Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Bước đầu nghiên cứu thành phần loài ve giáp (acari oribatida) ở đai cao địa lý vườn quốc gia xuân sơn phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.59 MB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
------  -------

NGUYỄN THỊ LOAN

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU
THÀNH PHẦN LOÀI VE GIÁP
(ACARI: ORIBATIDA)
Ở ĐAI CAO ĐỊA LÝ VƯỜN QUỐC GIA
XUÂN SƠN - PHÚ THỌ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học

HÀ NỘI – 2011


Khãa luËn tèt nghiÖp

Lời cảm ơn
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi nhận được nhiều sự giúp
đỡ quý báu của các đơn vị và cá nhân. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn và chân thành tới:
Các thày cô trong Khoa Sinh – KTNN, trường ĐHSP Hà Nội 2 những
người đã trực tiếp giảng dạy, truyền thụ kiến thức và kinh nghiệm quý báu để
tôi hoàn thành khóa học.
Ban lãnh đạo, các thầy cô, cán bộ trong tổ Động vật học và tổ Vi sinh
học, Khoa Sinh – KTNN trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 – đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi được học tập và hoàn thành việc nghiên cứu của mình.
Ban lãnh đạo Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, tập thể cán bộ
phòng sinh thái môi trường đất đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuân lợi cho tôi


trong quá trình hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. Đào Duy Trinh,
người trực tiếp hướng dẫn tận tình, chu đáo, hướng dẫn có hiệu quả trong suốt
quá trình hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm tất cả những người thân, anh chị
khóa K31, K32, bạn bè đã luôn giúp đỡ, động viên và khích lệ để tôi vượt qua
nhiều khó khăn ban đầu, hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Thị Loan

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

ii


Khãa luËn tèt nghiÖp
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận là
kết quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của ThS.
Đào Duy Trinh.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu cá nhân mình trong
khóa luận này.
Sinh viên
Nguyễn Thị Loan

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

iii



Khãa luËn tèt nghiÖp
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các kí hiệu và chữ viết tắt
Danh mục các bảng và các hình
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................

1
1

2. Mục đích của đề tài..............................................................................

3

3. Nội dung của đề tài..............................................................................

3

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU..............................................
1.1. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới.........

4
4


1.2. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam..........

7

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU.........................................................................
2.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................
2.2. Địa điểm nghiên cứu.........................................................................
2.3. Thời gian nghiên cứu.........................................................................
2.4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................
2.4.1. Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa.........................................
2.4.2. Phương pháp trong phòng thí nghiệm..........................................
2.4.3. Vị trí phân loại, hình dáng chung, đặc điểm phân biệt các nhóm
Ve bét với các nhóm khác của lớp Hình nhện (Arachnida) và đặc điểm
phân biệt các nhóm Ve bét chính (Oribatida, Gamasina, Uropodina và
Acari khác)..................................................................................................
2.4.4. Loài ưu thế...................................................................................
2.5. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu............
2.5.1. Vị trí địa lý, địa hình và đất đai...................................................
2.5.2. Khí hậu và thủy văn.....................................................................
2.5.3. Thổ nhưỡng..................................................................................
2.5.4. Tài nguyên sinh vật.....................................................................
2.5.5. Điều kiện kinh tế xã hội...............................................................
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN............................................
3.1. Thành phần loài Oribatida ở khu vực nghiên cứu............................

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

iv


10
10
10
13
13
13
13

16
17
18
18
20
20
21
22
24
24


Khãa luËn tèt nghiÖp
3.1.1. Danh sách loài........................................................................

24

3.1.2. Thành phần phân loại học......................................................

30

3.2. Đặc điểm phân bố của Ve giáp theo đai cao địa lý...........................


33

3.3. Một vài chỉ số định lượng của Ve giáp ở khu vực nghiên cứu...........

35

3.3.1. Đa dạng thành phần loài........................................................

36

3.3.2. Mật độ trung bình..................................................................

37

3.3.3. Những loài Oribatida ưu thế...................................................

37

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

v

39
41



Khãa luËn tèt nghiÖp
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
MĐTB
S
S1
RTN
RNT
VQG

: Mật độ trung bình
: Số lượng loài theo tầng phân bố
: Số lượng loài theo đai cao
: Rừng tự nhiên
: Rừng nhân tác
: Vườn quốc gia

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

vi


Khãa luËn tèt nghiÖp
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ CÁC HÌNH
TT
Nội dung
Trang
1. Bảng 3.1. Thành phần loài và phân bố theo đai cao khí hậu ở
VQG Xuân Sơn, Phú Thọ..........................................................
24
2. Bảng 3.2. Thành phần phân loại học của Ve giáp ở đai cao địa

30
lý................................................................................................
3.

Bảng 3.3. Chỉ số định lượng cấu trúc quần xã Oribatida theo
đai cao khí hậu ở VQG Xuân Sơn, Phú Thọ.............................

4.
5.

Hình 2.1. Những đai cao ở khu vực nghiên cứu........................
Hình 2.2. Vị trí địa lý VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ...............

