Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp (acari oribatida) ở đảo ngọc thuộc khu du lịch hồ đại lải, xã ngọc thanh, thị xã phúc yên tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
---------

----------

NGUYỄN NGỌC TÚ

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỘNG THÀNH
PHẦN LOÀI VE GIÁP (ACARI:
ORIBATIDA) Ở ĐẢO NGỌC THUỘC
KHU DU LỊCH HỒ ĐẠI LẢI, XÃ NGỌC
THANH, THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH
VĨNH PHÚC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Sinh thái học

HÀ NỘI 2013
SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

0

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài



Môi trường đất là một môi trường sống rất đặc thù, với cấu trúc rất
phức tạp, trong đó chứa cả một thế giới sinh vật vô cùng đa dạng và phong
phú. Nhóm động vật đất chiếm hơn 90% tổng sinh lượng hệ động vật ở cạn và
hơn 50% tổng số loài động vật sống trên Trái Đất. Nhiều nhóm sinh vật đóng
vai trò quan trọng trong việc chỉ thị điều kiện sinh thái của môi trường đất,
góp phần làm sạch môi trường. Đại diện chính của nhóm này là động vật
Chân khớp bé (Microarthropoda). Với kích thước cơ thể khoảng 0,1 - 0,2 mm
đến 2,0 - 3,0 mm thường chiếm ưu thế về số lượng cá thể trong Hệ sinh thái
đất. Hai đại diện chính của nhóm này là Ve giáp (Acari) và Bọ nhảy
(Collembola) [3].
Nghiên cứu cấu trúc quần xã Oribatida có ý nghĩa quan trọng trong chỉ
thị sinh học, là cơ sở cho việc quản lý và khai thác bền vững nguồn tài nguyên
môi trường đất. Số lượng cá thể rất nhạy cảm với những biến đổi của môi
trường, đặc biệt là các tác động của con người vào môi trường đất tự nhiên.
Do đó, Oribatida được sử dụng như đối tượng nghiên cứu, đánh giá chất
lượng đất và sự ô nhiễm, thoái hóa đất.
Bước sang thế kỉ XXI nền kinh tế đất nước đã có những bước tiến triển
đáng kể, các khu du lịch cũng được đầu tư xây dựng đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người dân, trong đó có khu du lịch Hồ Đại Lải cung thu hút
được lượng lớn du khách mỗi năm vi vậy đã tác động đến môi trường ở khu
vực này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu động vật đất nào ở khu
Đảo Ngọc được thực hiện.
Với tất cả các lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu sự biến
động thành phần loài Ve giáp (Acari: Oirbatida) ở đảo Ngọc thuộc khu
du lịch hồ Đại Lải, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc”.

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

1


K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2. Mục đích nghiên cứu
Xác định thành phần loài và đặc điểm phân bố của Oribatida ở các tầng
trong sinh cảnh rừng trồng trên đảo Ngọc thuộc khu du lịch Hồ Đại Lải, xã
Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, dựa trên đặc điểm phân bố và
độ đa dạng của loài Ve giáp, từ đó đánh giá về điều kiện môi trường đất ở khu
vực này.
Bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, xây dựng lòng say mê
học tập, làm tiền đề cho phục vụ giảng dạy và nghiên cứu sau này.
3. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu sự đa dạng thành phần loài Ve giáp (Acari: Oribatida) ở
khu du lịch đảo Ngọc hồ Đại Lải, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc.
Phân tích đặc điểm phân bố của Oribatida theo từng tầng ở sinh cảnh
nghiên cứu.
Khảo sát đánh giá sự tương đồng thành phần loài, tìm hiểu một số chỉ
số định lượng và khảo sát những loài ưu thế của quần xã Oribatida có trong
sinh cảnh nghiên cứu.

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

2


K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Bộ Ve giáp (Acari: Oribatida) bao gồm những nhóm ve bét đa dạng và
phong phú nhất ngoài tự nhiên, chúng sống chủ yếu trong môi trường đất và
thực vật. Oribatida ăn các loại mùn bã hữu cơ, xác động, thực vật…
Hệ thống phân loại Oribatida, cùng các quan hệ tiến hóa chúng với các
nhóm ve bét khác được xây dựng và xắp xếp theo hệ thống phân loại của các
tác giả Willmann, 1931; Grandjean, 1954; Sellnick, 1960; Ghilarov et al.,
1975; Balogh J, Balogh J., et al. 1988, 1992. Đây là những chuyên gia nghiên
cứu hệ thống học Oribatida được chấp nhận trên thế giới. Các nghiên cứu ở
Việt Nam được bắt đầu từ những năm 30 và được các tác giả nước ngoài thực
hiện và được mở rộng từ những năm 80 của thế kỉ trước. Trên cơ sở đó đã
hình thành một bộ sưu tập khá phong phú mẫu Oribatida, mà một phần trong
đó đã được phân tích tại một số cơ quan nghiên cứu chuyên ngành của Việt
Nam và quốc tế [2].
Như vậy, việc nghiên cứu phân tích về đặc điểm, cấu trúc, độ đa dạng
thành phần loài, độ ưu thế, chỉ số tương đồng của Oribatida theo sinh cảnh,
theo tầng đất được áp dụng ở các khu công nghiệp hoặc khu du lịch để làm cơ
sở chỉ ra những tác động tích cực, tiêu cực của các nhân tố môi trường tới
sinh thái đất.
1.2. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới
Trên thế giới, các nhóm động vật không xương sống nói chung và
Oribatida nói riêng đã được nghiên cứu từ rất lâu, cách đây hàng trăm năm. Ở

Đức, từ năm 1804 với công trình của Hermann J.F; ở Ý từ năm 1876, 1877
với công trình của Canestrini G. & Fanzago F.; ... Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu về Oribatida chỉ phát triển mạnh trong thời gian gần đây [21].

