Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn nguyễn khải giai đoạn sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.54 KB, 102 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận được sự hướng dẫn của
cô giáo: Th.s Hoàng Thị Duyên – giảng viên tổ Lý luận văn học, các thầy cô
trong tổ lý luận văn học cùng các thầy cô trong khoa Ngữ văn trường ĐHSP
Hà Nội 2.
Nhân khóa luận hình thành, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với
các thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
Do hạn chế về thời gian, khả năng bước đầu tập nghiên cứu khoa học
không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự
đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên

Đỗ Thị Dương

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

3


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan khóa luận: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975” là kết quả nghiên cứu của bản thân
tôi, không trùng với tác giả nào khác. Những kết quả thu được là hoàn toàn
chân thực và chưa có trong một đề tài nào khác.
Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Đỗ Thị Dương

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

4


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 7
1.Lí do chọn đề tài.......................................................................................... 7
2.Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 9
3.Mục đích nghiên cứu………………………………………………………12
4.Giới hạn và phạm vi nghiên cứu................................................................ 12
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 13
6. Phương pháp nghiên cứu. ......................................................................... 13
7. Đóng góp của khóa luận ........................................................................... 14
8. Cấu trúc khóa luận.................................................................................... 14
NỘI DUNG ................................................................................................. 15
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT

TRẦN THUẬT ........................................................................................... 15
1.1. Nghệ thuật trần thuật ............................................................................. 15
1.1.1. Khái niệm trần thuật .......................................................................... 15
1.1.2. Vai trò của trần thuật đối với việc xây dựng truyện ngắn.................... 16
1.2. Các nhân tố cơ bản của nghệ thuật trần thuật......................................... 18
1.2.1. Người trần thuật ................................................................................. 18
1.2.2. Điểm nhìn trần thuật ........................................................................... 21
1.2.3. Ngôn ngữ trần thuật............................................................................ 24
1.2.4. Giọng điệu trần thuật.......................................................................... 26
1.3. Vài nét về nghệ thuật trần thuật trong văn học Việt Nam sau 1975........ 29
CHƯƠNG 2: SỰ KHAI THÁC ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI GIAI ĐOẠN SAU 1975 ................... 33
2.1. Điểm nhìn gắn với ngôi kể, vai kể ......................................................... 35
2.2. Điểm nhìn nhân vật ............................................................................... 46

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

5


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.3. Sự dịch chuyển điểm nhìn ..................................................................... 51
2.3.1 Sự dịch chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác............ 52
2.3.2. Sự dịch chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong........................ 55
CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI GIAI ĐOẠN SAU 1975 ................... 59
3.1. Ngôn ngữ trần thuật............................................................................... 59

3.1.1. Ngôn ngữ người kể chuyện................................................................. 60
3.1.1.1. Ngôn ngữ sắc sảo, tinh tế................................................................. 60
3.1.1.2. Ngôn ngữ giàu tính triết luận ........................................................... 64
3.1.2. Ngôn ngữ nhân vật ............................................................................. 69
3.1.2.1. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật ..................................................... 69
3.1.2.2. Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật..................................................... 73
3.2. Giọng điệu trần thuật ............................................................................. 76
3.2.1. Giọng triết lý, chiêm nghiệm .............................................................. 77
3.2.2. Giọng đối thoại và tranh biện.............................................................. 83
3.2.2. Giọng xót xa, tâm tình, chia sẻ ........................................................... 88
3.2.3. Giọng dân dã, hài hước, hóm hỉnh ...................................................... 94
KẾT LUẬN............................................................................................... 100
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 103

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

6


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Pospelov khẳng định: “đóng vai trò quan trọng trong loại tác phẩm
tự sự là trần thuật”. Trần thuật là phương thức biểu đạt thông dụng mà văn
học lựa chọn để hiểu biết, khám phá và phản ánh đời sống. Nó giúp cho người
nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc trong nghệ thuật kể truyện của
mỗi nhà văn. Trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận và giải mã cấu trúc bên trong

tác phẩm, đồng thời có thể đánh giá những sáng tạo, những đóng góp của nhà
văn đối với sự phát triển của văn học.
Là hình thức hư cấu tự sự bằng văn xuôi, “truyện ngắn thường miêu tả
một lát cắt của đời sống, một giai đoạn, thậm chí một khoảng khắc, một phút
lóe sáng đầy ý nghĩa khám phá trong cuộc đời nhân vật” [dẫn theo Nguyễn
Đăng Mạnh – Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử - thi pháp - chân dung, tr.443].
Do đó khi đi vào tìm hiểu truyện ngắn trên phương diện nghệ thuật trần thuật,
người đọc sẽ khám phá ra yếu tố tạo nên cái hồn cốt của tác phẩm. Đồng thời,
người đọc cũng nhận thấy vai trò, tác dụng của nghệ thuật trần thuật trong
việc tạo ra giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm văn học. Tìm hiểu những biểu hiện
của nghệ thuật trần thuật là cơ sở để chúng ta tiếp cận phong cách độc đáo
trong nghệ thuật kể chuyện của một nhà văn.
Thứ nữa, nếu hiểu văn học là loại hình nghệ thuật thời gian thì các sự
kiện, chi tiết trong tác phẩm có thể triển khai theo trật tự tuyến tính hay phi
tuyến tính. Nhà văn chính là người có thể quay ngược hoặc vượt thời gian
nghệ thuật do mình sáng tạo ra. Thông qua “nghệ thuật trần thuật” nhà văn thể
hiện được tài năng, phong cách sáng tác, sở trường, bút lực của mình trong
sáng tác văn học. Việc tìm hiểu một vấn đề lý luận văn học ở truyện ngắn

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

7


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Nguyễn Khải sau năm 1975 sẽ cho thấy hiệu quả nghệ thuật trần thuật một
cách sâu sắc hơn.

