Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

định hướng và giải pháp phát triển quỹ đầu tư phát triển đô thị tp hcm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.43 MB, 74 trang )

B

TR

GIÁO D C VÀ ÀO T O

NG

I H C KINH T TP.HCM

NGUY N TH KIM THOA

LU N V N TH C S KINH T

TP. H Chí Minh – N m 2001


LƠIØ NOIÙ ĐAU
À
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Công cuộc đổi mới nền kinh tế của nước ta từ hơn 10 năm nay đã làm
thay đổi đáng kể bộ mặt của nền kinh tế, cơ cấu kinh tế từng bước được điều
chỉnh , tốc độ đô thò hóa diễn ra ngày càng nhanh, nhu cầu về vốn cho đầu tư
phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung
ngày càng lớn và cấp thiết. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, để đảm
bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm từ 7,2%, giai đoạn từ năm
2001-2010, Việt Nam cần khoảng 160 tỷ USD vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay là trong khi tiềm lực của ngân sách
Nhà nước còn hạn chế, phải làm thế nào để thu hút , huy động được các nguồn
vốn đầu tư của toàn xã hội, bao gồm cả nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài để sử dụng cho đầu tư phát triển nền kinh tế.


Thời gian qua, cùng với việc từng bước tăng cường đầu tư từ phía Nhà
nước, Chính phủ đã đưa ra hàng loạt các biện pháp huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư phát triển trong đó biện pháp đa dạng hóa các
hình thức, công cụ được xem là có ý nghóa quan trọng. Trong tiến trình đó, được
sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, tháng 09/1996, Bộ Tài chính đã triển khai
thí điểm đưa Quỹ đầu tư phát triển vào hoạt động ở thành phố Hồ Chí Minh, sau
đó là một số đòa phương Bình Đònh, Hải Phòng, Bình Dương ... và hiện nay một
số đòa phương đang đề nghò Bộ Tài chính thỏa thuận cho thành lập mô hình này.
Sau bốn năm thí điểm, hoạt động của mô hình Quỹ đầu tư phát triển đã
đạt được những kết quả bước đầu. Sự ra đời và hoạt động của Quỹ đầu tư phát
triển đã tạo ra một công cụ mới huy động các nguồn lực tài chính phục vụ cho
việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, góp phần vào sự tăng trưởng của toàn bộ
nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được bước đầu, mô hình
1


Quỹ đầu tư phát triển đô thò vẫn còn chứa đựng nhiều tồn tại, khó khăn vướng
mắc cần phải tiếp tục hoàn thiện và khắc phục trong tương lai . Xuất phát từ đây
tôi đã chọn đề tài “ Đònh hướng và giải pháp phát triển Quỹ đầu tư phát triển đô
thò thành phố Hồ Chí Minh “ làm luận án bảo vệ nhận học vò thạc só kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án
Nêu lên hoạt động thực tiễn, đóng góp của Quỹ đầu tư phát triển đô thò
thành phố Hồ Chí Minh – một mô hình tài chính công mới vào sự phát triển
chung của thành phố , từ đó đưa ra đònh hướng và giải pháp phát triển cho Quỹ
từ nay đến năm 2010.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi hẹp, dựa vào hoạt động thực tiễn
của Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh, một đònh chế tài chính
công mới góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế – xã hội của thành phố

Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các môn đã học như : Lý thuyết tài chính tiền tệ, Tín dụng ngân
hàng, Phân tích tài chính doanh nghiệp, Thò trường chứng khoán ... kết hợp với
các phương pháp nghiệp vụ, cụ thể như : phương pháp khảo cứu, so sánh, phân
tích, đánh giá và kế thừa một cách có chọn lọc và hệ thống.
5. Kết cấu luận án
Luận án gồm 72 trang, 9 bảng số liệu, 1 sơ đồ, 3 phụ lục , ngoài phần mở
đầu được trình bày thành 03 chương :
Chương 1 : Những vấn đề lý luận cơ bản về Quỹ đầu tư
Chương 2 : Thực trạng hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3 : Đònh hướng và giải pháp phát triển Quỹ đầu tư phát triển đô
thò thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2010

2


Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ
1.1 Khái niệm về Quỹ đầu tư và lợi điểm của nó
I.1.1 Khái niệm về Quỹ đầu tư
Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh, nhất thiết phải có nhiều vốn đầu tư.
Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để các tổ chức và cá nhân có vốn nhàn rỗi và
các nhà doanh nghiệp có ý tưởng kinh doanh , có các dự án kinh doanh nhưng
thiếu vốn đầu tư gặp nhau được , cùng hợp tác với nhau, cùng nhau tìm kiếm các
cơ hội kinh doanh có lợi nhất. Để làm “ cầu nối ” giữa bên cần vốn và bên có
vốn nhàn rỗi, nhiều loại đònh chế tài chính trung gian đã ra đời. Một trong
những đònh chế tài chính trung gian có ảnh hưởng nhiều tới các hoạt động đầu tư
trong nền kinh tế, đó là loại hình Quỹ đầu tư . Kinh nghiệm ở nhiều nước cho
thấy, Quỹ đầu tư là một đònh chế tài chính trung gian thích hợp để huy động

những nguồn vốn nhỏ bé, lẻ tẻ thành những nguồn vốn lớùn, nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn đầu tư dài hạn, đặc biệt là các dự án có nhu cầu vốn lớn trong nền kinh
tế quốc dân.
Quỹ đầu tư là một dạng doanh nghiệp, thường được hình thành dưới dạng
công ty cổ phần, nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động. Nguồn vốn
hình thành của Quỹ đầu tư rất phong phú, đa dạng; các tập đoàn tư bản, các công
ty, dân chúng ... có vốn nhàn rỗi dù nhiều hay ít đều có thể trở thành các chủ sở
hữu Quỹ đầu tư bằng việc mua các cổ phiếu do Quỹ đầu tư phát hành.
Quỹ đầu tư là một loại doanh nghiệp đặc biệt, nó không dùng vốn của
mình để mua máy móc, thiết bò, các yếu tố sản xuất khác để tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh, mà nó dùng vốn để đầu tư dài hạn, thông qua góp vốn
liên doanh, mua cổ phần hoặc các loại chứng khoán khác với mục đích thu lợi
nhuận. Quỹ đầu tư là loại hình thuộc về đònh chế tài chính trung gian phi ngân
3