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

vii

35
12
18


Khãa luËn tèt nghiÖp
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế giới sinh vật trong đất vô cùng phong phú và đa dạng, ta có thể gặp
hầu hết các đại diện của ngành động vật không xương sống và động vật có
xương sống. Động vật sống trong đất có số lượng và sinh khối lớn, chiếm hơn
90% tổng sinh khối sinh vật cạn và 50% tổng số loài động vật trên trái đất,

nên chúng là thành phần quan trọng tạo nên tính đa dạng của sinh giới. Động
vật đất có vai trò vô cùng quan trọng trong tự nhiên, là thành phần không thể
thay thế trong các quá trình sinh học trong đất và sinh quyển (Vũ Quang
Mạnh, 2003) [9].
Ngay từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các nhà động vật học, thổ
nhưỡng học, sinh thái học đã đặc biệt quan tâm đến các hoạt động tạo đất của
các nhóm sinh vật sống trong môi trường này. Tuy nhiên, chỉ đến những năm
40 – 50 của thế kỉ XX, nghiên cứu các nhóm sinh vật đất cùng các hoạt động
sống của chúng trong mối quan hệ chặt chẽ với môi trường đất mới thực sự
trở thành bộ môn khoa học riêng biệt, đó là khoa học sinh thái đất. Ngày nay,
số lượng nghiên cứu của các công trình này ngày càng đa dạng, ngay trong
phòng thí nghiệm và ứng dụng thực tiễn (Vũ Quang Mạnh, 2003) [9].
Trong hệ thống động vật đất, nhóm động vật Chân khớp bé
(Microarthropoda), với kích thước cơ thể khoảng 0,1- 0,2mm đến 2,0-3,0mm
thường chiếm ưu thế về số lượng. Hai đại diện chính của nhóm này là Ve bét
(Acari) và Bọ nhảy (Collembola). Ngoài ra còn có các đại diện thuộc các
nhóm động vật không xương sống khác như: Nhiều chân (Myriapoda), Đuôi
nguyên thủy (Protura), Hai đuôi (Diplura), Ba đuôi (Thysanura)…
Oribatida (Acari: Oribatida, còn được gọi là Oribatei hoặc
Cryptostigmata) là những Chân khớp có kìm (Arthropoda: Chelicerata), thuộc

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

1


Khãa luËn tèt nghiÖp
lớp Hình nhện (Arachnida), có kích thước cơ thể nhỏ khoảng 0,1 – 0,2mm
đến 1,0 – 2,0mm, nên được xếp vào nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda)
cùng với nhóm Collembola của quần xã sinh vật đất. Chúng là một trong

những nhóm Ve bét đa dạng và phong phú nhất, đặc biệt trong đất rừng, trong
các tầng nông sâu của đất (tập trung hầu hết ở tầng đất phía trên, từ 0 –
20cm). Oribatida tham gia tích cực trong sự phân hủy vật chất hữu cơ, trong
chu trình nitơ và trong quá trình tạo đất. Chúng ăn cả thực vật sống và chết,
nấm, rêu, địa y và thịt thối rữa. Nhiều loài là vật chủ trung gian của sán dây
(sán sơ mít), một vài loài là động vật ăn thịt. Do có mật độ quần thể lớn, có
thể đạt tới vài trăm nghìn cá thể trong 1m2 đất, thành phần loài đa dạng, nên
việc phát hiện đầy đủ nhóm động vật này sẽ góp phần làm chủ nguồn tài
nguyên đa dạng sinh học, đánh giá đặc điểm khu hệ và tính chất địa động vật.
Nghiên cứu cấu trúc của quần xã Oribatida có ý nghĩa quan trọng trong
chỉ thị sinh học, các quá trình diễn thế của hệ sinh thái, là cơ sở cho việc quản
lý và khai thác bền vững nguồn tài nguyên môi trường đất. Do có số lượng cá
thể phong phú, dễ thu lượm, dễ nhận dạng, lại rất nhạy cảm với những biến
đổi của các điều kiện môi trường sống. Đặc biệt là các tác động của con người
vào môi trường đất tự nhiên nên Oribatida được sử dụng như đối tượng
nghiên cứu mẫu, phục vụ công tác quản lý, kiểm tra đánh giá chất lượng đất
và sự ô nhiễm, thoái hóa đất. Một số nhóm Oribatida còn là đối tượng gây hại
trực tiếp cho cây trồng, là vectơ phát tán và lan truyền một số mầm bệnh và
giun sán kí sinh cây trồng, vật nuôi và con người.
Cho đến nay khu hệ động vật Oribatida Việt nam mới được nghiên cứu
chưa đầy đủ và đồng bộ ở các vùng lãnh thổ. Nhìn chung các nghiên cứu
Oribatida ở khu vực phía Bắc được tiến hành nhiều hơn nhưng dẫn liệu còn ít
và tản mạn.
Bên cạnh đó, Vườn Quốc gia (VQG) Xuân Sơn nằm trên địa phận hành
chính của 4 xã: Xuân Sơn, Đồng Sơn, Xuân Đài, Kim Thượng ở phía Tây của
NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

