Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Lúa là cây lương thực chính của hơn một nửa dân số thế giới, tập trung
tại các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh.
Ở Việt Nam lúa là cây trồng chính đã chiếm một diện tích lớn. Nghề
trồng lúa có từ rất lâu đời với các phương thức canh tác rất lạc hậu, chậm tiến
bộ trong việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào việc sản xuất lúa, do vậy mà sản
lượng đạt được là rất thấp. Nguồn lương thực từ lúa gạo mang lại không
những để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của con người mà còn cung cấp nguyên
liệu cho một số nghành sản xuất khác như: công nghiệp chế biến lương thực
thực phẩm, công ngiệp chế biến thức ăn gia súc…
Việt Nam có hai vùng trồng lúa chính là đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long. Hàng năm sản lượng của cả nước đạt 33-34 triệu tấn
thóc trong đó có 8 triệu tấn thóc dùng cho xuất khẩu, còn lại dùng để phục vụ
trong nước. Cho tới nay Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên
thế giới sau thái lan. Để nâng cao đời sống của người dân thì việc tìm cách
phát triển sản xuất lương thực, nâng cao năng suất phẩm chất lúa gạo là nhiệm
vụ rất quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Dân số ngày càng tăng diện tích đất cho nông nghiệp ngày càng giảm sút
lượng lương thực sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu của con người. Ngoài
ra, thế giới còn phải gánh chịu những biến đổi về khí hậu toàn cầu gây khô
hạn, bão lụt, quá trình đô thị hóa làm giảm đất trồng lúa.
Đây là các áp lực đối với ngành sản xuất lương thực, thực phẩm. Vì thế
chương trình phát triển cây lương thực để đảm bảo an ninh lương thực cho
quốc gia là vấn đề được các nước ưu tiên và coi là quốc sách hàng đầu [14].
Do vậy để đáp ứng các nhu cầu của con người, đảm bảo an toàn lương
thực và phát triển nền kinh tế nông nghiệp thì việc nâng cao năng suất cây
1
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
trồng, chất lượng gạo là giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Nhiệm vụ đặt ra
cho các nhà khoa học và các nhà chọn giống là tạo ra các giống lúa có năng
suất cao phẩm chất tốt, phổ thích ứng rộng, chống chịu sâu bệnh cao. Xuất
phát từ tình hình thực tiễn, đồng thời nhằm góp phần bổ sung thêm nguồn
giống cho địa phương tạo ra được giống lúa cho năng suất cao và chất lượng
tốt chống chịu sâu bệnh cao chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài :
Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học và giá trị chọn giống của một số
giống lúa chất lượng mới tại khu vực Tiên Du – Bắc Ninh.
II. Mục đích nghiên cứu.
1. Tìm hiểu khả năng thích ứng của các giống lúa chất lượng tại khu vực
nghiên cứu.
2. Tiến hành chọn lọc một số giống lúa về (năng suất, thời gian sinh
trưởng…).
III. Nội dung nghiên cứu.
- Nghiên cứu đặc tính nông sinh học, khả năng chống chịu của các giống
lúa chất lượng thông qua khảo sát các chỉ tiêu nông sinh học: Tỷ lệ nảy mầm,
khả năng sống sót, chiều cao…;
- Nghiên cứu đánh giá các chỉ tiêu cấu thành năng suất.
IV. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
1. Ý nghĩa khoa học
- Qua quá trình nghiên cứu khả năng thích ứng của một số giống lúa chất
lượng tại vùng sinh thái nghiên cứu giúp sinh viên nắm được các vấn đề
về biến đổi vật chất di truyền.
- Góp phần làm sáng tỏ đặc điểm di truyền của một số giống lúa chất lượng.
2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở thu thập, chọn lọc được những giống lúa chất lượng tiến hành
khảo sát đánh giá để chọn ra những giống ưu tú về: năng suất, chất lượng,
2
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
thời gian sinh trưởng ngắn… có thể thay thế các giống cũ, nhằm gieo trồng
phổ biến trên nhiều vùng sinh thái.
3
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC
CỦA ĐỀ TÀI
1.1.
Nguồn gốc cây lúa trồng.
Theo Nguyễn Văn Hoan, 1995[5]. Cây lúa trồng (Oryza sativa L.) là loài
thân thảo sống hàng năm thời gian sinh trưởng của các giống lúa dài ngắn
khác nhau và nằm trong khoảng 60-250 ngảy tùy từng loài.
Lúa là cây sống một năm có thể cao 1-1,8m đôi khi cao hơn, với các lá
mỏng, hẹp bản (1-2,5 cm), dài 50-100 cm. Các hoa thụ phấn nhờ gió mọc
thành cụm hoa phân nhánh cong hay rủ xuống, dài 30 – 50cm. Hạt là loại quả
thóc (hạt nhỏ, cứng của các loại cây ngũ cốc) dài 5 – 12mm và dày 2 – 3mm.
Cây lúa non được gọi là mạ [14].
Về nguồn gốc cây lúa có nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra
các ý kiến khác nhau.
Theo Candalle (1986): Cây lúa có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Theo Roscleviez (1931): Cây lúa có nguồn gốc ở Đông Nam Á, đặc biệt
là Ấn Độ và Đông Dương [5].
Theo Stato tổ tiên của cây lúa là ở Đông Nam Á ( Viêt Nam, Thái Lan…)
Mặc dù nguồn gốc xuất xứ của Oryza sativa có nhiều ý kiến khác nhau
nhưng hiện nay các nhà khoa học đã đi đến thống nhất là nguồn gốc cây lúa ở
vùng Đông Nam Á [14] vì vùng này là nơi có điều kiện lí tưởng cho phát triển
nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ trong vài thập niên qua cho thấy quê
hương của cây lúa là vùng Đông Nam Á và Đông Dương, những nơi mà dấu
ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 1000 năm trước công nguyên [14].