hàng, là công cụ huy động vốn trung dài hạn vào mục đích đầu tư trực tiếp và
gián tiếp. Nói cách khác, Quỹ đầu tư là một loại hình doanh nghiệp được chuyên
môn hóa trong lónh vực đầu tư, mang đặc điểm một ngành chuyên kinh doanh
vốn trung, dài hạn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là việc các Quỹ đầu tư dùng vốn của mình để thâm nhập
trực tiếp vào các công ty, các dự án bằng cách góp vốn mua cổ phần, mua cổ
phiếu phát hành lần đầu, với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên
khác. Đầu tư gián tiếp là việc các Quỹ đầu tư dùng vốn của mình tham gia vào
thò trường chứng khoán, với tư cách của một nhà kinh doanh chứng khoán, mua
đi bán lại các chứng khoán, nhằm hưởng chênh lệch giá hay nhận cổ tức từ các
công ty. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư không phải là thành viên của thò trường chứng
khoán tập trung, do đó việc mua bán chứng khoán của Quỹ đầu tư ở thò trường
này phải thông qua các công ty chứng khoán ( công ty chứng khoán cũng có thể
thành lập Quỹ đầu tư ). Các Quỹ đầu tư còn dùng tiền vốn của mình cho các chủ

doanh nghiệp vay để đầu tư vào các dự án theo những thỏa thuận nhất đònh.
Do phạm vi hoạt động đầu tư rộng lớn như vậy nên Quỹ đầu tư đã trở
thành “ công ty của các công ty ”, là chủ thể sở hữu một phần hay toàn bộ nhiều
công ty và có khả năng chi phối các công ty này thông qua công cụ tài chính,
kinh nghiệm và năng lực quản lý.
1.1.2 Lợi điểm của Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi và đem lại lợi ích cho những người
những người tiết kiệm ( nhà đầu tư ) khi thực hiện việc đầu tư qua Quỹ đầu tư, cụ
thể là :
- Sự an toàn : trong các hoạt động trong nền kinh tế thò trường, an toàn
chỉ có ý nghóa tương đối. Các Quỹ đầu tư sẽ không thể đảm bảo chắc chắn một
mức thu nhập, hay số vốn của nhà đầu tư sẽ không bò mất giá. Tuy nhiên, các
4


Quỹ đầu tư lại là một tổ chức hoạt động rất chặt chẽ, Quỹ đầu tư phải cung cấp
các thông tin chính xác, đầy đủ về các hoạt động của họ cho các nhà đầu tư .
- Sự quản lý chuyên nghiệp : Quỹ đầu tư có những người chuyên môn đã
được huấn luyện về quản trò tài chính, phân tích chứng khoán, theo dõi, tìm hiểu,
dự đoán trào lưu giá cả thò trường chứng khoán, những biến động của nền kinh
tế, lãi suất, lạm phát ... vì vậy, việc đầu tư dễ dàng thành công. Quỹ đầu tư là
một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, do đó khả năng quản lý, phát huy hiệu quả
vốn đầu tư tốt hơn nhiều so với đầu tư riêng lẻ.
- Sự đa dạng hóa : để giảm bớt rủi ro trong đầu tư, không nên đầu tư tập
trung mà phải phân phối vốn đầu tư trên nhiều lónh vực, nhiều ngành kinh tế
khác nhau. Việc đó, đầu tư trực tiếp sẽ rất khó thực hiện vì vốn ít và chính đó là
lợi thế của Quỹ đầu tư.
- Tính thanh khoản cao : đầu tư qua Quỹ đầu tư đảm bảo tính thanh khoản
cao, nghóa là khả năng chuyển hóa từ chứng khoán vốn bằng tiền và ngược lại
rất dễ dàng, thực hiện việc thu hồi lại vốn đầu tư khi có nhu cầu và rủi ro của

người đầu tư bò hạn chế ở mức rất thấp, vì vốn đầu tư của Quỹ đầu tư được thực
hiện đầu tư phân tán ra nhiều lónh vực.
1.2 Các loại hình Quỹ đầu tư
Có nhiều loại Quỹ đầu tư, mỗi Quỹ đầu tư có đặc thù và đònh hướng hoạt
động khác nhau, nhưng nói chung có thể phân chia các Quỹ đầu tư theo các cách
phân loại sau :
1.2.1 Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn
Quỹ đầu tư được chia làm 02 loại :
Quỹ đầu tư dạng đóng
Đây là Quỹ đầu tư mà theo điều lệ quy đònh, thường chỉ tạo vốn qua một
lần bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ đầu tư dạng đóng có thể phát hành cổ
5


phiếu thông thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không được phát hành
thêm bất kỳ một loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không mua lại
các cổ phiếu đã phát hành . Số cổ phiếu đó được mua đi bán lại trên thò trường
chứng khoán cũng như cổ phiếu của các công ty khác.
Giá thò trường cổ phiếu của Quỹ đầu tư dạng đóng phụ thuộc vào lượng
cung cầu cũng như khi áp dụng đốùi với các loại chứng khoán khác, chứ không
trực tiếp liên quan đến giá trò tài sản thuần của mỗi cổ phần, vì thế cổ phiếu của
một Quỹ đầu tư dạng đóng có thể bán theo giá cao hơn giá trò tài sản thuần hoặc
thấp hơn giá trò tài sản thuần.
Quỹ đầu tư dạng đóng dùng số vốn của mình đầu tư vào các doanh nghiệp
hay thò trường chứng khoán. Sau đó lại dùng số tiền và vốn lãi thu được để đầu
tư tiếp. Như vậy, quy mô vốn của loại Quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản
lợi nhuận thu được mà thôi.
Quỹ đầu tư dạng mở
Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là Quỹ tương hỗ. Khác với Quỹ đầu tư
dạng đóng, các Quỹ đầu tư dạng mở luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới

để tăng thêm vốn và cũng sẵn lòng chuộc lại những cổ phiếu đã phát hành. Các
cổ phiếu của Quỹ được bán trực tiếp cho công chúng, không qua thò trường
chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu của Quỹ đầu tư dạng mở, người mua không
phải qua người môi giớiû, không phải trả tiền hoa hồng và có thể viết thư hoặc
điện thoại trực tiếp cho Quỹ xin các giấy tờ cần thiết, do đó tạo cơ hội cho bất
kỳ ai cũng có thể tham gia và trở thành chủ sở hữu của Quỹ. Tất cả các cổ phiếu
phát hành của Quỹ này đều là các cổ phiếu thông thường. So với Quỹ đầu tư
dạng đóng, Quỹ đầu tư dạng mở có lợi thế rõ ràng về khả năng huy động, mở
rộng quy mô vốn, do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn dự án đầu tư.