2



Khãa luËn tèt nghiÖp
huyện Thanh Sơn cũ, nay là huyện Tân Sơn, trên vùng tam giác ranh giới của
3 tỉnh: Phú Thọ, Hòa Bình và Sơn La. Lớp thảm thực vật rừng đa dạng với
nhiều trạng thái khác nhau: rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, rừng kín
thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi, rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy,
trảng cỏ cây bụi, cây gỗ rải rác....VQG Xuân Sơn là một trong những khu vực
có giá trị cao về đa dạng sinh học, lưu giữ và bảo tồn nhiều loài động, thực
vật quý hiếm đang bị đe dọa ở mức quốc gia và toàn cầu. Nguồn tài nguyên
sinh học của vườn đã được điều tra nghiên cứu khá kĩ nhưng chủ yếu tập
trung vào khu hệ thực vật, động vật có xương sống trên cạn, côn trùng. Các
nhóm động vật không xương sống ở đất hầu như chưa được quan tâm, ngoại
trừ một vài nghiên cứu về nhóm Microarthropoda, Acari cũng như
Collembola nhưng còn hạn chế về quy mô và thời gian.
Xuất phát từ vấn đề trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “ Bước đầu
nghiên cứu thành phần loài Ve giáp (Acari: Oribatida) ở đai cao địa lý
Vườn Quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ”.
2. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu về thành phần loài và đặc điểm phân bố của Oribatida ở
đai cao địa lý Vườn Quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ.
3. Nội dung của đề tài.
Tìm hiểu và thống kê thành phần loài Ve giáp (Acari: Oribatida) ở đai
cao địa lý Vườn Quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ.
Nhận xét về cấu trúc thành phần loài và đặc điểm phân bố của Ve giáp
theo kết quả nghiên cứu.
Tìm hiểu một số chỉ số định lượng của Oribatida ở vùng nghiên cứu.

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

3



Khãa luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới
Trên thế giới các nhóm động vật không xương sống nói chung
Oribatida nói riêng đã được nghiên cứu từ rất lâu, cách đây hàng trăm năm. Ở
Đức từ năm 1804 với công trình của Hermann J.F.; ở Ý từ năm 1876, 1877
với công trình của Canestrini G. & Fanzago F.;.... Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu về Oribatida chỉ phát triển mạnh trong thời gian gần đây. Khu hệ
Oribatida thế giới hiện đã mô tả khoảng 10000 loài và thực tế có thể lên đến
100000 loài [27].
Theo Balogh J. và Balogh P. (1992), số lượng giống Oribatida trên thế
giới đã tăng từ 700 giống đến hơn 1000 giống chỉ trong 20 năm gần đây
(Balogh J. và Balogh P.,1992) [17].
Theo hệ thống phân loại của Ghilarov và Krivolutsky đề xuất (1975),
Oribatida là một nhóm phân bộ Ve bét thực (Acariformes), phân lớp Ve bét
có lỗ thở ẩn (Cryotostigmata), phân lớp Ve bét (Acari), lớp Hình nhện
(Arachnida) [22]. Còn theo hệ thống phân loại của Balogh J. và Balogh P. đề
xuất vào năm 1992 hiện đang được các chuyên gia chuyên ngành Oribatida
học trên thế giới sử dụng rộng rãi, Oribatida được nâng lên thành bộ, thuộc
lớp Ve bét (Acari), liên lớp động vật Hình nhện (Arachnida), phân ngành Có
kìm (Chelicerata), ngành Chân khớp (Arthropoda) (Balogh J.,1963; Balogh J.
and Balogh P., 1992; Vũ Quang Mạnh, 2007) [10], [16], [17].
Trong các công trình nghiên cứu của Acari trước đây, các công trình
của Berlese đóng một vai trò quan trọng và có một vị trí đặc biệt. Ông là một
trong số những người quan tâm đến Ve bét ở Châu Âu sớm nhất. Chỉ từ năm
1881 đến năm 1923, ông đứng tên một mình, hoặc là đồng tác giả của 73 công
trình nghiên cứu về Acari, Microarthropoda, Scorpiones. Trong đó, ông đã


NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

4


Khãa luËn tèt nghiÖp
mô tả khoảng 120 loài Oribatida. Tuy nhiên tất cả các loài do Berlese mô tả
(hầu hết là loài mới cho khoa học) đều viết bằng tiếng la tinh, rất ngắn gọn,
chỉ gồm một vài nét gạch đầu dòng vì thế sau này, các loài do Berlese mô tả
đã được Hammen (2009) tu chỉnh, sắp xếp lại dựa trên hệ thống phân loại của
Grandjean (1954) và công bố trong công trình “ Berlese ‘s primitive Oribatida
mites” [26].
Cùng với kết quả nghiên cứu về nguồn gốc phát sinh chủng loại, khu
hệ, hệ thống học Oribatida, các nghiên cứu về sinh học Oribatida cũng thu
được nhiều kết quả có giá trị, trong đó việc nghiên cứu sự phát triển, sinh
trưởng trong mối quan hệ với các yếu tố tác động lên chúng là một hướng
quan trọng được nhiều tác giả chú ý. Bản chất và thời gian phát triển, sinh
trưởng của nhóm động vật này còn chưa được điều tra một cách cẩn thận và
đầy đủ. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu hiểu rằng các nhân tố môi trường
(như nhiệt độ, độ pH, hàm lượng mùn, số lượng và chất lượng thức ăn...) và
mật độ của các nhóm Chân khớp khác có thể ảnh hưởng đến thời gian sinh
trưởng của hầu hết Oribatida (Ermilov và Lochynska, 2008) [20].
Oribatida có kích thước từ 0,5 – 1,5mm, đa số nằm trong khoảng 0,3 –
0,7mm. Vòng đời của Oribatida bao gồm một gian đoạn ấu trùng không hoạt
động và 5 giai đoạn hậu phôi hoạt động: ấu trùng hoạt động, tiền nhộng, hậu
nhộng, nhộng tuổi 3 và nhộng trưởng thành (Behan – Pelletier, 1999; Ermilov
và Lochynska, 2008) [18], [20].
Song song với hướng nghiên cứu khu hệ, sinh học Oribatida, hướng
nghiên cứu các đặc điểm sinh thái, đa dạng sinh học và vai trò chỉ thị của
Oribatida cũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.

Oribatida tham gia tích cực trong sự phân hủy vật chất hữu cơ, trong
chu trình nitơ và trong quá trình tạo đất. Tất cả các giai đoạn trong chu kì
sống của chúng đều ăn một phổ thức ăn rộng, bao gồm thực vật sống và chết,

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

5


Khãa luËn tèt nghiÖp
nấm, rêu, địa y và thịt thối rữa. Nhiều loài là vật chủ trung gian của sán dây
(sán sơ mít), một vài loài là động vật ăn thịt, không có loài nào sống kí sinh
(Krants, 1978) [23]. Oribatida tham gia vào quá trình phân hủy mùn và cấu
trúc đất bằng cách nghiền nát các hợp chất hữu cơ. Phân của chúng dưới dạng
viên đã bổ xung một diện tích bề mặt lớn trong quá trình phân hủy và lại trở
thành phần trọng vẹn trong tầng hữu cơ của đất. Oribatida là nhóm quan trọng
nhất trong số các động vật thuộc lớp Hình nhện có ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp đến sự hình thành và duy trì cấu trúc đất (Mone và những người
khác, 1988) [25].
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của
Oribatida theo các hướng: chỉ thị cho chất lượng đất ở mức độ loài hay quần
xã, chỉ thị cho thuốc trừ sâu, phân bón... sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
chỉ thị cho môi trường đô thị....
Những lợi thế của Oribatida khi sử dụng chúng như những sinh vật chỉ
thị trong việc đánh giá chất lượng sinh thái trên cạn là ở chỗ: chúng có độ đa
dạng cao, thu lượm với một số lượng lớn một cách dễ dàng, ở tất cả các mùa
trong năm, trong nhiều sinh cảnh; việc định loại cá thể trưởng thành tương đối
dễ; hầu hết chúng sống trong tầng hữu cơ của lớp đất màu mỡ. Chúng bao
gồm các taxon được đặc trưng bởi sự sinh sản nhanh, thời gian sống của các
con non và con trưởng thành dài, khả năng gia tăng quần thể chậm...(Behan –

Pelletire, 1999) [18].
Việc sử dụng những đặc trưng ở mức độ cá thể ở Oribatida như sinh vật
chỉ thị cho việc đánh giá chất lượng đất vẫn còn đang ở giai đoạn khởi đầu.
Trong 15 năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu về phản ứng sinh thái và sinh
sản của các loài Oribatida đối với những biến đổi của môi trường.
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu Oribatida đã có từ rất lâu trên thế giới,
được nghiên cứu một cách có hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và vai

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

6


Khãa luËn tèt nghiÖp
trò chỉ thị. Nhưng ở Việt Nam thì hướng nghiên cứu về nhóm này mới chỉ bắt
đầu trong thời gian gần đây.
1.2. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam
Ở Việt Nam động vật Chân khớp bé ở đất đã được nghiên cứu từ
những năm 30 của thế kỉ XX. Ban đầu là các nghiên cứu lẻ tẻ của các tác giả
ngoài kết hợp nghiên cứu cùng các nhóm sinh vật khác.
Năm 1967, lần đầu tiên trong công trình “New Oribatid from Viet
Nam” hai tác giả người Hungari là Balogh J.và Mahunka S. đã giới thiệu khu
hệ, danh pháp học và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp, trong đó đã mô tả
29 loài, 4 giống mới cho khoa học.
Sau năm 1975, Oribatida mới được các tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu chuyên sâu. Ban đầu có những công trình nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài như Manhunka (1987) [21], Behan-Pelletier (1999)[18]....
Tiếp theo còn có một số công trình nghiên của các tác giả nước ngoài cộng
tác với Việt Nam như công trình của Vũ Quang Mạnh, Jeleva M., Tsonev I.
(1987) nghiên cứu về Oribatida ở miền Bắc Việt Nam.