Tại Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ khoảng 5900-7000
năm trước và thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử [14]. Từ
Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung quốc rồi sang Nhật
4
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Bản, Hàn Quốc những nơi mà dân cư chỉ quen với nghề trồng lúa mạch. Lúa
trồng thuộc chi oryza gồm 22 hoặc 44 NST, trong đó chỉ có 2 loài lúa trồng là
Oryza sativa hiện chiếm ưu thế trong sản xuất và Oryza glaberrima chỉ được
trồng với diện tích nhỏ ở tây phi.
1.2. Giá trị kinh tế của cây lúa
Lúa là một trong 3 loại cây lương thực chủ yếu của thế giới có vai trò
quan trọng đối với con người. Khoảng 40% dân số thế giới coi lúa gạo là
nguồn lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần lương thực
hàng ngày. Như vậy lúa gạo có ảnh hưởng đến đời sống ít nhất 65% dân số
thế giới.
Trong những năm qua, nhờ ứng dụng khoa học công nghệ trên cây lúa,
Việt Nam đã tạo nhiều giống lúa năng suất cao, phẩm chất tốt, sản lượng
không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc xuất gia mà còn luôn giữ vị trí
thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, đóng góp lớn vào tổng thu nhập quốc
dân. Năm 2008, xuất khẩu 4,7 triệu tấn đóng góp 2,9 tỉ usd vào GDP; Năm
2009 là 6 triệu tần mang lại 2,6 tỉ usd. Các sản phẩm của cây lúa có các chất
dinh dưỡng( tinh bột, protein, lipit, xenluloza, vitamin B1, B2, B6, PP...) Cần
thiết cho đời sống của con người, cho chăn nuôi và cho công nghiệp chế biến
mang lại giá trị kinh tế to lớn như:
Gạo còn chế biến làm nguyên liệu sản xuất rượu bia.
Tấm: sản xuất tinh bột, rượu cồn, vốt ca, phấn mịn và thuốc chữa bệnh.
Cám: dùng để sản xuất thức ăn cho gia súc. Trong công ghệ dược sản
xuất Vitamin B1 chữa bệnh tê phù. Dầu cám có chất lượng cao dùng chữa
bệnh, chế tạo sơn cao cấp, làm mĩ phẩm, chế xà phòng.
Trấu: sản xuất nấm men làm thức ăn cho gia súc, sản xuất vật liệu đóng
lót hàng, dùng độn chuồng làm phân bón có SiO2 cao. ở nông thôn còn sử
dụng làm chất đốt.
5
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Rơm rạ: với thành phần chủ yếu là xenluloza có thể sản xuất thành giấy,
đồ gia dụng như dây thừng chão, mũ, dầy dép. Cũng có thể dùng rơm rạ để
sản xuất thức ăn gia súc, trộn với cây họ đâu làm thức ăn ủ chua, sản xuất
nấm men, độn chuồng, chất đốt...
Giá trị dinh dưỡng của lúa gạo so với một số cây lương thực khác:
- Tinh bột: Hàm lượng tinh bột 62,4%. Là nguồn chủ yếu cung cấp calo.
Giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 calo.
- Protêin: Các giống lúa Việt Nam có hàm lượng Protêin vào khoảng 78%. Các giống lúa nếp có hàm lượng Protêin cao hơn lúa tẻ.
- Lipit chủ yếu ở lớp vỏ gạo. Nếu ở gạo xay là 2,02% thì ở gạo đã xát chỉ
còn 0,52%.
- Vitamin: Trong lúa gạo còn có một số vitamin nhất là vitamin nhóm B
như B1, B2, B6, ... lượng vitamin B1 là 0,45mg/100 hạt (trong đó ở phôi là
47%, vỏ cám 34,5%, hạt gạo 3,8%) [13].
1.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa gạo trên thế giới
Lúa là cây lương thực quan trọng trên thế giới cây lúa nước được gieo
trồng trên 112 nước nhưng tập trung không đều, chủ yếu ở Châu Á (chiếm
khoảng 90%). Quốc gia dẫn đầu về trồng lúa là Trung Quốc và Ấn Độ.
Tùy từng vùng và tùy từng điều kiện canh tác của mỗi nước khác nhau
mà năng suất lúa khác nhau dao động từ 3-7 tấn/ha. Những nước có năng suất
lúa cao như Australia (3,5-6,8 tấn/ha), Nhật Bản (5,6-6,8 tấn/ha). Đặc biệt có
những giống lúa được gieo trồng ở một số nước năng suất đạt 10 tấn/ha. Thái
Lan hiện nay là nước xuất khẩu gạo lớn nhất (khoảng 6,5-7 triệu tấn/năm),
nhờ việc tập trung đầu tư vốn, giống, khoa học kĩ thuật cho nông nghiệp[14].
Gần đây các nhà khoa học tại viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) đang
có những công trình nghiên cứu nhằm tìm ra dạng cây lúa mới có năng suất
6
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
chất lượng cao. Cụ thể đã tạo ra được dòng IR 608 19-34-2-1 là dòng có
nhiều hạt/bông, năng suất đạt 10 tấn/ha đối với vùng nhiệt đới và 15 tấn/ha
đối với vùng ôn đới.
Ngay sau khi 2 công ty syngenta (công ty hạt giống và cây rồng Nhật
Bản)và Myriad Genetics (công ty công nghệ sinh học ở Utah-Mỹ) công bố bản
đồ gen của cây lúa gần như hoàn chỉnh ngày 26-01-2001 có thể giúp các nhà
chọn giống sớm đưa ra những giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt[13].
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa gạo ở Việt Nam.
Từ năm 1989, Việt Nam trở thành một nước cung cấp lúa gạo quan trọng
trên thị trường thế giới. Giai đoạn 1989-2000 xuất khẩu bình quân hàng năm
trên 3 triệu tấn sang 128 quốc gia. Giai đoạn từ 2001-2007 là 4,2 triệu tấn.