1.2 Nguyễn Khải là một trong những nhà văn có cá tính sáng tạo độc
đáo. Ông thuộc số ít nhà văn sớm xác định cho mình một quan điểm độc đáo
về nghệ thuật, về vai trò của văn học và trách nhiệm của nhà văn. Ông cũng
thuộc số ít những nhà văn có sức viết dẻo dai, bền bỉ và luôn luôn có mặt ở
những nơi “mũi nhọn” của cuộc sống. Với quan niệm, “coi nghệ thuật như
một khoa học” ngòi bút Nguyễn Khải không coi việc tái hiện bức tranh hiện
thực làm mục đích mà muốn tìm vào những tầng sâu của hiện thực, mổ xẻ các
quan hệ bao giờ cũng rất phức tạp trên bề mặt và trong bề sâu của cuộc sống
để nắm bắt những vấn đề bản chất nhất. Nhà văn thường bám sát những
nhiệm vụ cơ bản của mỗi giai đoạn cách mạng, đồng thời lại đi sâu nghiên
cứu khám phá những bí ẩn của cuộc sống và những khía cạnh phức tạp của
cuộc sống tâm lý con người. Do đo, tìm hiểu Nguyễn Khải ở góc độ thi pháp
về vấn đề nghệ thuật trần thuật, chúng ta sẽ đi vào khám phá thế giới nghệ
thuật với những dụng công về điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ… trong sáng
tác của ông.
1.3 Truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 luôn được giới
nghiên cứu phê bình quan tâm bàn luận và đông đảo bạn đọc hào hứng đón
nhận. Bởi, truyện ngắn của ông giai đoạn này là thế giới phong phú những
cảnh ngộ cá biệt, những hành trình sống đầy nhọc nhằn do bao hệ lụy thường
tình, những cuộc vật lộn kiên cường của con người với hoàn cảnh để bảo vệ
một niềm tin cá nhân, những cá nhân với bảng giá trị tự nó xác lập cho nó.
Mỗi truyện như một phát hiện cảm động về con người và tất cả đều nhằm trả
lời cho câu hỏi khắc khoải suốt cuộc đời cầm bút của ông: con người là ai? Ở
truyện ngắn, Nguyễn Khải cũng đặt con người vào các mới quan hệ đời
thường để quan sát tư cách làm người của nó và nhận ra chính cái đa đoan, đa

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

8



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

sự trong bản chất tinh thần của con người làm nên vẻ đẹp cuộc sống. Truyện
ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 thường viết về người già, những người
thất bại, lạc thời, đơn độc: như người mẹ trong Mẹ và các con, chị Vách trong
Đời khổ … Truyện ngắn giai đoạn này của ông chú ý đến “phía khuất mặt
người”, đến những gì thực sự làm nên bản lĩnh, giá trị cá nhân. Đó chính là sự
chuyển hướng quan trọng trong văn xuôi Nguyễn Khải.
Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 theo hướng tiếp
cận thi pháp học ở góc độ “nghệ thuật trần thuật” sẽ nhận thấy đuợc sự sáng
tạo, cá tính và phong cách của nhà văn. Đồng thời, thấy được những đóng góp
của nhà văn làm nên diện mạo văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Số lượng tác phẩm và chất lượng sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khải
trong suốt những năm cầm bút đã xếp ông vào vị trí xứng đáng của nền văn
học mới. Sự mẫn cảm với cái hàng ngày, với những gì đang diễn ra, với
những “vấn đề hôm nay” đã khiến nhũng trang viết sắc sảo, đầy “chất văn
xuôi” của Nguyễn Khải không những luôn luôn có độc giả mà còn khơi gợi
hứng thú tranh luận, trở thành nơi “giao tiếp đối thoại” của đông đảo bạn đọc.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, đánh
giá về những khía cạnh trong “nghệ thuật trần thuật” của văn xuôi Nguyễn
Khải. Và hầu hết các tác giả đã đánh giá cao vai trò, hiệu quả nghệ thuật của
những vấn đề thuộc nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Nguyễn Khải.
Trong cuốn Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo Dục,
2007 do Hà Công Tài và Phan Diễm Phương tuyển chọn và giới thiệu là tài
liệu quý báu để chúng tôi nghiên cứu đề tài sâu sắc và hoàn thiện hơn. Cuốn
sách tập hợp được rất nhiều bài viết đánh giá về tác phẩm cũng như nghệ

thuật viết truyện của ông. Ở đây, chúng tôi chỉ đưa ra một số bài tiêu biểu.