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

3

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Trong các công trình nghiên cứu về Acari trước đây, các công trình của
Berlese đóng một vai trò quan trọng và có một vị trí đặc biệt. Ông là một
trong những người quan tâm đến ve giáp đầu tiên. Từ năm 1881 đến năm
1923, ông đã mô tả khoảng 120 loài Oribatida. (Hammen L.Van Der, 2009)
[11], [12].
Khu hệ Oribatida của Canada là một trong những khu hệ được nghiên
cứu khá kỹ, từ rất sớm. Nhưng theo Behan - Pelletier et al., 2000. Mặc dù các
dẫn liệu về sinh thái, phân bố của chúng có nhiều, nhưng về khu hệ, số loài
được biết chỉ chiếm 1/4 số loài có trong thực tế [11].
Trong khoảng 20 năm gần đây, các hoạt động nghiên cứu Oribatida
diễn ra mạnh mẽ và nhiều kết quả được công bố. Trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác, cùng với kết quả nghiên cứu của riêng mình.
Schatz, 2006 một chuyên gia Oribatida người Thụy Sĩ đã công bố và tổng hợp
bản mục lục các loài Oribatida đã biết ở khu vực Trung Châu Mỹ. Danh sách
gồm 543 loài Oribatida thuộc 87 họ. Ngoài ra, ông còn liệt kê số lượng

Oribatida đã thu thập ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác cũng thuộc Trung
Mỹ như: Cuba (225 loài), Antilles (387 loài), Jamaica (28 loài).... Hiện tại
498 loài Oribatida đã được ghi nhận (gồm 300 loài đã xác định tên, 198 loài
còn ở dạng sp., cf...) [11], [12].
Nghiên cứu về Oribatida ở Nga phát triển mạnh từ những năm 50 của
thế kỷ XX. Cho đến nay đã ghi nhận được 300 loài Oribatida ở tất cả các hệ
sinh thái. Riêng khu hệ Oribatida sống trên cây cũng được quan tâm cách đây
mấy chục năm (Ermilov S.G., et al., 2007) [10], [11].
Đến năm 1999, Ve bét (Acari) được coi là cư dân truyền thống của đất
và thảm mục nhưng chúng chưa được chú ý đến nhiều ở sinh cảnh này. Tuy
vậy, độ phong phú của khu hệ Ve bét sống tự do, cư trú trên tán cây rừng
nhiệt đới, ôn đới, được xem như “những sinh vật sống trôi nổi trên cây”

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

4

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

(Wallter et al., 1999) đã được một số tác giả đề cập tới. Chúng được thu thập
từ vỏ cây, rêu, địa y (Trave’, 1963; Andre’ et al.,1984; Wunderle, 1991;
Lindo et al., 2007) [11], [12].
Năm 2004, Karasawa đã nghiên cứu cấu trúc quần xã Oribatida ở đất
treo và các nhân tố hữu sinh, vô sinh gây nên sự đa dạng của chúng. Theo tác
giả, Oribatida là một trong những nhóm Chân khớp chiếm ưu thế về số lượng

trong đất treo. Từ sinh cảnh này thu được không ít hơn 50 loài. Độ đa dạng
loài Oribatida ở đất treo có thể thấp hơn so với khu hệ Oribatida ở đất rừng
(Karasawa, 2004).
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của
Oribatida theo các hướng: chỉ thị cho chất lượng đất ở mức độ loài hay quần
xã, chỉ thị cho thuốc trừ sâu, phân bón... sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
chỉ thị cho môi trường đô thị... [1].
Những lợi thế của Oribatida khi sử dụng chúng như những sinh vật chỉ
thị trong việc đánh giá chất lượng hệ sinh thái trên cạn là ở chỗ: chúng có độ
đa dạng cao, thu lượm với số lượng lớn một cách dễ dàng, ở tất cả các mùa
trong năm, trong nhiều sinh cảnh; việc định loại cá thể trưởng thành tương đối
dễ; hầu hết chúng sống trong tầng hữu cơ của lớp đất màu mỡ và chúng là
nhóm dinh dưỡng không đồng nhất. Chúng bao gồm các taxon được đặc trưng
bởi sự sinh sản nhanh, thời gian sinh sống của các con non và con trưởng
thành dài, khả năng tăng quần thể chậm... (Behan - Pelletire, 1999).
Một số nghiên cứu sơ bộ về chỉ thị sinh học trong môi trường đô thị
cũng cho thấy Oribatida là nhóm động vật nhạy cảm với sự thay đổi chất
lượng không khí (Andre’, 1976; Weighmann, 1972 , 1991).
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế
giới, được nghiên cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