Năm 2008 là 4,7 triệu tấn. Năm 2009 đạt kỉ lục mới trên 6 triệu tấn và đến
2010 là 6,5 triệu tấn.
Để có kết quả thuận lợi này là nhờ một phần không nhỏ của khoa học
chọn giống, thay thế giống cũ bằng những giống mới có chất lượng cao hơn,
phẩm chất tốt hơn. Trong những năm qua trên đối tượng cây lúa đã có những
công trình khoa học ra đời, trong đó phải kể đến:
Đột biến cảm ứng trong giai đoạn tiền phôi (Phan Khải, 1978).
Cơ chế phân tử của quá trình đột biến (Nguyễn Hữu Đống, 1982, 1989).
Chọn giống lúa đột biến( Trần Duy Quý, Đào Xuân Tân, 1983). Tuy còn
khá mới mẻ nhưng chọn giống đột biến đã thu được nhiều thành tựu.
Đầu tiên phải kể đến kết quả xử lí tia gamma trên giống lúa mộc tuyền,
giống MT1 ra đời bằng phương pháp này có nhiều đặc tính tốt chín sớm, thấp
cây, có khả năng chịu phân, năng suất tăng từ 15-25% giống gốc (Trần Duy
Quý, 1997)[8]. Xử lí đột biến C4 63 kết hợp với chọn lọc thu được giống
DT10 cho năng suất cao. Ngoài ra còn thu được nhiều thành tựu khi xử lí đột
biến trên các giống địa phương. Ngoài việc sử dụng trực tiếp các giống đột
7
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
biến. Các giống đột biến còn được các viện sử dụng làm bố mẹ để lai tạo
giống địa phương. Tuy vậy khó khăn của Việt Nam hiện nay là chất lượng
gạo còn kém do chưa có nhiều giống chất lượng cao, dư lượng thuốc hóa học
trong canh tác vì thế giá xuất khẩu của gạo không cao hoặc không được thị
trường thế giới chấp nhận. Một khó khăn nữa đó là chi phí cho nghề trồng lúa
ngày một cao (do giá cả phân bón, giống lúa mới rất cao) so với giá trị của hạt
gạo. Đây là một trong những trở ngại lớn mà nghề trồng lúa Việt Nam phải
vượt qua trong thời gian tới.
1.4. Các đặc điểm nông sinh học của cây lúa.
1.4.1. Chiều cao cây
Chiều cao cây là một tính trạng nông học quan trọng, liên quan đến tính
chống đổ và trực tiếp ảnh hưởng tới năng suất của cây lúa. Nếu thân lúa quá
cao dễ bị đổ do tác động của môi trường như gió, mưa … Thông thường lúa
hay bị đổ vào thời kỳ chắc. Nguyên nhân là do trọng lượng của bông lúa ngày
càng tăng, thân lúa cao khả năng chống đỡ kém, dễ gây đổ làm giảm năng
suất rõ rệt. Đặc điểm trồng lúa nước ta là phân bố ở nhiều vùng địa lý khác
nhau (đồng bằng, trung du, miền núi). Do vậy trong công tác chọn giống các
nhà nghiên cứu hết sức quan tâm đến đặc điểm chiều cao cây, vì nó có liên
quan đến khả năng chịu đựng của cây lúa, đặc biệt là thời kỳ vào chắc và chín.
Tuy nhiên ở một số vùng ngập úng thì chiều cao cây lại có lợi.
Theo ‘’hệ thống tiêu chuẩn đánh giá nguồn gen lúa’’ (Inger, 1996) [8],
chiều cao cây lúa được chia làm 3 nhóm chính:
+ Nửa lùn (vùng thấp<200 cm, vùng cao: 90 -120 cm).
+ Trung gian (vùng thấp: 110-130 cm, vùng cao: 90 – 120 cm.
+ Cao (vùng thấp>130 cm, vùng cao> 125 cm).
8
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Theo jen ning (1968), Swamirao, could (1969): Tính trạng chiều cao cây
bình thường là trội so với tính trạng lùn cây, tính trạng lùn cây do một gen lặn
điều khiển.
Theo Chang (1964), chiều cao cây lúa được kiểm tra bởỉ một số gen
tương tác theo kiểu cân bằng như D, Sm, md, T và d. Mức độ chi phối chiều
cao cây của chúng theo thứ tự: D > Sm > dw > md. Bên cạnh đó, gen át chế
của T là I, nên cây có kiểu gen I - T sẽ có dạng lùn [6].
Gen lặn đột biến lần đầu tiên được phát hiện ở giống lúa lùn Calrose 76
(một giống lúa đột biến từ giống lúa cao cây Calrose của bang California –
Mỹ) là sd1, tiếp theo là các alen của nó ở giống lúa nửa lùn Deo – Geo – Woo
– Gene (DGWG). Các công trình nghiên cứu sau đó tập trung phát hiện các
gen và các alen lùn của các giống lúa khác, xác định mối quan hệ của chúng
với sd1.
Rutger và các cộng sự (1986) đã phát hiện ra một số gen mới không alen
với sd1 như sd2 (ở giống lúa CL – 11033) và sd4 (ở giống lúa CL – 1034). Cả
hai giống này đều được tạo ra từ giống Calrose bằng chiếu xạ hạt giống. Từ
một giống lúa nửa lùn Nhật Bản, Rutger đã phát hiện ra một gen lặn đột biến
(kí hiệu là eui) quy định kiểu hình cây cao. Gen này làm tăng gấp đôi chiều
dài lóng trên cùng một thân. Các tác giả này cho biết, khi lai giữa 2 giống đột
biến nửa lùn với nhau, con lai F1 đều có kiểu hình cây cao, ở F2 có hiện tượng
phân ly theo tỷ lệ 9 cao: 6 nửa lùn: 1 siêu lùn. Hai gen đột biến sd1và sd4 đều
có tác dụng làm giảm chiều cao cây 30 cm [12].