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

9


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Tác giả Đoàn Trọng Huy với “Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật
Nguyễn Khải” đã nhấn mạnh: “Từ lâu, Nguyễn Khải được chú ý vì cái độc
đáo của cá tính sáng tạo” [26,tr.91]. Cũng ở bài viết này, tác giả Đoàn Trọng
Huy cũng nhấn mạnh “ngôn ngữ của Nguyễn Khải giàu chất sống, chất văn
xuôi và là ngôn ngữ hiện thực. Đặc biệt là tính chất nhiều giọng điệu” [26,
tr.98]. Như vậy, yếu tố giọng điệu - một trong những yếu tố đặc trưng của
nghệ thuật trần thuật đã được nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy đề cập đến.
Nhưng ở bài viết, tác giả Đoàn Trọng Huy mới chỉ dừng lại ở việc nêu lên
những đặc điểm của ngôn ngữ, của giọng điệu đa thanh trong văn xuôi
Nguyễn Khải chứ chưa đi sâu vào phân tích những đặc điểm đó.
Trong khi đó, tác giả Bích Thu cũng cho rằng: “Trong các truyện ngắn
của mình, Nguyễn Khải luôn luôn di chuyển các điểm nhìn trần thuật. Tác giả
tự tách ra khỏi nhân vật để nhân vật tự bộc lộ bằng giọng điệu của chính
mình” và “Người trần thuật trong tác phẩm của Nguyễn Khải không bao giờ
biết trước sự việc mà mình miêu tả bởi sự phức hợp giọng điệu mang nhiều
tiếng nói: giọng tác giả, giọng nhân vật, giọng người kể chuyện với nhiều sắc
thái, âm điệu khác nhau, hòa trộn, đan xen,tranh cãi và đối lập,tạo dựng một
lối viết đa thanh và hiện đại” (Qua bài Giọng điệu trần thuật trong truyện
ngắn Nguyễn Khải từ những năm tám mươi đến nay, (Tạp chí Văn học,số 10,

1997) [ 26, tr.127-128]. Cũng trong bài viết này, tác giả đã phân chia một số
giọng điệu chính trong văn Nguyễn Khải: đó là giọng triết lý, tranh biện;
giọng thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, tâm tình, chia sẻ; giọng hài hước hóm
hỉnh… Kết thúc bài viết, tác giả khẳng định: “Sáng tác của Nguyễn Khải từ
những năm 80 đến nay không chệch khỏi quy luật tiếp nối và đứt đoạn của
quá trình văn học. Một giọng điệu trần thuật chịu sức hút của chủ nghĩa tâm
lý, kết hợp tả, kể, phân tích một cách linh hoạt, thông minh và sắc sảo. Lời

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

10


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

văn nghệ thuật Nguyễn Khải là lời nhiều giọng, được cá thể hóa mang tính
đối thoại của tự sự hiện đại” [26, tr.137].
Cũng đề cập đến nghệ thuật trần thuật, Nguyễn Thị Bình trong bài viết
Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết đã chỉ ra hình tượng người kể chuyện đặc
biệt trong sáng tác của Nguyễn Khải: “Có một người kể chuyện đóng vai tác
giả là nhà văn, nhà báo, là “chú Khải”, “ông Khải”… cùng với rất nhiều chi
tiết tiểu sử như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình
là đối tượng của văn chương (…) nhân vật này góp phần tạo ra giọng điệu tự
nhiên, chân thành mà vẫn phóng túng trên các trang văn Nguyễn Khải” [26,
tr.146].
Ngoài những bài viết được tập hợp trong cuốn Nguyễn Khải tác gia và
tác phẩm, còn một số bài viết của các tác giả khác cũng chú trọng đến các
khía cạnh khác của nghệ thuật trần thuật.

Trong Phong cách văn xuôi Nguyễn khải tác giả Tuyết Nga đã dành
một phần của chương ba để nói về giọng điệu và ngôn ngữ trong văn xuôi
Nguyễn Khải. Ở đây, tác giả đã đi vào tìm hiểu giọng điệu trong văn Nguyễn
Khải với tư cách là thành phần cơ bản liên kết các yếu tố hình thức để tạo
thành một chỉnh thể, góp phần làm nên phong cách nhà văn. Cũng trong bài
viết này, tác giả đã đi vào phân chia các kiểu giọng của văn xuôi Nguyễn khải
chứ chưa thực sự đi sâu vào khai thác vấn đề giọng điệu trong văn ông.
Và trong giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập II do Nguyễn Văn
Long chủ biên, các tác giả đã đề cập đến “tính chính luận và triết luận trong
nghệ thuật trần thuật” của Nguyễn Khải. Ở bài viết này,các tác giả đã khẳng
định: “lời văn nghệ thuật của Nguyễn Khải rất giàu tính trí tuệ, nhiều ngụ ý”.
Giai đoạn sáng tác trước 1975 chủ yếu là lời một giọng, nhưng từ Gặp gỡ
cuối năm trở đi, nhìn chung là kiểu lời nhiều giọng và có giọng điệu trần
thuật biến hóa khá linh hoạt.

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

11


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Tuy nhiên, trong giới hạn những bài viết riêng lẻ, các tác giả mới chỉ
đề cập đến một vài khía cạnh trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Khải.
Các tác giả chưa lí giải một cách có hệ thống về tổ chức trần thuật của ông.
Do vậy, trên cơ sở lí luận, công trình của chúng tôi đã đi vào tìm hiểu cụ thể
nghệ thuật trần thuật qua một số truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Khải sau
1975. Do thời gian và giới hạn của bài viết nên khóa luận của chúng tôi chỉ đề

cập đến vấn đề thuộc nghệ thuật trần thuật như: người trần thuật, điểm nhìn
trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật.
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu về vấn đề lý luận “nghệ thuật trần thuật” trong tác phẩm tự sự
và vai trò của nó trong truyện ngắn góp phần vào việc đi sâu, tìm hiểu “nghệ
thuật trần thuật” trong những sáng tác của một tác giả trong một giai đoạn cụ
thể để tìm ra những giá trị về nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Đồng thời, khám phá được những nét chung của tác giả trong sự vận động của
thời đại và những nét riêng tạo nên phong cách nhà văn.
Thông qua việc tìm hiểu “nghệ thuật trần thuật” trong truyện ngắn
Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 chúng tôi muốn đi sâu khám phá và thêm
một lần nữa khẳng định vai trò, vị trí của ông trong nền văn học đương đại nói
riêng và trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung. Bên cạnh
đó, đi sâu vào tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 nhằm
tìm hiểu về phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo và những đổi mới của nhà
văn trong sự vận động của tiến trình văn học dân tộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tập trung tìm hiểu nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu khảo sát những truyện ngắn
sáng tác sau 1975 của Nguyễn Khải. Ở đề tài này, tác giả tập trung khảo sát