6


Giữa Quỹ đầu tư dạng đóng và Quỹ đầu tư dạng mở có những điểm khác
nhau cơ bản sau :
Quỹ đầu tư dạng mở

Quỹ đầu tư dạng đóng

- Loại chứng khoán phát hành là cổ - Có thể phát hành cổ phiếu thường, cổ
phiếu thường.

phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu.

- Số lượng chứng khoán hiện hành luôn - Số lượng chứng khoán hiện hành cố
thay đổi.

đònh.

- Chào bán ra công chúng liên tục.


- Chào bán ra công chúng chỉ một lần.

- Quỹ sẵn sàng mua lại các cổ phiếu đã - Không mua lại số chứng khoán đã
phát hành theo giá trò tài sản thuần.

phát hành.

- Cổ phiếu được mua trực tiếp từ Quỹ - Cổ phiếu được phép giao dòch trên thò
đầu tư, người bảo lãnh phát hành hay trường chứng khoán chính thức hay thò
người môi giới thương gia.

trường chứng khoán phi chính thức.

- Giá mua là giá trò tài sản thuần cộng - Giá mua được xác đònh bởi lượng cung
với lệ phí bán ( giá trò tài sản thuần – cầu. Do đó, giá mua có thể cao hơn
được xác đònh bằng giá trò chứng khoán giá trò tài sản thuần hoặc thấp hơn giá
trong hồ sơ ).

trò tài sản thuần.

- Lệ phí bán được cộng thêm vào giá trò - Tiền hoa hồng được trả cho giao dòch
tài sản thuần. Mọi phí tổn mua lại phải thực hiện do một đại lý. Sự tăng giá và
công bố rõ ràng trong bản cáo bạch .

giảm giá được tính trả cho giao dòch
thực hiện trên số vốn gốc.

1.2.2 Căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động
Quỹ đầu tư được chia thành :

Quỹ đầu tư chứng khoán dài hạn
Đối tượng đầu tư của các Quỹ này tương đối đa dạng, bao gồm cả đầu tư
trực tiếp vào các công ty , các dự án và đầu tư gián tiếp vào thò trường chứng
7


khoán. Tùy khả năng và đònh hướng của Hội đồng quản trò mà Quỹ đầu tư tập
trung vào đâu. Nói chung, các Quỹ đầu tư dạng này thường có hệ số rủi ro cao,
song để bù lại, nó lại có thể gặt hái được những vụ đầu tư siêu lợi nhuận.
Quỹ đầu tư chứng khoán ngắn hạn
Loại Quỹ này chủ yếu đầu tư vào các loại chứng khoán ngắn hạn vì đối
tượng đầu tư là các chứng khoán ngắn hạn trên thò trường tiền tệ nên các Quỹ
đầu tư này còn được gọi là Quỹ thò trường tiền tệ. Các Quỹ này có ưu điểm là độ
an toàn cao, khả năng hoán đổi ra tiền mặt nhanh, các chi phí giao dòch thực hiện
các vụ đầu tư không lớn
Quỹ đầu tư hỗn hợp
Loại Quỹ này thực hiện cả đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn lẫn chứng
khoán dài hạn, đây là dạng Quỹ đầu tư kết hợp cả 2 dạng Quỹ trên. Thực hiện
đầu tư theo kiểu này sẽ đảm bảo tính an toàn cao cho Quỹ.
1.2.3 Căn cứ vào quyền sở hữu
Quỹ đầu tư cổ phần
Là dạng Quỹ đầu tư được hình thành trên cơ sở góp vốn của nhiều thành
viên trong xã hội, thực chất là một công ty cổ phần chuyên môn hóa trong lónh
vực đầu tư ( do đó còn gọi là công ty đầu tư ).
Những người nắm giữ cổ phần trong Quỹ có thể hoàn toàn là công chúng
nhưng cũng có thể có mặt Nhà nước với tư cách cổ đông để điều chỉnh hoạt động
của Quỹ theo những đònh hướng nhất đònh.
Quỹ đầu tư Nhà nước
Là Quỹ đầu tư mà Nhà nước bỏ vốn hoàn toàn để thành lập và toàn
quyền quản lý. Khi có nhu cầu huy động vốn, Quỹ đầu tư chỉ phát hành trái

phiếu hoặc vay tín dụng các thành phần khác trong nền kinh tế. Loại Quỹ này
được thành lập sẽ giúp Nhà nước toàn quyền sử dụng phục vụ cho mục đích
8


riêng của mình như huy động vốn, đầu tư vào trọng điểm nền kinh tế theo chính
sách quốc gia, quản lý đầu tư, đối trọng liên doanh ...
Ngoài các loại Quỹ đầu tư được phân loại ở trên, còn nhiều loại như Quỹ
đầu tư khai thác vàng, bạc, đá quý; Quỹ chuyên dùng vào việc mua bán các hợp
đồng tương lai ...
1.3 Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới về Quỹ đầu tư
Trên con đường đầu tư phát triển kinh tế tại các quốc gia đang mở mang
hay đã phát triển đều có các Quỹ đầu tư hay các công ty đầu tư của chính họ.
Các Quỹ đầu tư của chính phủ hoặc tư nhân tham gia vào việc đầu tư trong nước
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn. Các Quỹ đầu tư này bỏ vốn vào các dự án lớn, quan
trọng và có lời của quốc gia để sau đó biến thành các cổ phần và bán lại trực
tiếp cho toàn dân hay qua các công ty nội đòa một khi họ còn đủ tài chính để
mua lại. Thực hiện điều này, họ đã đem trả lại quyền lợi của đất nước và quyền
sở hữu cho chính những người trong nước, thể hiện đúng quyền làm chủ thật sự
các quyền lợi cho chính toàn dân.
Ở Malaysia, có Quỹ đầu tư do chính phủ thành lập tên PNB quản lý độc
lập nhưng vẫn theo sự chỉ đạo của chính phủ để bảo vệ quyền lợi của người
Malaysia. Quỹ này có số lượng tài chính rất lớn và đã chia thành những quỹ nhỏ
đặc biệt theo chuyên ngành để hỗ trợ giúp đỡ người dân gốc Malaysia mua các
cổ phần của các dự án, các công ty có lời. Giá cổ phần của Quỹ đầu tư được
thông báo hàng ngày và người dân bất cứ lúc nào cũng có thể tham gia mua cổ
phần qua các Quỹ đầu tư.
Ở Singapore, chính phủ cũng thành lập một công ty đầu tư với mục đích
tham gia vào các dự án liên doanh với nước ngoài và ngày nay Quỹ này đã bành
trướng rộng rãi với số vốn ngày càng tăng và còn tham gia đầu tư tại các nước

