIDAE

1

1

0

1

1,37


1,89

OPPIIDAE

3

5

0

5

6,85

5,66

LIMNOZETIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89


CYMBAEREMAEIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

PARAKALUMIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

MOCHLOZETIDAE


1

1

1

2

2,74

1,89

XYLOBATIDAE

4

7

0

7

9,59

7,55

PROTORIBATIDAE

1


1

0

1

1,37

1,89

HAPLOZETIDAE

2

4

0

4

5,48

3,77

SCHELORIBATIDAE

3

6


0

6

8,22

5,66

ORIPODIDAE

2

2

0

2

2,74

3,77

2

2

0

2


2,74

3,77

ACHIPTERIDAE

1

1

0

1

1,37

1,89

GALUMNIDAE

1

1

0

1

1,37


1,89

TỔNG

53

71

2

73

100

100

AUSTRACHIPTERIIDA
E

3.2. Đặc điểm phân bố của Oribatida ở đai cao 600-900m của vườn quốc
gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong 73 loài ghi nhận có 12 loài xuất hiện ở cả 4 tầng phân bố, gồm:
Phyllhermannia gladiata, Phyllhermannia similis, Zetochestes saltator,
Cultroribula lata, Cultroribula sp., Acrotocepheus triplicornutus, Eremella
vestita, Unguizetes clavatus, Unguizetes sp., Setoxylobates foveolatus,
Peloribates pseudoporosus, Scheloribates laevigatus.

24



Có 7 loài chỉ xuất hiện ở tầng đất 0-10cm, gồm Cosmochthonius
lanatus, Papilacarus aciculatus, Nothrus shapensis, Furcoppia parva,
Dolicheremaeus inaequalis, Rhabdoribates siamensis, Lamellobates ocularis.
Có 9 loài chỉ xuất hiện ở tầng đất 11-20cm, gồm Eniochthonius
minutissimus,

Austrocarabodes

szentivanyi,

Leobodes

montsruosus,

Tectocepheus cuspidentatus, Fissicepheus elegans, Pulchroppia vietnamica,
Xylobates monodactylus, Rostrozetes trimorphus, Achipteria curta.
Có 7 loài chỉ xuất hiện ở tầng lá, gồm Mixacarus follifer, Papilacarus
undrirostratus, Epilohmannia cylindrica, Aokiella florens, Scapheremaeus
crassus, Subpirnodus mirabilis, Paralamellobates schoutedeni.
Có 10 loài chỉ xuất hiện ở tầng rêu, gồm Kaszabozetes velatus,
Eremobelba bellicosa, Gibbicepheus baccanensis, Arcoppia hammereae,
Pseudoamerioppia, Pseudoamerioppia vietnamica, Neoribates aurantiacus,
Peloribates gressitti, Euscheloribates samsinaki, Galumna flabellifera.
Nhìn chung, số loài phân bố ở cả 4 tầng là tương đương nhau. Số loài
tập trung cao nhất ở tầng lá (42 loài), ở tầng rêu (40 loài), tầng A1 (36 loài)
và thấp nhất ở tầng đất A2 (33 loài). Sự phân bố của Oribatida theo độ sâu
tầng đất số loài Oribatida có xu hướng giảm từ tầng đất A1 (36 loài) đến tầng
A2 (33 loài).
3.3. Một số chỉ số định lượng của Oribatida ở đai cao 600-900 của vườn
quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc

3.3.1. Số loài
Kết quả ghi nhận được về số loài theo tầng phân bố trình bày ở bảng 3.4
cho thấy: số loài thu được là tương đương nhau ở cả 4 tầng phân bố (tương
ứng : 42 loài- tầng lá, 40 loài- tầng rêu, 36 loài- tầng A1, 33 loài- tầng A2).
Bảng 3.4. Một số chỉ số định lượng cấu trúc của Oribatida theo tầng phân
bố ở đai cao 600-900 ở VQG Tam Đảo, Vĩnh Phúc.

25


×