5

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

vai trò chỉ thị. Nhưng ở Việt Nam thì hướng nghiên cứu về nhóm này mới chỉ
bắt đầu ở thời gian gần đây.
1.3. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam
Ở Việt Nam, động vật chân khớp bé ở đất đã được nghiên cứu từ những
năm 30 của thế kỉ XX. Ban đầu là các nghiên cứu lẻ tẻ của các tác giả nước
ngoài kết hợp nghiên cứu cùng các nhóm sinh vật khác.
Năm 1967, lần đầu tiên trong công trình “New Oribatid from Viet
Nam”, hai tác giả người Hungari là Balogh J. và Mahunka S. đã giới thiệu
khu hệ, danh pháp học và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp, trong đó đã
mô tả 29 loài, 4 giống mới cho khoa học [14].
Từ sau 1975, các tác giả trong nước bước đầu đã tiến hành nghiên cứu
độc lập về Oribatida. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của tác giả
Vũ Quang Mạnh về nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở tỉnh Cà Mau và
huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 1980, 1984... [7].
Tiếp theo là hàng loạt các nghiên cứu của nhiều tác giả nhằm đề xuất
phương pháp nghiên cứu, xác định mật độ, thành phần loài, khu hệ (chủ yếu
là nhóm Acari và Collembola) ở một số vùng địa lý, loại đất và kiểu hệ sinh
thái của Việt Nam [13].
Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva (1987) đã công bố kết quả nghiên cứu về
đặc điểm phân bố và danh pháp phân loại học của 11 loài mới cho khu hệ
Oribatida Việt Nam và 1 loài mới cho khoa học [4].
Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật (1990) xác định được 24 loài
Oribatida ở vùng đồi núi Đông Bắc Việt Nam khi tiến hành nghiên cứu cấu
trúc định lượng của nhóm Microarthropoda ở 7 kiểu sinh thái, theo 5 dải độ
cao khí hậu và 3 loại đất. Theo 2 tác giả này, trong nhóm Microarthropoda,
Oibatida luôn chiếm số lượng chủ yếu từ 70 - 80% tổng số lượng, còn nhóm
Collembola chỉ chiếm 10% [6].


SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

6

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Quang Mạnh, Vương Thị Hòa (1995) đã công bố danh sách 146
loài và phân loài Oribatida ở Việt Nam và phân tích đặc điểm thành phần loài
của chúng [5].
Những nghiên cứu về Chân khớp bé ở Việt Nam cho thấy: việc nghiên
cứu Microarthropoda đã đề cập một cách toàn diện và có hệ thống với kết quả
cao. Tuy nhiên các kết quả đạt được mới chỉ là những bước đi định hướng ban
đầu. Để tìm hiểu thấu đáo vai trò của nhóm động vật Chân khớp bé sống trong
môi trường đất, để đưa Microarthropoda ứng dụng vào lĩnh vực khoa học và
thực tiễn thì việc nghiên cứu Chân khớp bé cần được đẩy mạnh nghiên cứu
trong những năm tiếp theo.

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

7

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài Oribatida (Acari: Oribatida) thuộc phân lớp Ve giáp (Acari)
lớp Hình nhện (Arachnida) phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata),
ngành Chân khớp (Arthropoda) [2].
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành thu mẫu đất tại 4 điểm trên đảo Ngọc: Đất rừng ở
tầng 0 - 10 cm kí hiệu là tầng -1; đất rừng ở tầng sâu 11 - 20cm kí hiệu là
tầng -2; thảm lá mục kí hiệu là tầng 0; thân gỗ mục kí hiệu là tầng +1. Tổng
số mẫu đã thu là 20 mẫu.
2.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013, tổng số mẫu là 20 mẫu.
Tháng 5 năm 2012 chúng tôi tiến hành lấy mẫu đất trên đảo Ngọc rồi đưa về
PTN Động vật học trường ĐHSP Hà Nội 2 để xử lí và tiến hành phân tích,
nghiên cứu.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp truyền thống trong nghiên cứu khu hệ và sinh
thái động vật đất ở thực địa và trong phòng thí nghiệm theo Krivolutsky, 1975
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
Mẫu đất được lấy ở 2 tầng có độ sâu từ 0 - 10 cm (tính từ mặt đất) kí
hiệu là tầng -1, và ở độ sâu 11 - 20 cm kí hiệu là tầng -2. Mỗi mẫu có kích
thước (5 x 5 x 10) cm.
Các mẫu định lượng của đất được thu lặp lại 5 lần ở mỗi tầng và ở mỗi
điểm nghiên cứu. Mỗi mẫu được cho vào 1 túi nilon riêng được buộc chặt,
bên trong có chứa nhãn ghi đầy đủ các thông số: tầng đất, ngày, tháng, địa
điểm… lấy mẫu.


SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

8

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Đối với thảm lá rừng phủ trên mặt đất, chúng tôi tiến hành gom tất cả lá
mục, cành cây, xác hữu cơ phủ trên mặt đất có diện tích 20cm x20cm, mỗi
mẫu được cho vào 1 túi nilon riêng được buộc chặt, bên trong có chứa nhãn
ghi đầy đủ các thông số: ngày tháng, địa điểm… lấy mẫu.
Bảng 2.1. Địa điểm, tầng đất và số lượng mẫu thu ở khu vực nghiên cứu

Tầng

Tầng -2

Tầng -1

Tầng 0

Tầng +1

Tổng


Số lượng

5

5

5

5

20

2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Tách lọc mẫu Oribatida
Các mẫu sau khi thu ở thực địa về sẽ tiếp tục tiến hành tách động vật
Chân khớp bé ra khỏi đất theo phương pháp phễu lọc “Berlese - Tullgren”,
dựa theo tập tính hướng đất dương và hướng sáng âm của động vật đất, trong
thời gian 7 ngày đêm, ở điều kiện nhiệt độ phòng thí nghiệm.
Để xử lý mẫu, bảo quản và định loại: Các ống nghiệm chứa động vật
thu được nhờ phễu “Berlese - Tullgren” sẽ được đổ trên giấy lọc đặt sẵn trong
đĩa petri để dưới kính lúp 2 mắt để nhặt riêng từng nhóm Oribatida. Các mẫu
Oribatida không làm tiêu bản, sẽ được cho vào trong ống nghiệm chứa dung
dịch định hình là formol 4%. Các ống nghiệm đều được gắn nhãn ghi đầy đủ
ngày thu mẫu, địa điểm... Toàn bộ tiêu bản định loại và các mẫu vật được bảo
quản tại phòng thí nghiệm Động vật học, khoa Sinh - KTNN, trường Đại học
Sư Phạm Hà Nội 2.
Định loại Oribatida
Mẫu Oribatida, trước khi được định loại cần được tẩy màu, làm trong
vỏ kitin cứng. Quá trình làm trong màu có thể diễn ra trong một vài ngày hoặc


SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

9

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

lâu hơn nên cần nhặt Oribatida riêng ra một lam kính lõm. Đưa lam kính lõm
quan sát dưới kính lúp, dựa vào đặc điểm hình dạng ngoài, dùng kim tách sơ
bộ chúng thành nhóm có hình thù giống nhau riêng. Dùng kim chuyển từng
Oribatida vào chỗ lõm dưới lamel để quan sát ở các tư thế khác nhau theo
hướng lưng và bụng và ngược lại. Khi mẫu ở đúng tư thế quan sát, ta chuyển
sang kính hiển vi.
Sau khi định loại xong, các loài được đo kích thước và chụp ảnh. Tất cả
các cá thể cùng một loài để chung vào một ống nghiệm, dùng dung dịch định
hình bằng formol 4%. Dùng giấy can ghi các thông số tên loài cần thiết bằng
bút chì rồi nút bằng bông không thấm nước; tất cả các ống nghiệm được đặt
chung vào lọ thủy tinh lớn chứa formol 4% để bảo quản lâu dài. Ghi tất cả các
tên loài đã được định loại vào nhật ký phòng thí nghiệm.
Danh sách các loài Oribatida được sắp xếp theo hệ thống cây chủng
loại phát sinh dựa theo hệ thống phân loại của Balogh J. và Balogh P., 1992
[2]. Các loài trong một giống được sắp xếp theo vần a, b, c. Định loại tên loài
theo các tài liệu phân loại, các khóa định loại của các tác giả: Baker E. et al.,
1952; Grandjean, 1954; Ghilarov M., et al, 1975; Norton R A., 1990;
Willmann, 1931; Vũ Quang Mạnh, 2007 [3], [11].
Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã phân tích, xử lý và định loại đều

được PGS.TS. Vũ Quang Mạnh và TS. Đào Duy Trinh kiểm định lại.
2.5. Xử lí số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê trong tính toán và xử lý số liệu, trên
nền phần mềm Primer, 2001; phần mềm Microsoft Office Excell, 2007.
Các công thức tính:
- Độ ưu thế D:
=
Trong đó:

× 100%

D: độ ưu thế

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

10

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

na: số lượng cá thể của loài a
n: tổng số cá thể của toàn bộ mẫu theo sinh cảnh hay địa
điểm.
Độ ưu thế được phân ra 4 mức sau:
- Rất ưu thế: > 10% trong tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
- Ưu thế: 5,1 - 10 % trong tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.

- Ưu thế tiềm tàng: 2- 5% trong tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
- Không ưu thế: < 2% trong tổng số cá thể của sinh cảnh nghiên cứu.
Theo Ermilov và Chistyakov, 2007: loài Oribatida ưu thế là những loài
có độ ưu thế đạt giá trị 5 % trở lên [3].
-

Chỉ số Shannon - Weaner (H’)

Trong đó: s: Số lượng loài.
ni: Số lượng cá thể trong sinh cảnh nghiên cứu
- Chỉ số đa dạng tiềm tàng (J’)
=




Trong đó: H’: độ đa dạng.
S*: Số loài ưu thế tiềm tàng trong sinh cảnh
- Chỉ số tương đồng thành phần loài Jaccard (J):
=

+ −

× 100(%)

Trong đó: a: là số lượng loài gặp ở sinh cảnh nghiên cứu A
b: là số lượng loài gặp ở sinh cảnh nghiên cứu B
c: là số loài chung gặp ở sinh cảnh nghiên cứu A và B