ngoài qua các công ty khác nhau để giúp phát triển Singapore trong tương lai.
9


Ở Trung Quốc cũng thành lập Quỹ đầu tư – công ty CITIC – mục đích
công ty này là đầu tư vào các công ty ngoại quốc lớn ở Hồng Kông để ổn đònh
chính trò và nắm giữ quyền lợi kinh tế tại Hồng Kông sau năm 1997 khi Anh
quốc trao trả chủ quyền của vùng đất này. Hiện nay công ty CITIC chiếm giữ
một vò trí quan trọng trong nền kinh tế của Hồng Kông , sở hữu cổ phần lớn nhất
tại công ty hàng không Cathay Pacific, công ty điện thoại và các công ty quan
trọng chủ yếu của Hồng Kông. Chẳng những vậy, Quỹ đầu tư CITIC còn là
phương tiện để chính phủ Trung Quốc tham gia đầu tư vào các nước ngoài qua
các dự án có lời cao và đặc biệt đối với các lónh vực giúp giải quyết cho Trung
Quốc các nguồn nguyên liệu mà họ cần cho việc sản xuất trong nước.
Ở Papua New Guinea mới độc lập từ năm 1975 cũng đã thành lập công ty
đầu tư với mục đích mua các cổ phần hay làm đối tượng đầu tư liên doanh với
ngoại quốc trong các dự án phát triển trong xứ.
Ở Kuwait, một quốc gia sản xuất dầu hỏa quan trọng tại Trung Đông, có
thu nhập bình quân đầu người rất cao trên thế giới cũng thành lập Quỹ đầu tư ,
chính phủ dùng lợi tức từ tiền bán dầu hỏa để đầu tư tại nhiều nước trên thế giới
để kiếm lợi nhuận cho Kuwait trong tương lai khi họ hết dầu khí.
Ngoài các Quỹ đầu tư thành lập của mỗi quốc gia, còn có các Quỹ đầu tư
của các đònh chế tài chính quốc tế. Các công ty đầu tư, công ty tài chính chuyên
môn của các nước phối hợp hùn vốn để đầu tư phát triển tại các quốc gia đang
mở mang có tốc độ phát triển nhanh, vào các dự án có tiềm năng sinh lợi cao tại
các quốc gia này. Các Quỹ đầu tư ở hình thức này đã hoạt động như : Quỹ đầu tư
vào Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan, Indonesia ... Các Quỹ đầu tư
này huy động vốn để đầu tư trực tiếp vào các công ty đang hoạt động tại các
nước này.
1.4 Hệ thống Quỹ đầu tư ở Việt Nam

10


1.4.1 Các Quỹ đầu tư trong nước
Năm 1996, theo đề nghò của UBND thành phố Hồ Chí Minh , Bộ Tài
chính đã phối hợp với các bộ, ngành trình Thủ tướng Chính phủ cho thành lập
Quỹ đầu tư phát triển đô thò TP.HCM với mục đích thí điểm một loại mô hình
mới, thực hiện chức năng huy động các nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư
phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tháng 09/1996, Quỹ đầu tư phát triển đô
thò TP.HCM chính thức được Thủ tướng Chính phủ quyết đònh thành lập, tháng
05/1997ø đi vào hoạt động. Quỹ đã nhanh chóng trở thành công cụ tài chính quan
trọng góp phần thực thi các chương trình , mục tiêu đầu tư của UBND thành phố
Hồ Chí Minh.
Tiếp theo, nhiều tỉnh thành phố khác đã xây dựng đề án trình Bộ Tài
chính thẩm đònh và cho phép thành lập Quỹ đầu tư phát triển. Tính đến nay, đã
có thêm 08 Quỹ được thành lập bao gồm : Quỹ đầu tư phát triển Bình Đònh (
tháng 07/1997 ), Quỹ đầu tư phát triển Hải Phòng ( tháng 07/1998 ), Quỹ đầu tư
phát triển Bình Dương ( tháng 06/1999 ), Quỹ đầu tư phát triển Đồng Nai ( tháng
02/2000 ), Quỹ đầu tư phát triển Đồng Tháp ( tháng 12/2000 ), Quỹ đầu tư phát
triển Tiền Giang ( tháng 03/2001 ), Quỹ đầu tư phát triển Khánh Hòa ( tháng
07/2001 ), Quỹ đầu tư phát triển Hà Nội ( tháng 08/2001 ).
Đến nay có một số tỉnh, thành phố đang hoàn tất các thủ tục thành lập
Quỹ đầu tư phát triển như : Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Thuận ... và nhiều tỉnh,
thành phố khác chưa thành lập Quỹ đầu tư phát triển nhưng UBND tỉnh, thành
phố đã tổ chức các hoạt động tín dụng đầu tư ở nhiều mức độ khác nhau ( hiện
có 25 tỉnh, thành phố trong cả nước đang thực hiện ủy thác vốn từ ngân sách đòa
phương cho Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển trên đòa bàn để thực hiện hoạt động
cho vay đầu tư ).
Sự ra đời và hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển đã tạo ra một công cụ
mới huy động các nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thực hiện các chương


11


trình kinh tế xã hội của đòa phương nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung,
góp phần vào sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
1.4.2 Các Quỹ đầu tư nước ngoài
Hiện nay, Việt Nam đang bước vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới.
Ngoài các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp vào các doanh
nghiệp, các dự án đầu tư ... thò trường vốn Việt Nam còn biết đến loại hình Quỹ
đầu tư .
Hiện nay có 06 Quỹ đầu tư của nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt
Nam. Các Quỹ đầu tư này đều là Quỹ đầu tư dạng đóng, có thời gian hoạt động
từ 10 năm đến 30 năm, trong thời gian này các cổ đông của Quỹ không được rút
lại vốn. Các Quỹ đầu tư này đều là các Quỹ quốc gia dành riêng cho thò trường
Việt Nam, các Quỹ :
-

Vietnam Fund Ltd.