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

12


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


truyện ngắn Nguyễn Khải trong cuốn: “Truyện ngắn Nguyễn Khải chọn
lọc” (1996), Nhà xuất bản hội nhà văn và cuốn: “Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Khải” (2002), Nhà xuất bản hội nhà văn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đi vào tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 trên các phương diện: người kể chuyện,
điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu,…để làm rõ hiệu quả nghệ thuật trong sáng
tác của ông. Để từ đó thấy được giá trị độc đáo trong truyện ngắn Nguyễn
Khải, vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
6. Phương pháp nghiên cứu.
6.1. Phương pháp hệ thống.
Khi nghiên cứu khoa học người nghiên cứu phải biết chia tách đối
tượng ra thành nhiều yếu tố có cùng một trình độ, mỗi yếu tố ấy có một chức
năng, nhiệm vụ khác nhau để tìm hiểu, khám phá. Trong quá trình thực hiện
đề tài, chúng tôi chọn phương pháp này để khảo sát “nghệ thuật trần thuật”
theo các yếu tố nhỏ của hình thức: người trần thuật, điểm nhìn trần thuật,
ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật.
6.2. Phương pháp so sánh hệ thống
Phương pháp này nhằm giúp người nghiên cứu tìm ra sự đặc trưng cũng
như sự độc đáo giữa hai hệ thống được đối chiếu. Qua đó, làm rõ sự tương
quan cũng như những nét đối lập của từng yếu tố cùng loại giữa hai hệ thống.
Phương pháp này được áp dụng cho từng cấp độ của tác phẩm, cho toàn tác
phẩm cũng như cho từng nhóm tác phẩm.
6.3. Phương pháp thống kê phân loại.
Phương pháp này giúp người nghiên cứu tác phẩm văn học trong chỉnh
thể của nó. Mỗi tác giả có một phong cách nghệ thuật riêng và nét phong cách
đó là sự ổn định trong sáng tác của nhà văn trong một thời gian dài.

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn


13


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

6.4. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp đưa các đối tượng vào
trong một chỉnh thể để tìm hiểu, nghiên cứu, từ đó rút ra đươc giá trị của tác
phẩm và những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn học.
7. Đóng góp của khóa luận
Thực hiện đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải giai đoạn sau 1975” chúng tôi hi vọng đóng góp một cái nhìn cá nhân
về nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Khải. Qua đó chúng ta sẽ có cách đánh
giá toàn vẹn hơn về sự nghiệp văn học cũng như tài năng, tư tưởng nghệ thuật
của ông.
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghệ thuật trần thuật
Chương 2: Sự khai thác điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975.

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

14



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
1.1. Nghệ thuật trần thuật
1.1.1. Khái niệm “trần thuật”
Trần thuật (narration) là phương thức nghệ thuật đặc trưng của loại tác
phẩm tự sự. “Truyện ngắn là loại tác phẩm tự sự cỡ nhỏ” (Dẫn theo giáo trình
Lý luận văn học). Do đó, nghệ thuật trần thuật giữ vai trò chủ đạo, nó quyết
định tới sự thành công của tác phẩm. Ngay từ đầu thế kỉ XX thì trần thuật đã
trở thành một trong những vấn đề lý thuyết tự sự học thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng
quan tâm rất nhiều đến nghệ thuật trần thuật và đã đưa ra rất nhiều định nghĩa
về trần thuật. Trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp chúng tôi chỉ xin trích
dẫn một số định nghĩa được coi là tiêu biểu và được nhiều người quan tâm
hơn cả.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu đã định
nghĩa về trần thuật: “Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự
kiện, nhân vật theo một thứ tự nhất định, một cách nhìn nào đó” [6, tr.364].
Cũng bàn về khái niệm trần thuật, tác giả Lại Nguyên Ân trong “150
thuật ngữ văn học” cho rằng: “Trần thuật bao gồm cả việc kể và miêu tả các
hành động và các biến cố trong thời gian, mô tả chân dung hoàn cảnh của
hành động, tả ngoại hình, tả nội thất… bàn luận, lời nói bán trực tiếp của
nhân vật. Do vậy, trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo các tác phẩm
tự sự hoặc của người kể, tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ lời

nói trực tiếp của các nhân vật” [1, tr.324].

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

15


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Trong bài “Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu
văn học ở Việt Nam” tác giả Lại Nguyên Ân lại khẳng định: “Thực chất hoạt
động trần thuật là thuật, là kể. Cái được thuật, được kể trong tác phẩm văn
học tự sự là chuyện” [24,tr.147].
Giáo trình lí luận văn học do GS. Phương lựu (chủ biên) đã đưa ra
cách hiểu về khái niệm trần thuật tương đối thống nhất với cách hiểu trên:
“Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong
truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện, nhân vật
theo một trình tự nhất định” [13, tr.19].
Qua các định nghĩa trên, chúng ta nhận thấy: thực chất của hoạt động
trần thuật là kể, thuật lại những sự kiện, con người, hoàn cảnh nào đó theo
một cách nhìn nào đó. Cũng qua đó nhận thấy: khái niệm trần thuật và khái
niệm kể chuyện có thể thay thế cho nhau và chúng đươc diễn đạt bằng các từ
ngữ mang tính cụ thể hơn nữa như: người kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể…
Các quan điểm trên đều khẳng định trần thuật là một khái niệm luôn gắn liền
với bố cục và kết cấu của tác phẩm. Người trần thuật đóng vai trò như người
“dẫn chương trình” giúp độc giả xem xét, tìm hiểu tác phẩm ở cả bề mặt cũng
như bề sâu. Mặt khác, trần thuật còn là bằng chứng của trình độ vượt thoát
của người nghệ sĩ. Ở đó, người nghệ sĩ khẳng định tài năng và cá tính sáng tạo