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú


11

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

J: là chỉ số Jaccard, chỉ sự gần gũi thành phần loài giữa 2
quần xã sinh vật ở hai sinh cảnh sống nghiên cứu [3].
Mức độ tương đồng thành phần loài giữa các khu vực nghiên cứu hay
giữa các dạng sinh cảnh ngay trong một khu vực nghiên cứu cho phép hình
dung được mức độ gần gũi hay xa cách về điều kiện sống của các sinh cảnh
nghiên cứu. Để đánh giá chỉ số này, dùng công thức Jaccard, kết quả tính toán
được thể hiện qua biểu đồ lưới .
2.6. Một vài nét khái quát về khu vực nghiên cứu.
2.6.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Từ năm 2005, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Vĩnh Phúc đã có quy hoạch
chung Khu du lịch Đại Lải, giai đoạn từ 2005 - 2020, với diện tích 2088ha
nhằm xây dựng Đại Lải thành khu du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, thể
dục thể thao, văn hóa nhân văn tầm cỡ quốc tế. Đại Lải thuộc địa phận xã
Ngọc Thanh và xã Cao Minh thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội
khoảng 50km cách sân bay Nội Bài 15 km với hệ thống đường giao thông
thuận tiện cả đường bộ, đường sắt và đường hàng không. Là một hồ nước
nhân tạo, diện tích hồ là 525ha. Trên mặt hồ có đảo Ngọc rộng 3ha, chỗ cao
nhất trên 23m. Phía tây và tây nam hồ là núi Thằn Lằn. Đứng trên đỉnh núi có
thể quan sát được toàn cảnh khu vực hồ. Rừng Ngọc Thanh ở khu vực hồ có
500ha rừng tự nhiên, 300ha rừng mới trồng với hệ động, thực vật tương đối

đa dạng và phong phú.
Vĩnh Phúc là một tỉnh miền núi trung du nằm ở vùng Đông Bắc Việt
Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang, phía Tây giáp
tỉnh Phú Thọ, phía nam giáp tỉnh Hà Tây (cũ) và thủ đô Hà Nội.
Nhìn trên bản đồ địa lý tự nhiên nước ta, tỉnh Vĩnh Phúc nằm ở trung
tâm của miền Bắc Việt Nam, cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Tây Bắc.

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

12

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay có một vị trí địa lý khá thuận lợi cho phát triển kinh
tế, xã hội và giao lưu văn hoá [18].
Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có đầy đủ các đặc điểm
khí hậu của vùng trung du miền nùi phía Bắc. Nhiệt độ trung bình năm là 23,5
- 25oC, nhiệt độ cao nhất là 38,5oC, nhiệt độ thấp nhất là 20oC. Tuy nhiên do
ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên có sự chênh lệch khá lớn về nhiệt độ giữa
miền núi và đồng bằng. Vùng Tam Đảo ở độ cao 1000m so với mực nước
biển có nhiệt độ trung bình năm là 18oC [16].
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1400 đến 1600mm. Trong đó,
lượng mưa bình quân cả năm của vùng đồng bằng và trung du tại trạm Vĩnh
Yên là 1323,8mm, vùng núi tại trạm Tam Đảo là 2140mm. Lượng mưa phân
bố không đều trong năm tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến thàng 10, chiếm

80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ
chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm [16].
Hiện nay, Vĩnh Phúc đã xây dựng được rất nhiều khu du lịch như Tam
Đảo, Tây Thiên, Đại Lải… Nhưng đang được đầu tư hơn cả là khu du lịch
Đại Lải thuộc thị xã Phúc Yên. Trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 thì phát triển công nghiệp là nền tảng, du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phấn đấu đưa Vĩnh Phúc trở thành tỉnh
phát triển mạnh về khu du lịch [17].
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tỉnh Vĩnh Phúc đã,
đang và sẽ phải đối mặt với nguy cơ suy thoái môi trường.
2.6.2. Hiện trạng môi trường tại khu du lịch và các khu vực xung quanh
Phần lớn các hồ thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trong đó có Đầm Vạc và hồ Đại
Lải phải tiếp nhận nhiều nguồn thải: sinh hoạt, công nghiệp và y tế. Các
nguồn thải này đã gây nên sự quá tải đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

13

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

(hệ thống cấp nước, thoát nước, hệ thống giao thông, hệ thống thu gom, xử lý
rác và chất thải sinh hoạt) [19].
Cho đến nay, hệ thống cấp nước và thoát nước còn đơn giản, chưa được
xây dựng quy mô, đồng bộ. Nước thải tại khu dân cư, các cơ quan, nhà máy,

bệnh viện trên địa bàn thị xã, thị trấn được đổ trực tiếp vào các mương thoát
nước mưa ven các đường giao thông nội thị, sau đó thải ra các ao, hồ, đầm
[16].
Kết quả phân tích cho thấy: Hồ Đại Lải và Đầm Vạc đang ô nhiễm
nặng và xu hướng ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt Đại Lải là khu du lịch thu
hút rất nhiều khách tham quan nên cần được quan tâm nhiều hơn về vấn đề
bảo vệ môi trường nơi đây.
Về vấn đề thu gom, xử lý chất thải công nghiệp của các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng còn rất hạn chế. Các doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp không thể tự mình xử lý các loại rác thải phát
sinh mà thải trực tiếp ra môi trường, làm môi trường ngày càng xấu đi [16].
Vấn đề môi trường và sự tác động của con người đến môi trường cũng
ảnh hương ít nhiều đến sự phân bố của sinh vật nói chung và quần xã
Oribatida nói riêng.