-

Templeton Vietnam Opportunities Fund Ltd.

-

Vietnam Frontier Fund Ltd.

-


Beta Vietnam Fund Ltd.

-

Beta Mekong Fund Ltd.

-

Dragon Capital Fund Ltd.

Các Quỹ đầu tư nước ngoài nói trên đã và đang đầu tư vào nhiều dự án
như góp vốn mua cổ phần của ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ( ACB ),
ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải, góp vốn cổ phần trong một số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh đang hoạt động tại Việt Nam
như ngân hàng Bangkok, Công ty American Standard Sanitary Ware, khách sạn
Metropole ... Đặc biệt, hiện nay các Quỹ này quan tâm đến các doanh nghiệp
cổ phần hóa để có thể tham gia góp vốn mua cổ phần, tham gia thò trường chứng
khoán .

12


Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ

PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1 Quá trình thành lập Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí
Minh
Từ năm 1996, nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đã trở thành một

nhiệm vụ cấp bách đặt ra trong mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của Thành
phố . Để thực hiện được mục tiêu này, một trong những biện pháp quan trọng
hàng đầu là phải huy động được vốn đầu tư. Tuy nhiên, cơ chế huy động vốn đầu
tư trung và dài hạn lúc bấy giờ còn vướng phải nhiều khó khăn trở ngại :
- Chưa có một hệ thống các biện pháp huy động tổng hợp các nguồn vốn
trung và dài hạn.
- Những nguồn cung ứng vốn sẵn có còn phân tán manh mún kể cả các
nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước do Thành phố quản lý. Nguyên nhân là do
mỗi nguồn vốn này có một cơ chế tạo lập và sử dụng khác nhau nên chưa được
khai thác sử dụng có hiệu quả. Thời điểm đó, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
đi qua các kênh sau đây :
+ Cục quản lý vốn : cấp và quản lý vốn đầu tư cho các dự án sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước.
+ Cục đầu tư : cấp và quản lý vốn đầu tư cho các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng trọng điểm được phê duyệt và ghi vào kế hoạch chi ngân sách do
Chính phủ phân bổ hàng năm.
+ Quỹ Hỗ trợ đầu tư : theo tinh thần của Luật khuyến khích đầu tư
trong nước, Quỹ này được triển khai thành lập nhằm thực hiện các chính sách ưu
đãi đầu tư của Chính phủ.

13


+ Các nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước do Thành phố quản lý
như : Quỹ phát triển nhà, phụ thu tiền điện , nước , điện thoại, tiền đóng góp xây
dựng cơ sở hạ tầng của các nhà đầu tư, một phần tiền xổ số kiến thiết, tiền sử
dụng đất … Những nguồn này một số còn để bất động chờ dự án nghiên cứu khả
thi, một số khác đã được sử dụng phân tán, khó quản lý.
- Việc quản trò triển khai các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, việc tổ chức đưa
vào sử dụng, khai thác kinh doanh các công trình này cũng đang phân tán ở

nhiều cơ quan quản lý Nhà nước – khó kiểm tra, giám sát, quản lý – còn trì trệ
và không ít tiêu cực hoặc lãng phí và nhất là chưa xem xét đầy đủ hiệu quả đầu
tư, phí tổn cơ hội thẩm đònh nghiêm túc để lựa chọn dự án.
- Hệ thống các đònh chế tài chính – tín dụng hiện hữu chủ yếu thực hiện
vai trò của “nhà cho vay”, thiếu các tổ chức đóng vai trò nhà đầu tư. Sự khiếm
khuyết này vừa gây trở ngại cho sự phát triển thò trường vốn trong nước, vừa
không kích thích, hỗ trợ được các nhà đầu tư riêng lẽ tham gia vào quá trình đầu
tư.
- Nhu cầu đầu tư ngày càng một cấp thiết, trong khi các nguồn vốn có khả
năng huy động lại dồi dào.
Trước các nhu cầu bức xúc trên, Thành phố cần có một đònh chế tài chính
trung gian nhằm thực hiện mục tiêu: vừa huy động được nhiều nguồn vốn, bao
gồm vốn của Nhà nước, của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, vốn của
công chúng để đầu tư có hiệu quả; vừa phục vụ được yêu cầu phát triển hạ tầng
đô thò. Vào thời điểm đó, đã có hai mô hình được đề nghò về việc thành lập Quỹ
đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh :
Mô hình 01 : Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh là một
đònh chế tài chính công, được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp Nhà nước. Đó
là một đònh chế tài chính công quản do Nhà nước thành lập và trực tiếp tổ chức
14


quản lý theo hình thức doanh nghiệp Nhà nước , với cơ chế tự quản tài chính,
một pháp nhân độc lập với các cơ quan công quyền, có vốn điều lệ và tài sản
riêng, chòu trách nhiệm tài chính trong giới hạn tài sản của mình.
Ưu điểm :
- Dễ dàng dung nạp nhiều nguồn vốn có gốc từ ngân sách Thành phố
hoặc ngân sách Thành phố được hưởng , đồng thời huy động được cả các nguồn
vốn khác.
- Sử dụng vốn đầu tư vào cả các loại cơ sở hạ tầng không có doanh thu –