Đến năm 1977, các tác giả trong nước bước đầu đã tiến hành các
nghiên cứu độc lập về Oribatida. Đầu tiên, phải kể đến công trình nghiên cứu
của tác giả Vũ Quang Mạnh về nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất
Cà Mau (Minh Hải) và Từ Liêm (Hà Nội) năm 1980, 1984 [4],[5].
Năm 1990, Vũ Quang Mạnh đã tổng kết tất cả các công trình nghiên
cứu Chân khớp bé ở Việt Nam cho đến thời điểm đó. Tác giả đã rút ra kết
luận về thành phần, đặc điểm phân bố và số lượng Microarthropoda, nêu lên
một số quy luật sinh thái quyết định sự hình thành cấu trúc của quần xã
Oribatida ở đất. Tác giả đưa ra danh sách 117 loài Oribatida đã biết ở Việt
Nam cho đến thời điểm đó, cùng với phân bố của chúng theo vùng địa lý, loại
đất và hệ sinh thái [7].

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

7


Khãa luËn tèt nghiÖp
Năm 1994, Vũ Quang Mạnh giới thiệu danh sách 28 loài Oribatida
sống trong vùng đất ven biển Yên Hưng (Quảng Ninh), đảo Cát Bà (Hải
Phòng) và đồng bằng sông Hồng (Từ Liêm – Hà Nội) cùng với sự phân bố
của chúng theo sinh cảnh, theo độ cao so với với mặt nước biển, theo địa
điểm và khoảng cách đến biển. Đồng thời tác giả nêu lên mối liên hệ giữa
Oribatida ở Việt Nam, vùng ven biển với Oribatida ở sâu trong đất liền [8].
Vũ Quang Mạnh, Vương Thị Hòa (2002) đã đưa ra dẫn liệu bổ sung về
vai trò và cấu trúc quần xã Oribatida ở vùng rừng Tam Đảo (Vĩnh Phúc).
Nhận xét cấu trúc quần xã Ve giáp ở hệ sinh thái đất có liên quan rõ rệt với sự
suy giảm của cây gỗ rừng. Nó có thể được xem xét và đánh giá như một đặc
điểm sinh học, chỉ thị quá trình diễn thế của thảm rừng Tam Đảo nói riêng và
của Việt Nam nói chung. Mặt khác có sự thay đổi đặc điểm thành phần loài

của quần xã Ve giáp theo chiều thẳng đứng, từ thảm rêu quanh thân cây và
vụn thực vật, nằm trên mặt đất từ 0+100 cm, cho đến lớp thảm lá rừng phủ
trên mặt đất, lớp đất mặt 0 – 10cm và lớp đất sâu 11 – 20cm ở hệ sinh thái
rừng Tam Đảo. Chỉ số này có thể được xem xét như một yếu tố chỉ thị sinh
học các diễn thế ở hệ sinh thái rừng Việt Nam (Vũ Quang Mạnh, Vương Thị
Hòa, 2002) [11].
Các tác giả: Phan Thị Huyền, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm,
Đặng Việt Hà, Đặng Thúy Hiền vào năm 2004 đã nghiên cứu và xác định
được 25 loài Oribatida thuộc 12 họ trong cấu trúc quần xã Ve bét ở hệ sinh
thái vùng rừng VQG Ba Vì [2].
Năm 2005, Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Xuân Lâm đã công bố khu hệ
Oribatida Việt Nam; xác định được 158 loài thuộc 46 họ, mang tính chất Ấn
Độ - Mã Lai thuộc vùng địa động vật Đông Phương. Song khu hệ Oribatida
Việt nam có tính chất chuyên biệt cao, có tới 72 loài chỉ mới phát hiện được ở
Việt Nam. Đồng thời có nhiều đặc điểm chung của các khu hệ Thái Lan,

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

8


Khãa luËn tèt nghiÖp
Indonesia, Malaisia, Philipin, Nhật Bản và các đảo Nam Thái Bình Dương
(Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm, 2005) [12].
Năm 2006, Vũ Quang Mạnh và Đào Duy Trinh công bố 30 loài
Oribatida được phát hiện ở VQG Xuân Sơn – Phú Thọ. Công bố Oribatida họ
Oppidae Grandjean, 1954; phân họ Oppiinae Grandjean, 1951 và
Mulltioppiinae Balogh, 1983 ở Việt Nam (Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh,
2006) [13].
Những nghiên cứu về Chân khớp bé ở Việt Nam cho thấy: việc nghiên

cứu Microarthropoda đã đề cập một cách toàn diện và có hệ thống với kết quả
cao. Tuy nhiên các kết quả đạt được mới chỉ là những bước đi định hướng ban
đầu. Để tìm hiểu thấu đáo vai trò của nhóm động vật Chân khớp bé sống trong
môi trường đất, để đưa Microarthropoda ứng dụng vào các lĩnh vực khoa học
và thực tiễn thì việc nghiên cứu chân khớp bé cần được đẩy mạnh nghiên cứu
trong những năm tiếp theo.