Futshara (1986) khi nghiên cứu tính chất biểu hiện và bản chất di truyền
của dạng đột biến lúa thực nghiệm từ giống Akibare (Nhật Bản) cho biết: gen
lùn d-18h có khả năng tác động ngay khi hạt nảy mầm nhưng sau đó khoảng
một đến hai ngày, nếu được xử lý bằng axit gibberelic thì sự sinh trưởng của
hạt mầm vẫn diễn ra bình thường như hạt của giống gốc (Akibare). Tác giả
9
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
còn cho biết: đa số các đột biến lùn từ giống lúa Akibare được kiểm tra bởi
một gen lặn đơn, còn dạng thấp cây hơn giống gốc chút ít được kiểm tra bởi
các gen lặn không hoàn toàn hoặc một phần. Đặc biệt, các tác giả đã phát hiện
được gen lùn d-50 ở một dòng đột biến từ một giống lúa trên, sự biểu hiện của
nó phụ thuộc vào nhiệt độ (Vũ Quốc Khánh, 2006) [6].
Từ nhiều nghiên cứu, Khush và Toennissen (1991) thống kê có hơn 50
gen liên quan đến tính trạng lùn hoặc rút ngắn bộ phận nào đó của cây lúa.
Hầu hết các gen liên quan đến tính lùn là gen lặn, chỉ có 2 gen trội là d-53
(DK-3) thuộc NST số 9, nhóm liên kết 11 và gen D-h phát hiện ở một dòng
đột biến lùn từ giống Japonika Nhật Bản trừ NST số 7, các gen quy định tính
lùn nói trên phân bố trên 11 NST còn lại. Mỗi kiểu gen cụ thể sẽ quy định
hình dạng lùn nhất định (Vũ Quốc Khánh,2006) [7].
Theo nghiên cứu của Đào Xuân Tân (1994) và Đỗ Hữu Ất (1997) trên
một số giống lúa nếp và lúa tẻ đặc sản (loại hình Indica cây cao) đều kết luận:
Đột biến lặn về chiều cao cây có thể xuất hiện theo hai hướng là dạng thấp
hơn dạng gốc (lùn và nửa lùn) và dạng cao hơn dạng gốc (tuỳ thuộc vào đặc
điểm của giống và liều lượng phóng xạ). Theo hai tác giả, tương tác cân bằng
giữa hai locut I và T vốn có ở các giống lúa cổ truyền tạo nên sự ổn định của
tính trạng này. Đột biến đã phá vỡ sự cân bằng giữa các locut kiểm tra chiều
cao cây. Do vậy, sự biến đổi của locut I và T hoặc một trong các locut D sẽ
tạo ra các dòng đột biến có chiều cao cây khác nhau và khác với giống gốc
[1] ;[9].
1.4.2. Khả năng đẻ nhánh
Sự tăng khả năng đẻ nhánh tạo điều kiện tăng số bông hữu hiệu trên nhóm.
10
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Theo Jones (1936), Ramiash (1953) và Grist (1968), khả năng đẻ nhánh
của lúa được kiểm tra bởi ít nhất 3 gen đa phân và tính trạng này chịu ảnh
hưởng của ngoại cảnh [6].
Chang (1963), Khush và cộng sự (1991) cho biết: khả năng đẻ nhánh
liên quan trực tiếp đến sự tổ hợp của các alen thuộc 3 locut “Ti – 1”, “Ti – 2”,
“Ti – 3”, đẻ nhánh khỏe là tính trạng lặn và được kiểm soát bởi các alen: ti1,
ti2, ti3 [5].
Đào Xuân Tân (1994) và Đỗ Hữu Ất (1997), Nguyễn Minh Công và
cộng sự (2001) cho biết: những cây đồng hợp tử về các alen trội của các locut
“Ti – 1”, “Ti – 2”, “Ti – 3” đẻ nhánh rất yếu hoặc không đẻ nhánh. Tuỳ theo
số cặp alen lặn có trong kiểu gen nhiều hay ít mà khả năng đẻ nhánh mạnh
hay yếu. Bằng phương pháp chiếu xạ hạt giống, các tác giả trên đã thu được
các đột biến làm tăng khả năng đẻ nhánh ở các mức độ khác nhau: đẻ nhánh
khoẻ hoặc rất khoẻ từ các giống lúa đẻ nhánh trung bình. Các đột biến này
duy trì sang M2 theo tỷ lệ phân ly của các phép lai đơn [1]; [2]; [10].
1.4.3. Góc lá, chiều dài, chiều rộng lá đòng.
Lá là trung tâm hoạt động sinh lý của cây lúa, đó là các hoạt động quang
hợp, tích luỹ chất khô, thoát hơi nước điều tiết nhiệt độ … Với các chức năng
trên lá lúa đóng một vai trò quan trọng đối với quá trình sinh trưởng và phát
triển cũng như năng suất của cây lúa. Trong đó, lá đòng là loại lá được các
nhà khoa học hết sức chú ý quan tâm và là một trong những chỉ tiêu đánh giá
hình thái của cây lúa.
Theo Yuan Long Ping, yếu tố cần thiết để nâng cao năng suất cây lúa là
nguồn và sức chứa. Sức chứa là bông to, nguồn là lá. Cần có sự cân đối giữa
nguồn và sức chứa tức là bông to hạt nhiều thì bộ lá cần phải lớn, lá dài, đứng
và rộng (Lê Xuân Trình,2001) [12].
11
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Trên một nhánh lúa các lá lúa ra kế tục nhau và được sắp xếp so le. Số
lượng lá lúa trên thân chính tùy thuộc vào giống. Giống có thời gian sinh
trưởng dài thì số lá nhiều và ngược lại. Trong quá trình phát triển của cây lúa,
lá hình thành đầu tiên (sau lá mầm) là lá nguyên thủy, lá này không có phiến
lá mà chỉ có bẹ lá. Lá hình thành cuối cùng là lá đòng. Trong đời sống cây lúa,
lá thứ 2 tính từ trên xuống luôn luôn hoạt động mạnh nhất nên lá này gọi là lá
công năng. Lá đòng là lá trên cùng vì vậy nó nhận nhiều ánh sáng nhất. Từ
khi lúa trổ lá đòng hoạt động không kém lá công năng, nhưng do ra sau, trẻ
hơn và ở phía bên trên nên có vai trò lớn nhất nuôi dưỡng bông lúa [6].