của mình.
1.1.2. Vai trò của trần thuật đối với việc xây dựng truyện ngắn
Truyện ngắn là thể loại văn học đặc biệt. Là hình thức tự sự cỡ nhỏ,
nhưng truyện ngắn luôn có “sức chứa” và “sức mở lớn”, “sự sáng tạo của
truyện ngắn là không cùng” (Vương Trí Nhàn). Vai trò của truyện ngắn
trong đời sống văn học hiện đại là khả năng khám phá đời sống, bộc lộ tư
tưởng, tình cảm và tài năng của nhà văn. Trong sự đóng góp lớn của truyện
ngắn đối với đời sống văn học thì trần thuật giữ vai trò quan trọng tạo nên thế

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

16


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

giới nghệ thuật của tác phẩm, tạo nên phong cách, cá tính sáng tạo của người
nghệ sĩ. Chính vì vậy mà Pospelo khẳng định: “Đóng vai trò quan trọng trong
loại tác phẩm tự sự là trần thuật” và với sự trợ giúp của trần thuật, miêu tả,
bình luận tác giả, lời nói nhân vật trong tác phẩm tự sự cuộc sống được nắm
bắt một cách tự do và sâu rộng. Qua đó, ông đề cập đến vai trò của trần thuật
đối với loại tác phẩm tự sự - một lọai văn có khả năng phản ánh sâu sắc,
phong phú và đa dạng hơn cả. Trong đó, trần thuật là yếu tố quan trọng không
thể thiếu. Mà Vương Trí Nhàn đã khẳng định: “Khả năng ôm trọn cuộc sống
tiểu thuyết và truyện ngắn bình đẳng với nhau”.
Có thể thấy vai trò của trần thuật trong tác phẩm tự sự được biểu hiện
cụ thể: Trần thuật là yếu tố tạo nên diện mạo của một tác phẩm tự sự ở cả hai
phương diện nội dung và hình thức.

Theo tác giả Trần Đăng Suyền thì “Trần thuật là một phương thức cơ
bản của tự sự, một yếu tố quan trọng tạo nên hình thức một tác phẩm văn học.
Cái hay, sức hấp dẫn của một truyện ngắn hay tiểu thuyết phụ thuộc rất nhiều
vào nghệ thuật kể chuyện của nhà văn” [22, tr.187]. Vai trò đậm nhạt của trần
thuật còn phụ thuộc vào đặc điểm của thể loại, những khuynh hướng phát
triển của thể loại ấy. Trong địa hạt tác phẩm tự sự nói chung và truyện ngắn
nói riêng nghệ thuật trần thuật đóng vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là
yếu tố liên kết, dẫn dắt câu chuyện mà còn là bản thân của câu chuyện. Khi
mà cốt truyện không còn đóng vai trò nòng cốt, nhân vật bị xóa mờ đường
viền cụ thể thì yếu tố trần thuật là chìa khóa mở ra những cánh cửa của
truyện.
Hơn nữa, qua thực tiễn công việc sáng tạo nghệ thuật cho thấy, nghệ
thuật trần thuật là một trong những tiêu chuẩn để hình thành diện mạo của
truyện ngắn trong đời sống văn học hiện đại. Để khẳng định vai trò, vị trí của
truyện ngắn Kuranop khẳng định: “một nền văn học chưa được coi là hình

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

17


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

thành, nếu trong đó truyện ngắn không chứa một vị trí xứng đáng” [18,
tr.118]
1.2. Các nhân tố cơ bản của nghệ thuật trần thuật
1.2.1. Người trần thuật
“Người trần thuật” hay “Người kể chuyện” là vấn đề quan trọng, then

chốt của tác phẩm tự sự. Vì không có tác phẩm tự sự nào là không có người
kể chuyện, mà “Truyện ngắn là loại hình tự sự cỡ nhỏ” (Giáo trình lý luận
văn học) - một loại hình tiêu biểu cho văn xuôi hiện đại. Do đó, để phục vụ
việc tạo ra nhân vật kể chuyện trong sáng tác các tác giả đã sử dụng những
hình thức kể chuyện khác nhau. Có khi đó là người đứng hoàn toàn bên ngoài
tác phẩm nhưng cũng có khi đó là nhân vật xưng tôi. Nhà nghiên cứu
T.Z.Todozov khẳng định: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc tạo
ra thế giới tưởng tượng… không thể có trần thuật mà thiếu người kể chuyện”
[25,tr.116]. Quan điểm này góp phần khẳng định vai trò của hình thức kể
chuyện trong nghệ thuật trần thuật.
Còn M.Bakhtin đã đưa ra quan điểm của mình trên cơ sở của lý thuyết
giao tiếp, lý thuyết “giọng” và “lời người khác”, ông đưa ra vấn đề người kể
chuyện được đặt trong quan hệ với người đọc giả định, với vấn đề “điểm
nhìn”, các loại hình, cấp độ và tình huống trần thuật.
Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi
pháp văn xuôi hiện đại, cũng là vấn đề xuất hiện ngay từ đầu thế kỉ XX ở Nga
và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Sau đó, vấn đề người kể chuyện
nhận được sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới trong đó có các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam. Ở Việt Nam khái niệm “Người kể chuyện” là một
khái niệm thu hút đươc nhiều ý kiến quan tâm. Do phạm vi đề tài, ở đây
chúng tôi chỉ tập hợp một số ý kiến tiêu biểu cho đánh giá, nhận xét về “nghệ
thuật kể chuyện” .