các loại cơ sở hạ tầng công ích, thực hiện các dự án đầu tư ưu tiên cho mục tiêu
quy hoạch.
- Nhà nước kiểm soát hoàn toàn các hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển
đô thò thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo đúng theo mục tiêu phát triển đô thò.
- Tập trung đầu mối đối tác với trong và ngoài nước về các hợp đồng liên
doanh, hợp đồng BOT, hợp đồng thi công xây dựng …
- Tập trung được các nguồn viện trợ nước ngoài, các loại trái phiếu ưu đãi
cho phát triển hạ tầng, các loại phí phát triển đô thò.
Hạn chế :
- Hạn chế khả năng huy động vốn trong công chúng – chỉ có thể huy động
dưới hình thức phát hành trái phiếu.
- Các quyết đònh đầu tư có thể chậm chạp do bò ràng buộc bởi các thủ tục
hành chính của guồng máy cơ quan công quyền và thể chế tài chính công hiện
hành, có thể bò chồng lấn trong một số lónh vực đầu tư, mà nguồn vốn thuộc ngân
sách Nhà nước cân đối hàng năm, hiện do các tổ chức công khác quản lý.
- Khó tránh khỏi tình trạng tiêu cực vốn đầu tư do chế độ thù lao, lương
bổng phải theo khung lương chung , lại không được các quyền lợi khác ngoài

15


Nhà nước kiểm tra giám sát. Bộ máy dễ bò quan liêu hóa do thể chế hành chính
và tài chính hiện hành chi phối .
Mô hình 02 : Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh là một
doanh nghiệp dạng công ty cổ phần có vốn góp của ngân sách Thành phố và của
các thành phần kinh tế khác cùng tìm kiếm lợi nhuận từ các cuộc đầu tư phát
triển đô thò.
Ưu điểm :
- Có khả năng huy động mạnh mẽ các nguồn vốn trong công chúng dưới
02 hình thức : phát hành cổ phiếu và trái phiếu.

- Các quyết đònh đầu tư có thể nhanh chóng theo phong cách của các
doanh nhân, không bò ảnh hưởng nặng nề của cơ chế, thủ tục hành chính của một
cơ quan công quyền.
- Có khả năng ngăn ngừa tình trạng tiêu cực do bò các đạo luật về phát
hành chứng khoán yêu cầu công khai hóa và kiểm toán thường xuyên để cho
mọi quyền lợi có liên quan kiểm tra giám sát.
- Thuận lợi hơn trong việc huy động các nguồn vốn nước ngoài vì tính
chất công ty của nó.
Hạn chế :
- Khó dung nạp một số nguồn vốn có gốc từ ngân sách Thành phố.
- Chỉ quan tâm đầu tư vào các loại cơ sở hạ tầng có doanh thu, có thể tạo
lợi nhuận, khó điều chỉnh vào các mục tiêu không sinh lời hoặc sinh lời thấp.
- Nhà nước không thể trọn quyền quản lý, sử dụng Quỹ đầu tư phát triển
đô thò thành phố Hồ Chí Minh như một công cụ hoàn toàn theo ý muốn của Nhà
nước.
Sau khi cân nhắc, mô hình Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ
Chí Minh là một đònh chế tài chính công, một tổ chức tài chính Nhà nước đã
16


được lựa chọn. Mô hình này được điều chỉnh tính chất, mục tiêu hoạt động và cơ
chế vận hành để có thể dung nạp một phần của mô hình Công ty cổ phần, nhằm
: vừa phục vụ cho mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng của Thành phố theo quy
hoạch, vừa đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn của Quỹ;
vừa sử dụng được một phần các nguồn vốn thuộc ngân sách hoặc có nguồn gốc
ngân sách, vừa huy động được rộng rãi các nguồn vốn khác trong và ngoài nước.
Đây là một việc làm rất khó khăn, trong điều kiện luật pháp và cơ chế
quản lý tài chính của nước ta chưa đầy đủ và hoàn chỉnh.
Trong điều kiện đó, Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh
được thành lập như một mô hình thí điểm về mặt đổi mới cơ chế huy động vốn

và đầu tư phát triển tại một thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh.
Để tạo cơ sở pháp lý cho Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí
Minh hoạt động, các văn bản pháp lý sau đây đã được ban hành để điều chỉnh
trực tiếp các hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh :
- Quyết đònh thành lập số 644/TTg ngày 10/09/1996 của Thủ tướng Chính
phủ
- Quyết đònh ban hành điều lệ tổ chức hoạt động số 1148/QD9-UB-KT
ngày 15/03/1997 của UBND thành phố Hồ Chí Minh.
- Giấy phép hoạt động số 441 TC/TCNH ngày 19/06/1997 của Bộ Tài
chính.
- Thông tư số 43 TC/TCNH ngày 07/07/1997 của Bộ Tài Chính hướng dẫn
thực hiện Quy chế quản lý tài chính.
Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh hoạt động trên đòa
bàn nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước về công nghiệp, thương
mại, dòch vụ, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư trên đòa
bàn rất lớn. Thành phố là đòa phương đóng góp tích cực cho việc cân đối ngân
17


sách quốc gia hằng năm. Ngoài ra, Thành phố còn là nơi tập trung nhiều nguồn
thu như tiền bán nhà sở hữu Nhà nước, phụ thu điện, nước, thu xổ số kiến thiết...
Nếu được tập trung và quản lý hiệu quả, các nguồn vốn này sẽ góp phần giải
quyết một phần nguồn vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hàng
năm trên đòa bàn. Mặt khác, Thành phố là một thò trường tài chính lớn của cả
nước, là nơi tập trung nhiều tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng, đònh chế tài chiùnh
trung gian trong và ngoài nước. Những tổ chức này đã cung cấp một nguồn vốn
đáng kể cho các hoạt động đầu tư của Thành phố. Từ những đặc điểm đó, Quỹ
đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh có nhiều điều kiện thuận lợi để
hoạt động.
Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh được xác đònh vốn