Mitra (1962) phân tích sự biểu hiện chiều dài và chiều rộng của phiến lá
lúa và cây lai F1 thuộc tổ hợp lai giữa giống Charmock có phiến lá ngắn, rộng
với giống lúa Potani – 23 có phiến lá dài và hẹp .Kết quả cho thấy, tất cả cây
lai F1 đều có phiến là dài, rộng còn ở F2 phân ly tăng tiến cả về chiều dài và
chiều rộng lá. Từ đó các tác giả kết luận: chiều dài và chiều rộng lá được kiểm
soát bởi hệ thống di truyền khác nhau và mỗi tính trạng được kiểm soát bởi
nhiều gen.
Từ kết quả phép lai dialen giữa 7 giống lúa Kramer (1974) đã kết luận:
tính trạng góc lá đòng và tính trạng góc lá công năng được kiểm soát bởi hai
hệ thống gen khác nhau. Góc lá đòng rộng là trội hơn so với góc lá đòng hẹp,
ngược lại góc lá công năng hẹp là trội hơn góc lá công năng rộng.
Kikuchi và cộng sự (1978), đo chiều rộng lá đòng ở các cây F1 thuộc tổ
hợp lai giữa giống lúa Sasanishiki (lá hẹp) với giống lúa Norin – Mochi 4 (lá
rộng), kết quả cho thấy: lá đòng ở F1 rộng hơn trung bình giữa hai bố mẹ
nhưng thiên về dạng lá có lá đòng rộng, ở F2 có hiện tượng phân ly tăng tiến
theo hướng tăng chiều rộng phiến lá. Từ đó tác giả đã kết luận: phiến lá rộng
là trội không hoàn toàn, tính trạng chiều rộng lá đòng được kiểm soát bởi
nhiều gen.
12
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Murai và cộng sự (1987) sử dụng phương pháp phân tích diallen về
chiều dài phiến lá (từ lá đòng đến lá thứ 3), chiều rộng lá đòng và góc lá đòng
của các cây F1 tạo ra từ phép lai diallen (không thuận nghịch) giữa 5 giống lúa
ở Hockaido. Kết quả cho thấy, ở mỗi tính trạng, phương sai do tác động cộng
tính của các gen là lớn hơn phương sai do hiệu ứng trội. Đối với lá thứ 2 và lá
thứ 3, nói chung phiến lá dài là trội vì hầu hết các cây F1 đều có giá trị trung
bình lớn hơn trung bình giữa hai dạng bố mẹ. Đối với chiều rộng lá đòng thì
ngược lại, phiến lá hẹp là trội vì F2 là trội và F1 nhỏ hơn trung bình giữa hai
bố mẹ. Kết quả này ngược lại với kết quả của Kramer (1974) (phiến lá rộng là
trội không hoàn toàn) [7].
1.4.4. Chiều dài bông, dạng bông
Bông lúa là kết quả của mọi hoạt động trong đời sống cây lúa, là bộ phận
tạo ra hạt lúa – cơ quan duy trì nòi giống của cây lúa và tạo ra chu trình mới
trong quá trình tồn tại và phát triển của cây lúa. Tùy từng giống mà bông lúa
có chiều dài cũng như dạng bông khác nhau.
Chiều dài bông liên quan đến sức chứa hạt của bông, là yếu tố cấu thành
năng suất.
Theo Vandertok J.E (1910), Jones (1982) và Ramiash (1930) khi lai giữa
giống lúa bông dài và bông ngắn cho thấy: kiểu hình bông dài là trội so với
kiểu hình bông ngắn và phân ly theo kiểu gen đa phân. Điều đó chứng tỏ có
nhiều gen chi phối tính trạng chiều dài bông.
Syakudo (1958) cho biết, tính trạng chiều dài bông do 6 gen đa phân chi
phối nhưng chưa rõ các gen cụ thể, tính trạng này phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện môi trường [7].
Theo Đào Xuân Tân (1994), đột biến lặn đã xuất hiện ở locut Lp (hay
Sp) đã tạo ra alen Lp (hay Sp), mở M2 có dạng bông dài Lplp (hay Spsp). Tuỳ
13
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
theo sự có mặt của một trong hai cặp gen trên hoặc cả hai cặp mà ở M2 xuất
hiện các thể đột biến có dạng bông ngắn khác nhau [10].
Lưu ý rằng, chiều dài bông cần kết hợp hài hoà với chiều dài cổ bông.
Bông dài mà cổ bông quá dài thì dễ gẫy. Bông dài mà cổ bông trỗ không thoát
(cổ bông không thoát khỏi bẹ lá đòng) thì tỷ lệ lép cao, giảm năng suất. Bông
dài vừa, hạt xếp xít, số gié nhiều là xu thế chung được nhiều nhà chọn tạo
giống lúa quan tâm.
1.4.5. Kích thước và hình dạng hạt gạo
Chang (1964 – 1974) cho rằng, chiều dài hạt do hai hoặc nhiều gen xác
định; còn chiều rộng do 3 đến 5 gen kiểm soát [5].
Theo Trần Duy Quý (1986) hình dạng hạt ngắn, tròn là do các đột biến
trội, phân ly theo quy luật Menđen trong phép lai đơn. Đột biến này được
kiểm soát bởi gen trội Kr thuộc NST số 8 (Jondon 1955, 1956) [9].