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

18


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Người kể chuyện” chỉ xuất hiện khi
nào câu chuyện được kể với một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là
hình tượng của chính tác giả, có thể là một nhân vật do tác giả tạo ra. Một tác
phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện. Hình tượng người kể đem
lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề
nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn tác giả làm cho sự trình bày, tái tạo
con người và đời sống xã hội trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều bối cảnh.
Đồng thời, với việc lựa chọn người trần thuật, tác giả đã gửi gắm một dụng ý
nghệ thuật nhất định nhằm dẫn dắt một cách thuyết phục nhất để người đọc
tin vào câu chuyện mà mình kể.
Tác giả Nguyễn Thái Hòa cho rằng: “Cần có sự phân biệt giữa người
kể hàm ẩn với tác giả và con người tác giả ngoài đời” [8, tr.159]. Ở đây, tác
giả quan niệm “người kể chuyện hàm ẩn” là người kể chuyện toàn năng, là
người biết tuốt. Do đó, “người kể chuyện hàm ẩn” một mặt sống với nhân vật,
mặt khác lại có mối quan hệ ngầm ẩn với người đọc ngoài đời.
Thực ra, “người kể chuyện hàm ẩn” là tên gọi khác của “người kể
chuyện ẩn tàng” như G.S Trần Đình Sử từng gọi tên. Từ quan niệm trên cho
thấy “Người kể chuyện” là yếu tố không thể thiếu trong thế giới nghệ thuật
của nhà văn. Bằng hình thức “Người kể chuyện” nhà văn kể lại những điều
mình đã biết và tự do liên tưởng, tưởng tượng để cốt truyện hấp dẫn và được
bạn đọc đón nhận. “Người kể chuyện” chính là hình tượng ước lệ về “Người
trần thuật”. Người trần thuật là nhân vật có thật hoặc không có thật, nhà văn
đã bằng hành vi ngôn ngữ để tạo nên văn bản tự sự.
Trong trần thuật miệng và trần thuật viết phi văn học, người trần thuật
đứng ngoài mọi văn bản mà nó trần thuật, là người tiến hành trần thuật. Người
trần thuật có thể hóa thân thành nhiều vai khác nhau. Vai trần thuật lộ diện
thường xưng “tôi” kể theo ngôi thứ nhất, vai kể chuyện ẩn tàng là người kể


Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

19


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

chuyện giấu mặt sau trang sách, kể theo ngôi thứ ba. Như vậy, nhắc tới khái
niệm “người kể chuyện” ta không thể không quan tâm đến “ngôi kể”. Vấn đề
này cũng được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, khai thác. Tác giả Nguyễn Thị
Thu Thủy trong bài Về khái niệm truyện kể ở ngôi thứ ba và người kể
chuyện ở ngôi thứ ba nhận xét: “luôn luôn chỉ có ngôi thứ nhất và ngôi thứ
hai tham dự vào tình huống giao tiếp và ngôi thứ ba chỉ có thể là chủ thể của
hành vi được kể lại (là chủ ngữ trong câu) chứ không thể là chủ thể của lời
nói” Điều này có nghĩa “người kể chuyện ở ngôi thứ ba hay người kể là nhân
vật [24, tr.134].
Người kể chuyện chính là hình thức kể chuyện – là cách mà tác giả lựa
chọn ngôi kể, vai kể, để kể, thuật, tả…lại câu chuyện của mình. Do đó
“Người kể chuyện” là một trong những hình thức thể hiện quan điểm tác giả
trong tác phẩm. Song quan điểm tác giả chỉ có thể được thể hiện qua “điểm
nhìn”, “tầm nhận thức” của người kể chuyện như một hình tượng ít nhiều tồn
tại độc lập và “thái độ của người kể chuyện đối với thế giới câu chuyện được
kể lại có phần nào trùng với quan điểm của tác giả, nhưng không bao giờ
trùng khít hoàn toàn” ( Dẫn theo Đỗ Hải Phong, vấn đề người kể chuyện
trong thi pháp tự sự hiện đại) [24,tr.119].
Các tác giả cuốn Giáo trình lí luận văn học tập 1 đã nêu ra chức năng
thông báo của các ngôi kể: “Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể tất cả
những gì họ biết, còn ngôi thứ nhất chỉ được kể những gì mà khả năng của

một con người cụ thể có thể biết được, như vậy mới tạo ra cảm giác chân
thực” [14, tr.61]. Nhìn chung, hình thức kể ở ngôi thứ nhất xuất hiện muộn ở
đầu thế kỉ XIX và tồn tại cho tới ngày nay, ở giai đoạn trước hình thức người
kể ở ngôi thứ ba chiếm vị trí độc tôn, còn hình thức người kể ở ngôi thứ hai
thường ít gặp hơn trong lịch sử văn học. Nhưng dù với bất kì hình thức trần
thuật nào, người kể chuyện cũng chính là hình tượng do chính tác giả sáng tạo