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

9


Khãa luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài Oribatida (Acari: Oribatida) thuộc ngành Chân khớp
(Arthropoda), phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata), lớp Hình nhện
(Arachnida), phân lớp Ve bét (Acari).
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Các đợt thực địa thu mẫu được thực hiện tại Vườn Quốc gia Xuân Sơn,
tỉnh Phú Thọ. Mẫu được thu ở sinh cảnh rừng tự nhiên trên các đai cao khí
hậu khác nhau (300 – 600m, 600 – 900m, 1000 – 1600m) với tổng 45 mẫu
định lượng. Mỗi đai cao tiến hành thu 15 mẫu ở các tầng: rêu, thảm lá, tầng
đất (sâu từ 0 – 10cm).
Các đai cao được hình thành do sự giảm nhiệt độ theo độ cao, trung
bình cứ trên 100m nhiệt độ giảm 0,50C. Các đai cao mang tính địa phương
sâu sắc, có thể nói mỗi dãy núi hay khối núi đều có hệ thống đai cao riêng,
tùy thuộc vào độ cao tuyệt đối, vào vị trí của núi trong đới, á đới, hướng hay

dạng sườn núi (Vũ Tự Lập, 2006) [3].
Tại VQG Xuân Sơn chúng tôi nghiên cứu:
Á đai 300 – 600m (thuộc đai khí hậu nội chí tuyến gió mùa khô đến
ẩm chân núi từ 0 – 600m): đới khí hậu chí tuyến gió mùa, nhiều nơi có mùa
đông giá rét (Vũ Tự Lập, 2006) [3].
Đai khí hậu á khí chí tuyến gió mùa hơi ẩm đến ẩm trên núi từ 600 –
2600m; chúng tôi nghiên cứu 2 đai:
Á đai 600 – 1000m: mang nhiều tính chất chuyển tiếp, do số tháng trên
200C chiếm đa số (Vũ Tự Lập, 2006) [3].

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

10


Khãa luËn tèt nghiÖp
Á đai 1000 – 1600m: á đai á chí tuyến điển hình, mùa đông dưới 100C
(Vũ Tự Lập, 2006) [3].

Đai cao 300-600m

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

11


Khãa luËn tèt nghiÖp

Đai cao 600-1000m


Đai cao 1000-1600m
Hình 2.1: Những đai cao ở khu vực nghiên cứu

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

12


Khãa luËn tèt nghiÖp
2.3. Thời gian nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành thu mẫu tháng V năm 2008 ở sinh cảnh rừng tự
nhiên, theo các đai cao khí hậu.
Mẫu thu đều được xử lý và phân tích đồng bộ. Mẫu đất, rêu, thảm lá
được lọc và tách Microarthropoda tại phòng thí nghiệm Tổ Động vật của
trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu mẫu trên thực địa
Ở VQG Xuân Sơn – Phú thọ, chúng tôi tiến hành thu mẫu tầng đất,
tầng rêu và thảm lá theo phương pháp nghiên cứu của Ghilarov, 1975. Mẫu
đất được lấy ở độ sâu 0-10cm với kích thước của mỗi mẫu thu là 5x5x10cm.
Đối với thảm lá rừng phủ trên mặt đất , chúng tôi tiến hành gom tất cả
lá mục, cành cây, xác hữu cơ phủ trên mặt đất có diện tích 20cm x 20cm, đem
cân và ghi lại trọng lượng.
Đối với các mẫu là thảm rêu bám trên thân cây gỗ rừng, xác vụn thực
vật trên mặt đất nằm ở độ cao từ 0 + 100cm trên mặt đất. Các mẫu này đều
được cân trọng lượng mỗi mẫu và tính trung bình theo kg.
Tất cả các mẫu sau khi thu được ở thực địa đều cho ngay vào túi nilon
riêng, bên trong có nhãn, ghi những thông số cần thiết (ngày, tháng lấy mẫu,
sinh cảnh, tầng phân bố...) rồi buộc chặt lại. Các mẫu thu được trong cùng
một tầng được để vào một túi nilon to, để khỏi lẫn và đỡ mất thời gian tách

lọc.
2.4.2. Phương pháp trong phòng thí nghiệm
Chúng tôi tiến hành tách nhóm động vật Chân khớp bé theo phương
pháp phễu lọc “Berlese – Tullgren” dựa theo tập tính hướng hướng sáng âm
và chui sâu xuống đất của các nhóm động vật đất khi các lớp trên bị khô dần.
Các mẫu bị khô dần từ lớp mặt, Chân khớp bé sẽ chui sâu đến lớp đất phía