Như vậy sự tổ hợp theo những cách thức khác nhau của các gen thuộc
các locut khác nhau biểu hiện tác động theo kiểu tác động cộng hoặc bù trừ
làm cho độ dài hạt gạo ở các giống lúa không giống nhau.
+ Trong 10 locut kiểm soát kích thước và hình dạng hạt gạo có 5 locut
chính, thường gặp ở các giống lúa trồng hiện nay thuộc hai loài phụ Indica và
Japonica. Trong đó, locut Lk – f được nghiên cứu nhiều nhất, đây là locut rất
dễ bị đột biến và có tác động đa hiệu.
+ Các alen đột biến làm thay đổi chiều dài hoặc hình dạng hạt gạo phát
sinh ở một số giống lúa, di truyền theo quy luật Menđen trong phép lai đơn,
có quan hệ trội lặn hoàn toàn hoặc không hoàn toàn.
1.5. quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa.
Các yếu tố cần cho sinh trưởng và phát triển của cây lúa:
- Thời vụ cấy phải phù hợp để đảm bảo các yếu như ánh sáng, nhiệt độ,
lượng mưa…
14
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
- Mặt ruộng phải bằng phẳng, luôn có mức nước từ 10-15 cm để giúp cây
lúa sinh trưởng và phát triển tốt (thuận lợi là ở lưu vực các con sông lớn).
- Thời kì sinh trưởng cần lượng mưa vào khoảng 125mm/tháng.
- Thời kì lúa phơi màu, thời tiết cần khô ráo, mát mẻ để khả năng thụ
phấn kết hạt cao.
- Thời kì thu hoạch cần nhiều nắng để bảo quản sản phẩm.
- Xết về thời gian sinh trưởng (TGST) của cây lúa dài hay ngắn tùy
thuộc vào từng giống và từng điều kiện ngoại cảnh.
Những giống ngắn ngày có TGST vào khoảng 90-100 ngày, giống dài
ngày có TGST khoảng 150-180 ngày, có những giống thời gian sinh trưởng
còn dài hơn tới 270 ngày.
Theo viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI quá trình sinh trưởng và phát
triển của cây lúa được chia làm 2 thời kì và 9 giai đoạn:
- Thời kì sinh trưởng sinh dưỡng:
1)
Giai đoạn nảy mầm
2)
Giai đoạn mạ
3)
Giai đoạn đẻ nhánh
4)
Giai đoạn vươn lóng
- Thời kì sinh thực:
5)
Giai đoạn làm đòng
6)
Giai đoạn trỗ bông
7)
Giai đoạn chín sữa
8)
Giai đoạn vào chắc
9)
Giai đoạn chín hoàn toàn
Thời kì sinh trưởng sinh dưỡng: Cây lúa chủ yếu phát triển cơ quan sinh
dưỡng như thân, lá, rễ, tích lũy các chất dự trữ ở thân trước khi đưa lên quả
(hạt lúa).
15
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Thời kì sinh trưởng sinh thực cây lúa tạo thêm cơ quan sinh sản như:
đòng lúa, bông lúa, tạo quả, hạt.
Hai thời kì này có liên quan mật thiết với nhau và quyết định năng suất
vụ lúa. Cây lúa có sinh trưởng sinh dưỡng mạnh mẽ thì mới tạo được số
nhánh phù hợp, tạo được bông lúa dài, từ đó mới có nhiều hạ giúp năng suất
mùa vụ tăng cao.
16
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Chương II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
9 dòng lúa đột biến thu được từ việc xử lý đột biến giống lúa CL9.
Giống lúa CL 9 là giống lúa cao sản mới, thu được từ xử lí đột biến con
lai giữa 2 dòng IR 64 và Khang Dân 18 với nhau. Đây là giống lúa thuần
không phản ứng với ánh sáng, ngắn ngày đạt giá trị thương phẩm cao. CL 9
có khả năng thích ứng rộng với nhiều vùng sinh thái và rất dễ canh tác trên
các vùng đất khác nhau. Cây cao trung bình, thân cứng, đẻ nhánh trung bình,
hình thái gọn, lá đòng thẳng đứng, xanh bền. Bông to nhiều hạt, hạt xếp xít có
màu vàng sáng, gạo thơm, thon dài, cơm mềm, dẻo và trong. Khả năng chịu
rét, chống đổ tốt, không bị nhiễm rầy, kháng đạo ôn cao, không nhiễm khô
vằn hay bạc lá [14].
Thời gian sinh trưởng: 134 – 145 ngày (đông xuân); 103 -105 ngày (vụ mùa).
Cây cao 90 – 110 cm, đẻ nhánh khá.
Số hạt trên bông 125 – 130.
Khối lượng 1000 hạt 22 – 23 gam [14].
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thí nghiệm ngoài đồng ruộng
- Mạ của các dòng được gieo thành từng ô theo phương pháp mạ khung,
khi mạ có 3 – 4 lá thật thì đem cấy.
- Ruộng được cầy bừa san phẳng và chia thành từng ô ngẫu nhiên
100m2 /ô khoảng cách giữa các ô là 0.4m, nhắc lại 3 lần.
- Mật độ cấy 40 khóm/m2, cấy 1 dảnh/khóm.
Chăm sóc theo mùa vụ và quy trình chung của nhà nông.
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
Các số liệu về đặc điểm nông sinh học và được khảo sát theo quy chuẩn
của IRRI và của trung tâm KKN – phân bón và cây trồng quốc gia.
17
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Các dòng đột biến được đánh số từ (1) – (9).
Các chỉ tiêu nông sinh học được xác định theo “Hệ thống tiêu chuẩn
đánh giá nguồn gen lúa” của IRRI – 1996.