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

20


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

ra. Tuy nhiên, “người kể chuyện chỉ được kể khi nào họ cảm thấy như người
trong cuộc đang chứng kiến sự việc xảy ra bằng tất cả các giác quan của
mình”.
“Người kể chuyện” là yếu tố đầu tiên để tìm hiểu nghệ thuật trần thuật
bởi nói như TZ.Todozov “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến
tạo thế giới tưởng tượng… không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện”
1.2.2. Điểm nhìn trần thuật
Cụm từ “the point of view”, “the out look” được dùng khá rộng rãi
trong đời sống có nghĩa là điểm nhìn hay chỗ đứng để xem xét, bình giá một
sự vật, một sự kiện, một hiện tượng tự nhiên hay xã hội. Có khi khái niệm này
được mở rộng tương đương với nghĩa “quan điểm” (về thế giới quan) được
dùng nhiều trong các lĩnh vực: triết học, chính trị và nghệ thuật. Trong văn
học “điểm nhìn trần thuật” được hiểu là vị trí người trần thuật quan sát, cảm
thụ và miêu tả, đánh giá đối tượng. Như vậy, đi liền với “người kể chuyện” là

điểm nhìn của người kể, không thể hiểu thấu đáo sự vật, hiện tượng nếu
không có điểm nhìn đa diện. Khi đọc tác phẩm, người đọc phải tìm ra điểm
nhìn mà từ đó tác giả miêu tả, phân tích, trần thuật. Tuy nhiên ở những tác
phẩm nổi tiếng nhà văn không chỉ lựa chọn điểm nhìn hợp lí mà còn phối kết
hợp các điểm nhìn tạo ra sự năng động cho lối kể của nhà văn. Mặt khác,
thông qua “điểm nhìn trần thuật” người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác
phẩm và nhận ra đặc điểm phong cách nhà văn.
Vấn đề điểm nhìn được nghiên cứu tập trung từ đầu thế kỉ XIX, sang
đến thế kỉ XX đặc biệt là từ những năm 40 trở đi vấn đề điểm nhìn trở thành
một tiêu điểm trong nghiên cứu văn học. “Điểm nhìn trần thuật” là vị trí để từ
đó người kể chuyện nhìn và miêu tả các sự kiện, hiện tượng, hành vi của đời
sống. Điểm nhìn là khởi điểm mà việc trần thuật trải ra trong không gian và
thời gian của văn bản. “Điểm nhìn trần thuật” cung cấp một phương diện để

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

21


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc điểm phong cách
của nhà văn ở trong đó. Chính điều đó đã góp phần khẳng định: “giá trị của
sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức
một cái nhìn mới đối với đời sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ sự
thay đổi điểm nhìn” [6,tr.113]. Từ những quan điểm chung nhất về lý thuyết
“điểm nhìn trần thuật” chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu vấn đề điểm nhìn trần
thuật trong quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Nhà nghiên cứu

M. Khrapchencô cho rằng: “Chân lí cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật
không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới,
vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ”; một nhà văn pháp cũng nói: “đối với nhà văn
cũng như đối với nhà họa sĩ phong các không phải là vấn đề kĩ thuật mà là
vấn đề cái nhìn”. Từ hai quan điểm trên của hai nhà nghiên cứu chúng tôi
nhận thấy vấn đề “điểm nhìn” có ảnh hưởng rất lớn tới việc thẩm định cá tính
sáng tạo và phong cách của nhà văn. Bởi vì: Sự lựa chọn điểm nhìn của nhà
văn trong tác phẩm của mình không chỉ dừng lại ở việc để cho người kể
chuyện nhìn và kể, miêu tả các sự kiện, hiện tượng, hành vi của đời sống, mà
chính bản thân việc lựa chọn điểm nhìn cho người trần thuật cũng thể hiện sự
đánh giá tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Bên cạnh đó, GS.Trần Đình Sử
cũng cho rằng: “Văn bản nghệ thuật phải truyền đạt những cái người ta cảm
thấy, nhìn thấy và nghĩ đến, do đó tất yếu phải thể hiện điểm nhìn, chỗ đứng
để từ đó thấy thế giới nghệ thuật”. Theo đó khái niệm “điểm nhìn trần thuật”
được xác lập: điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả
phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả.
Quan điểm về điểm nhìn nghệ thuật của Cao Kim Lan là: “Hiểu một
các đơn giản nhất điểm nhìn chính là một “mánh khóe” thuộc về kĩ thuật, một
phương tiện để chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất: sức quyến rũ
của truyện kể. Và dù có sử dụng cách thức nào, phương pháp hay kĩ thuật nào