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

14

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Hình 2.1. Vị trí địa lí khu du lịch Đại Lải - Phúc Yên- Vĩnh Phúc [20].

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú


15

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đa dạng thành phần loài Oribatida ở đảo Ngọc hồ Đại Lải, xã Ngọc
Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
3.1.1. Thành phần loài Oribatida ở đảo Ngọc hồ Đại Lải, xã Ngọc Thanh,
thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Danh sách loài Oribatida thu thập được ở đảo Ngọc, có tổng số 65 loài,
42 giống, 20 họ. Trong danh sách này, thành phần loài Oribatida được xếp
theo hệ thống phân loại của Balogh J. et al., 1992; Vũ Quang Mạnh, 2007 và
các tác giả Willmann, 1931; Grandjean, 1954; Sellnick, 1960; Ghilarov, 1975,
trình bày trong bảng 3.1 [3].
Bảng 3.1. Thành phần loài và sự phân bố của Oribatida theo tầng ở
KDL Đảo Ngọc, hồ Đại Lải

Phyllhermannia Berlese, 1916
1 Phyllhermannia gladiata Aoki, 1965

X

2 Phyllhermannia similis Balogh et Mahunka, 1967

X


CEPHEIDAE BERLESE, 1896
II1

III

Microtegeus Berlese, 1916

X

ZETORCHESTIDAE MICHAEL, 1898
III1

Zetochestes Berlese, 1888

X

4 Zetochestes saltator Oudemans, 1915
IV
4

Tầng +1

I1

3 Microtegeus reticulatus Aoki, 1965

3

Tầng 0


HERMANNIIDAE SELLNICK, 1928

II
2

Tầng -2

1

Tầng -1

STT loài

STT họ
I

Loài

ASTEGISTIDAE BALOGH, 1961
IV1

Cultroribula Berlese, 1908

X

5 Cultroribula lata Aoki, 1961

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú


16

X

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

V

PELOPPIIDAE BALOGH, 1943

5

V1

Furcoppia Balogh et Mahunka, 1966
6 Furcoppia parva Balogh et Mahunka, 1967

VI

X

X

CARABODIDAE C. L. KOCH, 1837


6

VI1

Aokiella Balogh et Mahunka, 1967

X

7 Aokiella florens Balogh et Mahunka, 1967
VII

OTOCEPHEIDAE BALOGH, 1961

7

VII1

Otocepheus Berlese, 1905
8 Acrotocepheus duplicornutus Aoki, 1965

X

9 discrepans Balogh et Mahunka, 1967

X

10 Acrotocepheus triplicornutus Balogh et Mahunka, 1967
8

VII2


X

Dolicheremaeus Jacot, 1938

X

11 Dolicheremaeus aoki (Balogh et Mahunka, 1967)
12
VIII
9

X

Dolicheremaeus lineolatus Balogh et Mahunka, 1967
EREMELLIDAE BALOGH, 1961

VIII1

Eremella Berlese, 1913

X

13 Eremella vestita Berlese, 1913
IX
10

OPPIIDAE GRANDJEEAN, 1954
IX1


Pulchroppia Subias et Balogh, 1989
14 Pulchroppia vietnamica (Balogh et Mahunka, 1967)

11

IX3

X

Striatoppia Balogh, 1958

X

15 Striatoppia opuntiseta Balogh et Mahunka, 1968
12

IX7

Lasiobelba Aoki, 1959

X

16 Lasiobelba remota Aoki, 1959
13

IX8

Oppia C. L. Koch, 1836

X


17 Oppia kuhnelti Csiszar, 1961
14

IX9

X

Arcoppia Hammer, 1977

X

18 Arcoppia baloghi Subias, 1984

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

17

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

X

19 Arcoppia hammereae Rodriguez et Subias, 1984
15


IX13

Pseudoamerioppia Subias, 1989

X

20 Pseudoamerioppia vietnamica (Mahunka, 1988)
X

X

SUCTOBELBIDAE JACOT, 1938

16

X1

Suctobelbella Jacot, 1937

X

21 Suctobelbella semiplumosa (Balogh et Mahunka, 1967)
XI

MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN, 1960

17

XI1


Unguizetes Sellnick, 1925
22 Unguizetes clavatus Aoki, 1967

18

XI1

X

Uracrobates Balogh et Mahunka, 1967
23 Uracrobates magniporosus Balogh et Mahunka, 1967