Quá trình phát triển của cây lúa gồm các giai đoạn sau:
1: Giai đoạn nảy mầm
6: Giai đoạn trỗ bông
2: Giai đoạn mạ
7: Giai đoạn chín sữa
3: Giai đoạn đẻ nhánh
8: Giai đoạn vào chắc
4: Giai đoạn vươn lóng
9: Giai đoạn chín hoàn toàn
5: Giai đoạn làm đòng
2.3. Phương pháp xử lý các số liệu.
Các số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp thống kê gồm các
thông số sau:
* Trung bình mẫu
n
Xi
X
i 1
n
* Sai số trung bình
m=
n
* Độ lệch chuẩn
n
( Xi X )
2
i 1
n ≥ 30
n
n
( Xi X )
2
i 1
n < 30
n 1
* Hệ số biến động
18
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
CV% =
X
100%
Nếu CV% < 10% : biến động không đáng kể
Nếu CV% = 10 – 20% : biến động trung bình
Nếu CV% > 20% : biến động cao
NSLT = Số khóm x Số bông/khóm x Số hạt chắc/bông x P1000hạt x
10-5tấn/ha
n: là số cá thể trong mẫu
Xi: Giá trị các biến số
2.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.4.1. Địa điểm nghiên cứu
Huyện Tiên Du Tỉnh Bắc Ninh.
Phòng thí nghiệm di truyền khoa Sinh trường ĐHSP Hà Nội II.
4.2. Thời gian nghiên cứu
Vụ Xuân năm 2010
Gieo ngày 25/01/2010
Cấy ngày 17/02/2010
Gặt ngày 27/06 dến ngày 30/06/2010
19
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Chương III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố nông sinh học được đánh giá
3.1.1. Khả năng đẻ nhánh
Xác định số nhánh của một dòng nghĩa là xét khả năng đẻ nhánh của dòng
đó. Khả năng đẻ nhánh là một trong các đặc tính sinh học của cây lúa, nó liên
quan chặt chẽ đến sự hình thành bông và năng suất của cây lúa. Sự tăng khả
năng đẻ nhánh tạo điều kiện tăng số bông hữu hiệu trên khóm. Thời gian đẻ
nhánh của cây lúa được tính từ khi lúa bén rễ hồi xanh đến khi làm đốt, làm
đòng. Do đó khả năng đẻ nhánh được các nhà chọn giống đặc biệt quan tâm.
Cây lúa là loại cây trồng chịu được mật độ cao do đó khả năng đẻ nhánh cao
sẽ có lợi cho việc đạt được năng suất cao của các ruộng. Qua các kết quả
nghiên cứu trên nhiều giống lúa cho thấy rằng: các nhánh sinh ra sớm sẽ có
bông hữu hiệu và năng suất cao hơn các nhánh sinh ra muộn [14].
Khả năng đẻ nhánh được chia thành 5 cấp độ như sau:
1. Rất cao (>25 dảnh/cây)
3. Tốt (20 – 25 dảnh/cây)
5. Trung bình (10 – 19 dảnh/cây)
7. Thấp (5 – 9 dảnh/cây)
9. Rất thấp (< 5 dảnh/cây)
Qua nghiên cứu và khảo sát chúng tôi thu được khả năng đẻ nhánh của
các dòng như sau:
20
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Bảng 3.1. Khả năng đẻ nhánh của các dòng đột biến từ giống lúa CL9
Khả năng đẻ nhánh
STT
Dòng
X ± m (dảnh)
CV%
1
CL 9 (ĐC)
8,8 ± 0,78
13,52
2
Số 1
7,7 ± 0,46
6,72
3
Số 2
8,1 ± 0,62
11,78
4
Số 3
9,3 ± 0,95
15,43
5
Số 4
9,2 ± 1,09
17,02
6
Số 5
8,2 ± 0,98
16,97
7
Số 6
7,9 ± 0,82
14,19
8
Số 7
7,9 ± 0,65
11,87
9
Số 8
9,0 ± 0,92
16,58
10
Số 9
8,7 ± 0,8
14,35
10
8
9.3
8.8
7.7
9.2
9
8.2
8.1
7.9
8.7
7.9
6
4
2
0
CL 9 Số 1 Số 2 Số 3 Số 4 Số 5 Số 6 Số 7 Số 8 Số 9
(ĐC)
Biểu đồ 3.1. Khả năng đẻ nhánh của các dòng đột biến từ giống lúa CL 9
Qua bảng và biểu đồ trên ta thấy rằng: dòng có khả năng đẻ nhánh cao
nhất là Số 3 (9.3 ± 0,95 dảnh), dòng có khả năng đẻ nhánh thấp nhất là dòng
21
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Số 1 (7,7 ± 0,46dảnh). Chỉ có dòng Số 3, Số 4 và Số 8 có khả năng đẻ nhánh cao
hơn giống đối chứng CL 9, các dòng còn lại khả năng đẻ nhánh hơi kém hơn.
Khả năng đẻ nhánh của các xắp sếp từ cao đến thấp như sau:
Số 3 > Số 4 > Số 8 > CL 9> Số 9 > Số 5 > Số 2> Số 7> Số 6 > Số 1
Hệ số biến động của các dòng từ 6,72 - 16,97%. Dòng Số 1 có sự biến
động không đáng kể (6,72%), các dòng còn lại là CL 9, Số 2, Số 3, Số 4, Số 5,
Số 6, Số 7, Số 8, Số 9 có sự biến động trung bình (20% < CV% > 10%).
Các dòng lúa trên có khả năng đẻ nhánh thuộc mức trung bình, thích
hợp với việc cho năng suất cao. Vì nếu khả năng đẻ nhánh cao thì các cây lúa
sẽ cạnh tranh nhau về thức ăn cũng như ánh sáng điều đó có thể làm giảm
năng suất của cây, nếu khả năng đẻ nhánh ít thì sẽ dẫn đến khả năng cho bông
thấp cũng làm ảnh hưởng đến năng suất của cây. Như vậy khả năng đẻ nhánh
trung bình kết hợp với điều kiện chăm sóc tốt thì sẽ cho năng suất cao hơn.
3.1.2. Chiều cao cây
Chiều cao cây đựơc tính từ gốc đến mút lá hoặc bông cao nhất.