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

13


Khãa luËn tèt nghiÖp
dưới, qua lưới lọc, rơi xuống phễu và trượt theo thành phễu rồi xuống ống thu
mẫu.
Cấu tạo của phễu lọc “Berlese – Tullgren” như sau: phễu lọc bằng thủy
tinh (hay bằng giấy cứng), cao 30cm, đường kính miệng 18cm, đường kính
vòi 1,5cm. Bộ phễu được đặt trong giá gỗ, vòi phễu gắn ống nghiệm chứa
dung dịch định hình. Dung dich định hình là cồn etylic 700 hay formol 4%.
Trong mỗi ống nghiệm có nhãn ghi rõ ngày lấy mẫu, tầng đất, sinh cảnh lấy
mẫu.
Đặt trên phễu là dây lọc hình trụ, thành là vành kim loại, đường kính
15cm, cao 4cm, lưới lọc bằng sợi nilon, kích thước mắt lưới khoảng (1,0x1,0)
mm. Trước khi cho mẫu đất vào rây lọc, đất được bóp nhỏ và được rải đều ở
mắt lưới, phần vụn lọt qua lỗ lưới sẽ được đổ trở lại trước khi đặt rây vào
phễu.
Sau khi lọc dùng dây chun bó các ống nghiệm đã được nút bông cùng
tầng đất trong một sinh cảnh với nhau, rồi lần lượt đặt vào lọ chứa dung dịch
formol 4%, có nhãn chung để khi phân tích không bị nhầm lẫn và hỏng mẫu.
Xử lý, phân tích Oribatida

Để có thể phân tích và đếm số lượng các mẫu động vật Chân khớp bé
chúng tôi đặt giấy lọc có chia ô trên phễu thủy tinh, rồi đổ riêng mỗi ống
nghiệm đã thu mẫu lên trên giấy lọc. Tráng lại nhiều lần bằng nước cất để
tránh sót mẫu. Sau khi lọc hết nước đặt tờ giấy lọc có chứa các động vật vào
đĩa petri và tiến hành phân tích dưới kính lúp. Dùng kim nhặt riêng các nhóm
phân loại và tính đếm số lượng, đối với Acari: Oribatida, Gamasina,
Uropodina



các

Acari

khác;

Collembola:

Poduromorpha,

Entomobryomorpha, Symphypleona và các Microarthropoda khác. Mỗi ống
nghiệm đựng mẫu đều có nhãn ghi lại các thông số cần thiết và nút bằng bông

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

14


Khãa luËn tèt nghiÖp
không thấm nước. Để giữ mẫu được lâu và không bị giòn, nát cần bổ sung vài

giọt dung dịch định hình Glixerin.
Định loại Oribatida
Riêng mẫu Oribatida, trước khi định loại cần phải tẩy màu, làm trong
vỏ Kitin cứng. Quá trình làm trong mẫu có thể diễn ra trong một vài ngày
hoặc lâu hơn nên cần nhặt Oribatida riêng ra một lam kính lõm. Đưa lam kính
quan sát với kính lúp: dựa vào đặc điểm hình dạng ngoài, dùng kim tách sơ bộ
chúng thành nhóm có hình thù giống nhau riêng. Đặt lamen ở bên trái lam
kính sao cho chỉ phủ một phần chỗ lõm. Nếu dung dịch axit lactic nhỏ vào
lam kính chưa đầy thì cần bổ sung cho đầy. Chú ý không để axit lactic bám
vào mặt trên của lamen. Dùng kim chuyển từng Oribatida vào chỗ lõm dưới
lamen để quan sát các tư thế khác nhau theo hướng lưng bụng và ngược lại.
Khi đặt mẫu ở đúng tư thế quan sát, ta chuyển quan sát dưới kính hiển vi. Đầu
tiên quan sát ở bội giác nhỏ, sau đó chuyển sang quan sát ở bội giác lớn hơn
sao cho phù hợp cấu trúc cần quan sát.
Đây là toàn bộ cách tiến hành làm tiêu bản tạm thời để quan sát và định
loại tạm thời. Làm tiêu bản tạm thời này làm mất thời gian nhưng có ưu điểm
là có thể quan sát mẫu ở mọi tư thế, có thể chọn và thay mẫu thích hợp cho
việc nghiên cứu Microarthropoda. Sau khi quan sát, định loại xong tất cả
Oribatida đã được định tên cùng một sinh cảnh được chuyển vào một ống
nghiệm (5x40mm) có chứa dung dịch định hình bằng formol 4%. Dùng giấy
can ghi các thông số tên loài cần thiết bằng bút chì và nút chặt bằng bông
không thấm nước. Tất cả các ống nghiệm này cũng được bảo quản trong lọ
thủy tinh lớn chứa formol 4% để bảo quản lâu dài. Ghi tất cả tên loài đã được
định loại vào nhật kí phòng thí nghiệm. Còn lại những Oribatida ở cùng sinh
cảnh chưa được định tên cho vào ống nghiệm riêng, các ống nghiệm này cũng
được bảo quản trong lọ khác để khi có điền kiện định loại tiếp.