điều lệ ban đầu tương đối lớn (500 tỷ đồng), từ đó tạo tiềm lực về tài chính cũng
như uy tín để có thể huy động được các nguồn vốn của các tổ chức tài chính
trong và ngoài nước, tạo điều kiện để cân đối các nguồn vốn trong quá trình đầu
tư.
Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh được sự chỉ đạo chặt
chẽ của UBND thành phố Hồ Chí Minh và Bộ Tài chính về các vấn đề có liên
quan đến các hoạt động chủ yếu, kế hoạch đầu tư, cơ chế quản lý tài chính ...
Đặc biệt là việc giao cho Quỹ là đầu mối huy động vốn cho một số công trình
trọng điểm về hạ tầng kỹ thuật, giao thông và gần đây là các dự án xây dựng cơ
sở vật chất và trang bò thiết bò cho ngành y tế, giáo dục thuộc chương trình kích
cầu thông qua đầu tư của Thành phố.
Chức năng, nhiệm vụ, nội dung và hình thức hoạt động được quy đònh trong
điều lệ hoạt động tương đối đa dạng, phong phú, từ đó đã tạo ra nhiều cơ hội để
Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh có thể mở rộng phạm vi và
đa dạng hóa hoạt động đầu tư. Đây cũng là điều kiện để Quỹ đầu tư phát triển
18


đô thò thành phố Hồ Chí Minh mở rộng mối liên kết với các tổ chức tài chính, tín
dụng trong và ngoài nước.
Vào thời điểm Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh bắt
đầu hoạt động, tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung, thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng có phần chậm lại. Thêm vào đó, sự khủng hoảng tài chính
tiền tệ của nhiều quốc gia trong khu vực đã làm cho thò trường tiêu thụ sản phẩm
bò thu hẹp, dẫn đến các hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước
ngoài vào Thành phố bò giảm sút. Do đó, phần lớn các dự án đầu tư của các
doanh nghiệp đều hoãn hoặc triển khai chậm. Trong khi đó, các dự án đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng còn đang trong quá trình thực hiện chuẩn bò đầu tư. Vì
vậy nhu cầu vốn đầu tư thấp, thò trường tài chính gặp nhiều khó khăn.
Mô hình Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh là một mô

hình mới chưa được các ngành, các cấp, công chúng, các nhà đầu tư hiểu biết
tường tận. Việc xác lập vò trí trong mối quan hệ với các tổ chức tài chính, tín
dụng chưa rõ nét. Nhiều hoạt động nghiệp vụ của Quỹ đầu tư phát triển đô thò
thành phố Hồ Chí Minh còn mới mẻ, chưa có kinh nghiệm thực tiễn.
Hành lang pháp lý cho hoạt động của Quỹ còn nhiều hạn chế, bất cập. Do
đó, Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh phải áp dụng nhiều văn
bản pháp luật như luật doanh nghiệp Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, các
quy đònh về tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước, các quy đònh về đầu tư và xây
dựng.... để triển khai hoạt động của mình. Một số hoạt động huy động vốn và
đầu tư phát sinh, chòu sự chi phối của nhiều quy đònh khác nhau, Quỹ đã gặp
nhiều khó khăn trong việc xác đònh văn bản pháp luật nào điều chỉnh chủ yếu để
áp dụng cho phù hợp.
Lực lượng cán bộ viên chức tập trung từ nhiều đơn vò với các chức năng
hoạt động khác nhau, do đó quan điểm nhận thức về mô hình Quỹ đầu tư phát
19


triển đô thò thành phố Hồ Chí Minh cũng chưa hoàn toàn thống nhất. Vì vậy quá
trình triển khai các nghiệp vụ cũng chưa thực sự đồng bộ và thông suốt. Ngoài
ra, bộ máy tác nghiệp phải thường xuyên thay đổi để phù hợp với tình hình hoạt
động từng lúc đã làm hạn chế công tác chuyên môn hóa công việc của từng bộ
phận tác nghiệp và ảnh hưởng đến công tác quy hoạch đào tạo cán bộ viên chức
để có nguồn nhân lực đáp ứng các mục tiêu chiến lược của Quỹ đầu tư phát triển
đô thò thành phố Hồ Chí Minh.
2. 2 Chức năng - nhiệm vụ - quyền hạn chủ yếu của Quỹ đầu tư phát triển
đô thò thành phố Hồ Chí Minh :
Theo các văn bản pháp lý nêu trên, Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành phố
Hồ Chí Minh được thành lập nhằm mục đích huy động vốn để đầu tư các dự án
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và một số lónh vực công nghiệp then
chốt của thành phố Hồ Chí Minh. Quỹ hoạt động trên nguyên tắc bảo toàn và

phát triển vốn, tự bù đắp chi phí và tự chòu rủi ro.
Chức năng nhiệm vụ :
- Huy động các nguồn vốn trung và dài hạn của các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước theo quy đònh của pháp luật.
- Thực hiện việc đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
- Cung cấp các dòch vụ tài chính; các dòch vụ tư vấn đầu tư; ủy thác và tiếp
nhận ủy thác quản lý vốn đầu tư và các nguồn vốn khác.
- Tham gia hoạt động thò trường vốn: kinh doanh chứng khoán, môi giới
chứng khoán và các dòch vụ khác theo các quy đònh của pháp luật về chứng
khoán và kinh doanh chứng khoán.
- Xây dựng chiến lược đầu tư phát triển, kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng
năm của Quỹ; có kế hoạch tổ chức thực hiện các phương phướng chiến lược đó
thông qua các chương trình mục tiêu cụ thể nhằm góp phần phục vụ cho yêu cầu
20


đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh trong từng giai đoạn và
lâu dài.
- Quản lý và sử dụng các nguồn vốn do Nhà nước giao và do huy động
được để đầu tư vào các dự án khả thi; có hiệu quả kinh tế - xã hội theo kế hoạch
đã được UBND TP.HCM phê duyệt.
- Sử dụng các nguồn vốn được Nhà nước giao và các nguồn vốn huy động
như là một công cụ tài chính thu hút rộng rãi các nguồn vốn nhàn rỗi và các
nguồn
tài chính khả dụng khác vào công cuộc đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tiến
trình xã hội hóa hoạt động đầu tư phục vụ cho sự nghiệp hiện đại hóa – công
nghiệp hóa đất nước.
- Bảo toàn vốn Nhà nước giao, sử dụng có hiệu quả và không ngừng tích
lũy vốn để đầu tư phát triển, có trách nhiệm với các khoản vốn nhận ủy thác
quản lý đầu tư được quy đònh riêng tại các hợp đồng ủy thác.