Chiều cao cây phản ánh độ dài và chiều dài bông nó chịu ảnh hưởng nhiều
của điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa... Chiều cao cây
tuy không liên quan trực tiếp đến năng suất nhưng nó liên quan đến khả năng
chống đổ của cây lúa và khả năng ngoi vượt lên mặt nước khi bị ngập nước.
Thông thường cây lúa cao dễ bị đổ hơn cây lúa thấp do thân cây lúa cao
thường yếu do đó ảnh hưởng tới năng suất của cây lúa. Do vậy nghiên cứu
chiều cao cây lúa giúp chúng ta có các biện pháp kỹ thuật phù hợp phát huy
hết tiềm năng của giống.tuỳ từng vùng ta cần chọn các giống lúa có chiều cao
phù hợp thì sẽ đem lại năng suất cao nhất [14].
Theo viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) chia các giống lúa theo chiều
cao cây thành 3 nhóm như sau:
1. Nửa lùn (vùng trũng < 110cm; vùng cao > 90cm)
22
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
3.Trung gian (Vùng trũng : 110 – 130cm; vùng cao: 90 – 125cm)
5. Cao (vùng trũng >130cm; vùng cao >125cm)
Qua khảo sát chúng tôi thu được kết quả chiều cao cây ở các dòng đột
biến thu được từ giống CL9 như sau:
Bảng 3.2: Chiều cao cây của các dòng đột biến từ giống lúa CL9
Chiều cao cây
CV%
X ± m (cm)
100,1± 1,28
2,83
STT
1
Dòng
CL 9 (ĐC)
2
Số 1
101,3± 1,71
3,73
3
Số 2
102,3± 1,32
2,83
4
Số 3
98,9± 0,96
2,15
5
Số 4
101,0± 0,85
1,86
6
Số 5
102,0± 1,32
2,86
7
Số 6
96,7 ± 2,05
4,70
8
Số 7
99,4± 1,15
2,58
9
Số 8
106 ± 1,42
2,95
10
Số 9
91,7 ± 0,95
2,20
23
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
110
106
105
100.1
101.3
100
102.3
101
102
99.4
98.9
96.7
95
91.7
90
85
80
CL 9 Số 1 Số 2 Số 3 Số 4 Số 5 Số 6 Số 7 Số 8 Số 9
(ĐC)
Biểu đồ 3. 2. Chiều cao cây của các dòng đột biến từ giống lúa CL 9
Qua bảng và biểu đồ trên ta có thể thấy dòng có chiều cao lớn nhất là
Số 8 (106,0 ± 1,47 cm), dòng có chiều cao nhỏ nhất là Số 9 (91,7± 0,95 cm).
Các dòng nghiên cứu trên đều có chiều cao ở mức bán lùn, chiều cao các
dòng được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp như sau:
Số 8 > Số 2 > Số 5 > Số 1 > Số 4 > CL 9 > Số 7 > Số 3 > Số 9
Hệ số biến động chiều cao các dòng đều ở mức không đáng kể (<10%).
Như vậy là các dòng có chiều cao chênh lệch nhau không nhiều và khá ổn
định. Trong mỗi dòng biến động số lượng chiều cao cây cũng không đáng kể.
3.1.3. Chiều dài lá đòng
Trong đời cây lúa lá hình thành cuối cùng gọi là lá đòng, khi lúa chưa
trỗ bông thì lá đòng bao lấy bông lúa. Lá đòng là lá trên cùng của một nhánh
lúa và nó là lá thu nhận được nhiều ánh sáng nhất. Lá đòng hoạt động không
kém gì lá công năng nó có vai trò lớn trong việc nuôi dưỡng bông lúa vì nó ra
sau, trẻ hơn và ở trên cùng so với các lá còn lại của cây.
24
Khãa luËn tèt nghiÖp
Hoµng ThÞ Dung Líp K33C Khoa Sinh KTNN
Lá đòng quang hợp tổng hợp các hyđratcacbon là nguồn nguyên liệu để
hình thành tinh bột trong hạt gạo. Do đó nó cũng ảnh hưởng tới năng suất của
cây lúa. Nếu lá đòng quang hợp kém thì lượng tinh bột tạo thành sẽ giảm do
đó dẫn tới năng suất cây lúa giảm.
Lá đòng đóng vai trò quan trọng trong việc dự trữ chất hữu cơ cung cấp
cho hạt trong giai đoạn vào chắc. Nếu trong giai đoạn vào chắc mà lá đòng
không quang hợp tổng hợp đủ chất hữu cơ cho bông lúa thì có thể dẫn đến
năng suất sẽ giảm đáng kể.
Lúa có bộ lá thẳng, hướng lá cùng hướng với mặt trời cho phép ánh
sáng mặt trời xuyên sâu vào quần thể ruộng lúa sẽ sử dụng tối đa được nguồn
năng lượng ánh sáng mặt trời sẽ quang hợp tốt hơn [14].
Theo tiêu chuẩn đánh giá của IRRI chiều dài lá đòng được chia thành:
1. Ngắn (<25cm)
3. Trung bình (25 – 35cm)
5. Dài (35,1 – 45cm)
Chúng tôi qua nghiên cứu đã thu được kết quả chiều dài lá đòng như sau:
Bảng 3.3.Chiều dài lá đòng của các dòng đột biến từ giống lúa CL9
Chiều dài lá đòng
STT
1
Dòng
CL 9 (ĐC)
X ± m (cm)
CV%
27,4 ± 1,34
12,7
2
Số 1
31,6 ± 0,82
5,96
3
Số 2
25,7 ± 2,39
18,6
4
Số 3
24,9 ± 3,26
26,23
5
Số 4
23,8 ± 2,47
18,68
6
Số 5
22,8 ± 0,85
8,2
7
Số 6
34,7 ± 1,20
10,54
8
Số 7
21,7 ± 0,42
4,25
9
Số 8
26,3 ± 0,67
5,06
25