XII

X

X

X

X

XYLOBATIDAE J. BALOGH ET P. BALOGH 1984

19

XII1

Brasilobates Pérez-Inigo et Baggio, 1980


24 Brasilobates maximus Mahunka, 1988
20

XII2

Setoxylobates Balogh et Mahunka, 1967

25 Setoxylobates foveolatus Balogh et Mahunka, 1967
21

XII3

22

Perxylobates Hammer, 1972

26 Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988

X

27 Perxylobates vermiseta (Balogh et Mahunka, 1968)

X

28 Perxylobates vietnamensis (Jeleva et Vu, 1987)

X

29 Perxylobates sp.


X

XII4

X

X
X

X
X

X
X

Xylobates Jacot, 1929

30 Xylobates capucinus (Berlese, 1908)

X

X

31 Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904)

X

X

X


X

33 Xylobates monodactylus (Haller, 1804)

X

X

34 Xylobates sp.

X

X

32 Xylobates gracilis Aoki, 1962

XIII

X

X

PROTORIBATIDAE J. BALOGH ET P. BALOGH, 1984

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

18

K35B – SP Sinh



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

23

XIII1

Liebstadia Oudemans, 1906

35 Liebstadia humerata Sellnick, 1928
XIV
24

X

X

XIV1

XV

Cordiozetes Mahunka, 1983

X

HAPLOZETIDAE GRANDJEAN, 1936


25

XV1

Magnobates Hammer, 1967

37 Magnobates flagellifer Hammer, 1967
26

XV2

27

XV3

28

X

X

X

X

X

Peloribates Berlese, 1908

39 Peloribates pseudoporosus Balogh et Mahunka, 1967


X

40 Peloribates gressitti Balogh et Mahunka, 1967

X

X

X

41 Rostrozetes areolatus (Balogh, 1958)

X

X

X

42 Rostrozetes foveolatus Sellnick, 1925

X

X

X

43 Rostrozetes punctulifer Balogh et Mahunka, 1979

X


XV4

Rostrozetes Sellnick, 1925

44 Rostrozetes trimorphus Balogh et Mahunka, 1979
XVI

X

X

X
X

XVI1

Rhabdoribates Aoki, 1967

XVI2

XVI3

X

X

X

X


X

X

Nanobates Balogh et Balogh, 1980

47 Nanobates clavatus Mahunka, 1988
XVI4

X

Euscheloribates Kunst, 1958

46 Euscheloribates samsinaki Kunst, 1958

32

X

SCHELORIBATIDAE GRANDJEAN, 1953

45 Rhabdoribates siamensis Aoki, 1967

31

X

Cosmobates Balogh, 1959


38 Cosmobates nobilis Golosova, 1984

30

X

ORIBATULIDAE THOR, 1929

36 Cordiozetes olahi (Mahunka, 1987)

29

X

Scheloribates Berlese, 1908

48 Scheloribates cruciseta Vu et Jeleva, 1987

X

49 Scheloribates laevigatus (C. L. Koch, 1836)

X

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

19

K35B – SP Sinh



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

50 Scheloribates latipes (C. L. Koch, 1841)
51 Scheloribates pallidulus (C. L. Koch, 1840)

X

52 Scheloribates praeincisus (Berlese, 1916)

X

53 Scheloribates sp.
XVII
33

X

X

X

ORIPODIDAE JACOT, 1925
XVII1 Subpirnodus Mahunka, 1988
54 Subpirnodus mirabilis Mahunka, 1988

34


X

XVII2 Cosmopirnodus Balogh, 1970
55 Cosmopirnodus tridactylus Mahunka, 1988

35

X

X

X

X

X

X

X

XVII3 Oripoda Bank, 1904
56 Oripoda excavata Mahunka, 1988

36

XVII4 Truncopes Grandjean, 1956
57 Truncopes orientalis Mahunka, 1987

XVIII


X

CERATOZETIDAE JACOT, 1925

XVIII1

37

Allozetes Berlese, 1914

58 Allozetes pusillus Berlese, 191
XVIII2

38

X

60 Ceratozetes mediocris Berlese, 1908
XVIII3

39

X

Fuscozetes Sellnick, 1928

XIX1

Lamellobates Hammer, 1958


63 Lamellobates palustris Hammer, 1958
XIX2

X

X
X

Paralamellobates Bhaduri et Raychaudhuri, 1968

64 Paralamellobates schoutedeni (Balogh, 1959)
XX

X

AUSTRACHIPTERIIDAE LUXTON, 1985

62 Lamellobates ocularis Jeleva et Vu, 1987

41

X

X

61 Fuscozetes fuscipes (C. L. Koch, 1844)
XIX

X


Ceratozetes Berlese, 1908

59 Ceratozetes gracilis (Michael, 1884)

40

X

X

ORIBATELLIDAE JACOT, 1925)

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

20

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

42

XX1

Oribatella Bank, 1895


65 Oribatella sculpturata Mahunka, 1987
Số loài theo sinh cảnh

13

X

X

X

24

29

50

29

50

28

Ghi chú:
Tầng -1

: Tầng đất sâu 0 - 10cm

Tầng -2


: Tầng đất sâu 11- 20cm

Tầng 0

: Tầng lá mục

Tầng +1

: Tầng thân gỗ mục

I,II, III,…XX : Số thứ tự các họ
I1, II2, …XX2

: Số thứ tự các giống

X

: Loài băt gặp.