- Sử dụng đúng mục đích các khoản tài trợ khác trong và ngoài nước.
- Hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn vốn và lãi đối với tất cả các khoản nợ vay
trong và ngoài nước của Quỹ, bao gồm cả các khoản tín dụng quốc tế do Chính
phủ cho phép Quỹ tiếp nhận.
- Thực hiện các chế độ tài chính về:
+ Quản lý vốn, tài sản, các Quỹ; thực hiện chế độ trích lập và sử dụng
có hiệu quả các quỹ tập trung trong Quỹ theo luật đònh và theo Điều lệ .
+ Hạch toán – kế toán – thống kê tài sản, vốn và nợ của Quỹ và lập
tổng quyết toán tài chính hàng năm đúng theo quy đònh của Nhà nước.
+ Thực hiện các nghóa vụ tài chính đối với Nhà nước theo quy đònh của
pháp luật.
+ Thực hiện đúng quy chế quản lý tài chính của Bộ Tài chính.
21


- Bảo đảm tính xác thực và hợp pháp của các báo cáo thống kê kế toán về
tình hình hoạt động của Quỹ.
- Thực hiện đúng chế độ báo cáo thống kê đònh kỳ theo yêu cầu của
UBND Thành phố và Bộ Tài chính.
- Chòu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền theo luật đònh; cung cấp số liệu, công bố công khai về tình hình tài chính
của Quỹ theo quy đònh của pháp luật.
- Trong những trường hợp cần thiết cho sự an toàn của các khoản đầu tư
và cho vay, Quỹ có trách nhiệm phải mua bảo hiểm tài sản, bảo hiểm rủi ro và
các loại bảo hiểm khác theo chế độ quy đònh hiện hành của Nhà nước.
Quyền hạn :
- Quỹ có quyền quản lý và sử dụng đối với mọi nguồn vốn, nguồn tài trợ
và tài sản do Nhà nước giao và do huy động theo pháp luật hiện hành và theo
bản Điều lệ , nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế.
- Được tự mình trực tiếp hoặc phân công các đơn vò thành viên thuộc Quỹ

thực hiện các hoạt động: thành lập, góp vốn, tham gia thành lập các Quỹ trực
thuộc, tham gia hợp tác đầu tư, liên doanh với các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước theo quy đònh của pháp luật. Việc đầu tư có liên quan đến đất đai
phải tuân theo các quy đònh của pháp luật về đất đai.
- Được trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý, giám sát, kiểm tra các
doanh nghiệp, các dự án, các tổ chức tài chính khác có vốn góp của Quỹ,
- Quỹ được quyền:
+ Đầu tư vào các dự án với tư cách là chủ đầu tư hoặc đồng chủ đầu tư.
+ Được sử dụng tối đa 20% vốn điều lệ của Quỹ để mua cổ phần của
các doanh nghiệp khác với mức không vượt quá 10% cổ phần của doanh nghiệp
đó. Nếu được Chủ tòch Ủy ban nhân dân thành phố cho phép, Hội đồng quản lý
22


Quỹ có thể ra quyết đònh mua cổ phần với tỷ lệ cao hơn 10%, nhưng sau 3 – 5
năm phải giảm còn 10%.
+ Cho vay với lãi suất không vượt quá trần lãi suất cho vay trung và dài
hạn do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm tương ứng.
- Được đầu tư và kinh doanh trên thò trường chứng khoán theo Luật chứng
khoán và kinh doanh chứng khoán.
- Quỹ được chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản, giá trò
quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của Quỹ theo quy
đònh của pháp luật.
- Quỹ được quyền huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau theo điều lệ và
theo quy đònh của pháp luật, bao gồm :
+ Vay trực tiếp theo các hợp đồng tín dụng thương mại từ các đơn vò
trong và ngoài nước. Số dư nợ khi vay theo thể thức này không vượt quá một lần
số vốn điều lệ của Quỹ tại thời điểm tương ứng.
+ Vay theo các hợp đồng tín dụng với điều kiện ưu đãi từ các đơn vò
trong và ngoài nước.

+ Phát hành trái phiếu.
+ Tiếp nhận các khoản vốn ủy thác.
- Quỹ có quyền tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh phù hợp với mục tiêu,
nhiệm vụ Nhà nước giao; tự quyết đònh các hoạt động tác nghiệp của Quỹ trong
khuôn khổ pháp luật và theo điều lệ .
- Quỹ được đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của Quỹ ở trong nước và ở
nước ngoài theo quy đònh của pháp luật.
- Quỹ được tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo lao động, lựa
chọn các hình thức trả lương, thưởng và có các quyền khác của người sử dụng

23


lao động theo luật đònh trên cơ sở kết quả hoạt động của Quỹ và các quy đònh
liên quan của Nhà nước.
- Được mời và tiếp các đối tác đầu tư, kinh doanh nước ngoài; được cử
cán bộ và nhân viên của Quỹ ra nước ngoài công tác, học tập, tham quan khảo
sát.
- Việc quản lý khấu hao, lợi nhuận của Quỹ được thực hiện theo chế độ
quản lý tài chính Nhà nước và trên cơ sở kết quả hoạt động của Quỹ.
- Được hưởng các chế độ ưu đãi đầu tư và tái đầu tư theo quy đònh của
Nhà nước.
- Được hưởng chính sách miễn, giảm các loại thuế (thuế vốn, thuế doanh
thu, thuế lợi tức) theo quy đònh của pháp luật.
- Được pháp luật bảo hộ với tư cách là một pháp nhân trước mọi hành vi
trái với quy đònh của pháp luật và gây tác hại đến tài sản, uy tín, thương quyền
của Quỹ.
- Quỹ có quyền từ chối mọi yêu cầu của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào
về việc cung cấp thông tin và các nguồn lực khác của Quỹ, nếu yêu cầu đó trái
với quy đònh của pháp luật .

- Đối với các đối tượng nhận tài trợ, Quỹ có quyền:
+ Yêu cầu xuất trình tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin về tình hình
tài chính, sản xuất kinh doanh để Quỹ xem xét quyết đònh và kiểm tra sử dụng
vốn.
+ Từ chối tài trợ nếu xét thấy trái pháp luật .
+ Thu hồi các khoản tài trợ trước thời hạn, nếu có đầy đủ chứng cớ đối
tượng đó sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc trái pháp luật.
2.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Quỹ đầu tư phát triển đô thò thành
phố Hồ Chí Minh
24


×