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

15



Khãa luËn tèt nghiÖp
Định loại Oribatida theo tài liệu của Ghilarov và Krivolusky (1975);
Balogh J. và Balogh P. (1992), Vũ Quang Mạnh và các tài liệu định loại liên
quan khác.
Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã phân tích, xử lý và định loại đều
được ThS. Đào Duy Trinh kiểm định lại.
2.4.3. Vị trí phân loại, hình thái chung, đặc điểm phân biệt các nhóm Ve
bét với các nhóm khác của lớp Hình nhện (Arachnida) và đặc điểm phân
biệt các nhóm Ve bét chính (Oribatida, Gamasina, Uropodina và Acari
khác)
- Vị trí phân loại (theo Vũ Quang Mạnh, 2004):
Ve bét (Acari) thuộc: Ngành Chân khớp (Arthropoda) phân ngành Có
kìm (Chelicerata) lớp Hình nhện (Arachnida)
- Hình thái chung của Ve bét (Acari):
+ Ở đa số đại diện, thân nối liền thành một khối, không tách thành các
phần riêng biệt. Tuy nhiên ở một số đại diện khác phần ngực và phần bụng
dính liền thành một khối, phần đầu tách riêng khỏi thân.
+ Thân có chân xúc giác (Pedipaldia) tương đối ngắn. Đầu mang 2 đôi
phần phụ (kìm và chân xúc giác), tách riêng khỏi phần cơ thể. Đốt bàn chân
có lông cứng hoặc mềm, phân biệt rõ ràng.
- Đặc điểm chính để phân biệt Ve bét (Acari) với nhóm khác của lớp
Hình nhện (Arachnida):
+ Các đốt nối liền nhau, không có ranh giới. Nếu có sự phân đốt thì nó
không tương ứng với các đốt thân.
+ Phần trước cơ thể (Gnathosoma) rất linh hoạt, gồm có đôi kìm và đôi
chân xúc giác.
+ Từ trứng nở ra ấu trùng có 6 đốt rồi thành ấu trùng 8 đốt.


NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

16


Khãa luËn tèt nghiÖp
- Đặc điểm phân biệt các nhóm Ve bét chính: Oribatida, Gamasina,
Uropodina và Acari khác.
+ Nhóm Oribatida (Crytostigmata): vỏ cơ thể chúng thường phồng hình
khối và được bao phủ bởi vỏ kitin dày, tạo nên màu vàng nhạt hoặc nâu đen
của nhóm Oribatida. Cơ thể thường chia thành hai phần chính là đầu ngực và
bụng. Trên cơ thể mang 6 đôi phần phụ, bao gồm một đôi kìm,1 đôi chân xúc
tác và 4 đôi chân bò, không có gai cứng ở đốt bàn chân.
+ Gamasina: vỏ cơ thể mềm, thường không có màu sắc, có 4 cặp chân
dài, có 1 đôi lỗ thở nằm giữa gốc chân 2 và 3. Cơ thể hình Ovan.
+ Nhóm Uropodina: vỏ cơ thể mềm, hình dạng thân dẹp theo hướng
lưng bụng. Cơ thể có dạng hình đĩa bay hay hình con rùa.
+ Nhóm Acari khác: tất cả các dạng Ve, bét khác còn lại ngoài 3 nhóm
trên chúng tôi xếp chung vào nhóm này.
2.4.4. Loài ưu thế
D

na
x 100
N

Trong đó: D : độ ưu thế
n : số lượng cá thể của loài a
N: tổng số cá thể của toàn bộ mẫu theo sinh cảnh hay địa
điểm.

Theo Ermilov và Chistyakov, 2007: loài Oribatida ưu thế là những loài
có độ ưu thế đạt giá trị từ 5% trở lên.

NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

17


Khãa luËn tèt nghiÖp
2.5. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
2.5.1. Vị trí địa lý, địa hình và đất đai

Hình 2.2. Vị trí địa lý VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ
Cách Hà Nội 120km, nằm ở cuối dãy Hoàng Liên Sơn trên địa bàn
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ là VQG Xuân Sơn. Nơi đây có hệ sinh thái rừng
tự nhiên điển hình của miền Bắc, vẫn giữ nguyên được vẻ hoang sơ, nên có
sức hấp dẫn kì lạ những người đặt chân đến vùng đất này. Vườn có tổng diện
tích là 15048 ha, là một trong những vườn quốc gia có diện tích lớn nhất của
Việt Nam. Trong đó khu bảo vệ nghiêm ngặt: 11148 ha, phân khu phục hồi
sinh thái: 3000 ha và 900 ha dành cho phân khu hành chính, dịch vụ.
Vườn Quốc Gia Xuân Sơn nằm về phía Tây Nam của huyện Tân Sơn,
trên vùng tam giác ranh giới giữa 3 tỉnh: Phú Thọ, Hoà Bình, và Sơn La.
NguyÔn ThÞ Loan – K33C Sinh

18


×