Như vậy cho đền nay, đã ghi nhận được 20 họ (HERMANNIIDAE
SELLNICK, 1928; CEPHEIDAE BERLESE, 1896; ZETORCHESTIDAE
MICHAEL, 1898; ASTEGISTIDAE BALOGH, 1961; PELOPPIIDAE
BALOGH, 1943; CARABODIDAE C. L. KOCH, 1837; OTOCEPHEIDAE
BALOGH,

1961;

GRANDJEEAN,

EREMELLIDAE

1954;

BALOGH,

SUCTOBELBIDAE

1961;
JCOT,

OPPIIDAE
1938;

MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN, 1960; XYLOBATIDAE J. BALOGH
ET P. BALOGH 1984; PROTORIBATIDAE J. BALOGH J.ET P. BALPGH,
1984; ORIBATULIDAE THOR, 1929; HAPLOZETIDAE GRANDJEAN,
1936; SCHELORIBATIDAE GRANDJEAN, 1953; ORIPODIDAE JACOT,
1925;

CERATOZETIDAE

JACOT,

1925;

AUSTRACHIPTERIIDAE

LUXTON, 1985; ORIBATELLIDAE JACOT, 1925) 42 giống, 65 loài trong
đó 3 loài mới chưa xá định được tên mới chỉ định loại đến giống ở dạng “sp.”
đó là: Perxylobates sp.; Xylobates sp.; Scheloribates sp. Chúng được phân bố
trong 4 tầng ở khu du lịch đảo Ngọc, hồ Đại Lải.


SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

21

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

3.1.2. Thành phần phân loại học của quần xã Oribatida ở đảo Ngọc hồ
Đại Lải, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Thành phần phân loại Oribatida thu được ở khu vực đảo Ngọc, hồ Đại
Lải, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc được thể hiện trong
bảng 3.2.

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

22

K35B – SP Sinh


Bảng 3.2 Thành phần phân loại học của ve giáp ở đảo Ngọc khu du lịch hồ Đại Lải.
Tầng -2

Họ (Taxon)


STT

Tầng -1

Tầng 0

Tỷ lệ % so với

Tầng +1

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

giống

loài


giống

loài

giống

loài

giống

loài

Số

Số

giống

loài

tổng số
Giống

Loài

1

HERMANNIIDAE SELLNICK, 1928

0


0

0

0

0

0

1

2

1

2

2,38

3,08

2

CEPHEIDAE BERLESE, 1896

0

0


0

0

0

0

1

1

1

1

2,38

1,54

3

ZETORCHESTIDAE MICHAEL, 1898

0

0

0


0

0

0

1

1

1

1

2,38

1,54

4

ASTEGISTIDAE BALOGH, 1961

1

1

0

0


0

0

1

1

1

1

2,38

1,54

5

PELOPPIIDAE BALOGH, 1943

1

1

0

0

0


0

1

1

1

1

2,38

1,54

6

CARABODIDAE C. L. KOCH, 1837

0

0

0

0

0

0


1

1

1

1

2,38

1,54

7

OTOCEPHEIDAE BALOGH, 1961

1

1

0

0

0

0

2


4

2

5

4,76

7,69

8

EREMELLIDAE BALOGH, 1961

0

0

0

0

0

0

1

1


1

1

2,38

1,54

9

OPPIIDAE GRANDJEEAN, 1954

0

0

0

0

4

4

5

5

6


7

14,29

10,77

10

SUCTOBELBIDAE JCOT, 1938

0

0

0

0

0

0

1

1

1

1


2,38

1,54

11

MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN, 1960

1

1

0

0

1

1

1

1

2

2

4,76


3,08

12

XYLOBATIDAE J. BALOGH ET P. BALOGH 1984

2

4

1

2

4

9

4

10

4

11

9,52

16,92


1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

2,38

1,54

13

PROTORIBATIDAE J. BALOGH J.ET P.
BALPGH, 1984


SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

23

K35B – SP Sinh


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

14

ORIBATULIDAE THOR, 1929

0

0

0

0

1

1

0

0


1

1

2,38

1,54

15

HAPLOZETIDAE GRANDJEAN, 1936

3

6

4

5

3

5

3

6

4


8

9,52

12,30

16

SCHELORIBATIDAE GRANDJEAN, 1953

1

1

2

2

3

3

4

8

4

9


9,52

13,85

17

ORIPODIDAE JACOT, 1925

3

3

2

2

4

4

1

1

4

4

9,52


6,15

18

CERATOZETIDAE JACOT, 1925

1

1

0

0

1

1

3

3

3

3

7,14

4,62


19

AUSTRACHIPTERIIDAE LUXTON, 1985

2

3

1

1

0

0

0

0

2

3

4,76

4,62

20


ORIBATELLIDAE JACOT, 1925

1

1

0

0

1

1

1

1

1

1

2,38

1,54

22

26


12

14

23

29

33

50

42

65

100%

100%

Tổng

Ghi chú:
Tầng -2

: Độ sâu của tầng đất từ 11 -20 cm

Tầng -1


: Độ sâu của tầng đất từ 0 -10 cm

Tầng 0

: Thảm lá mục 0 cm

Tầng +1

: Gỗ mục 0 - 100 cm

SVTH: Nguyễn Ngọc Tú

24

K35B – SP Sinh


×