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

22


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


thì mục đích cuối cùng của người sáng tạo cũng chỉ là mê hoặc độc giả, buộc
anh ta phải đọc. Và “điểm nhìn là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật
chứ không phải là bản thân cấu trúc đó” (Quan điểm về diểm nhìn nghệ
thuật của R. Scholes và R. Kellogg và một số vấn đề khi áp dụng các mô
hình lí thuyết phương Tây vào nghiên cứu tác phẩm tự sự) [25,tr.135].
Chính quan điểm này đã khẳng định: điểm nhìn nghệ thuật được coi là một
nhân tố bộc lộ kĩ thuật viết truyện của nhà văn, một mắt xích khách quan nội
tại duy nhất mà theo đó chúng tá cố thể định giá được “tay nghề” của nhà văn.
Điểm nhìn trong nghệ thuật văn xuôi được các nhà nghiên cứu gọi là
“điểm nhìn trần thuật”. Khái niệm này chứa đựng cả một hệ tư tưởng thẩm
mĩ, thậm chí là một “cấu trúc hàm ẩn” (Nguyễn Thái Hòa). Do đó, điểm nhìn
nghệ thuật mang tính ẩn dụ. Ý nghĩa của nó nằm ở bề sâu của khái niệm. Nó
bao gồm những nhận thức, đánh giá, quan sát, những cảm thụ của chủ thể đối
với thế giới và cả khoảng cách giữa chủ thể với khách thể, cả phương diện vật
lí, tâm lí, văn hóa.
Vậy chúng ta nhận diện “điểm nhìn trần thuật” như thế nào? Đó là ở
trong chi tiết nghệ thuật bởi “chi tiết là điểm rơi của cái nhìn”. Khi nhà văn
trình bày cái họ nhìn thấy thì ta đã tiếp thu được cái nhìn của họ, chú ý cái mà
họ chú ý. Quan điểm của tác giả bao giờ cũng thể hiện thông qua điểm nhìn
của người kể chuyện. Chúng ta nhận ra hình tượng người kể chính là qua thái
độ của người kể đối với thế giới câu chuyện được kể. Do đó để hiểu được tác
phẩm yêu cầu người đọc phải tiếp nhận bằng thao tác suy ý thông qua các mối
quan hệ giữa người kể với cốt truyện, nhân vật, lời kể… để tìm ra “những
thông tin ngầm ẩn mang màu sắc tu từ gợi cảm hứng thẩm mĩ”. Đó cũng là
vai trò to lớn của “điểm nhìn trần thuật” trong thế giới nghệ thuật của tác
phẩm văn học.

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

23



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Trong văn học truyền thống, các tác phẩm văn học chủ yếu được triển
khai theo cái nhìn “bất biến”, người kể chuyện là người biết trước số phận
nhân vật, sắp xếp bố trí các sự kiện, chi tiết, sự phát triển của cốt truyện. Ở vị
trí này, người kể chuyện ở thế “bên trên” độc giả, đứng ngoài câu chuyện để
quan sát, miêu tả, kể lại câu chuyện. Trong văn học hiện đại nhà văn khai thác
sâu hơn điểm nhìn nhân vật để tác phẩm có sự đan xen, dịch chuyển các điểm
nhìn tạo ra được cái nhìn sâu sắc hơn đối với câu chuyện. Ở những tác phẩm
tự sự chủ thể kể chuyện ở ngôi thứ ba nhưng điểm nhìn nhân vật vẫn xuất
hiện khi nhân vật hoàn thành chuỗi suy nghĩ, chủ thể kể chuyện lại tiếp tục
mạch truyện. Chủ thể kể chuyện ngôi thứ nhất có thể không xuất hiện, nhưng
điểm nhìn từ bên trong nhân vật vẫn giữ vị trí then chốt, bởi qua đó hiện thực
cuộc sống hiện lên ở nhiều chiều. Nhà văn đã trao cho nhân vật chính điểm
nhìn của mình. Cùng với “người kể chuyện”, “điểm nhìn trần thuật” thì giọng
điệu là yếu tố không thể thiếu tạo nên giá trị nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
1.2.3. Ngôn ngữ trần thuật
Trong “Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - 1 thành công đáng chú ý
của văn xuôi sau 1975” Nguyễn Thị Bình có viết: “Một nhà văn đích thực
phải ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên quy định cung
cách ứng xử” của anh. Đối với văn chương, ngôn ngữ là phương tiện bắt buộc
để anh ta giao tiếp với bạn đọc, nó không chỉ là “cái vỏ của tư duy” mà còn là
tài năng, cá tính và quan điểm nghệ thuật, do đó “giọng điệu của tác phẩm
trước hết cũng là giọng điệu ngôn ngữ” [24,tr.351]
Như đã biết, văn học là một loại hình nghệ thuật, do đó “chất liệu” tạo
nên tác phẩm cũng mang tính nghệ thuật. Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ

văn học đưa ra khái niệm về ngôn ngữ văn học như sau: “ngôn ngữ là công
cụ là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được coi là loại hình nghệ
thuật ngôn từ. M. Go-ri- ki khẳng định: ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

24


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

học” [6,tr. 215]. Ngôn ngữ văn học bắt nguồn từ ngôn ngữ nhân dân, được
chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến lượt mình nó góp
phần nâng cao làm phong phú ngôn ngữ nhân dân. Trong tác phẩm, ngôn ngữ
văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong
cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng
về hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân. Ngôn ngữ văn học là hình thái của
hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nó được sử dụng để phục vụ
nhiệm vụ trung tâm là xây dựng “hình tượng văn học” và giao tiếp nghệ thuật.
Ngôn ngữ của tác phẩm tự sự là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính
cách. Song sự khác biệt quan trọng giữa ngôn ngữ tác phẩm tự sự với ngôn
ngữ các thể loại văn học khác chính là ở chỗ, trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ
người kể chuyện giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của
tác phẩm. Nhưng đến với tự sự hiện đại, ngoài ngôn ngữ người kể chuyện,
ngôn ngữ nhân vật cũng góp phẩm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật.
Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra quan điểm về ngôn ngữ người
trần thuật như sau: “ngôn ngữ người trần thuật chẳng những có vai trò then
chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách

nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả.” [6,tr.213].
Đồng thời cũng nhấn mạnh: ngôn ngữ người trần thuật có thể có một giọng
hoặc có hai giọng (như lời nhại, mỉa mai, lời nửa trực tiếp…) thể hiện sự đối
thoại với ý thức khác về cùng một đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ người trần
thuật dưới hình thức lời người kể chuyện ngoài đặc điểm như trên còn mang
thêm sắc thái, quan điểm bổ xung do lập trường, đặc điểm tâm lí, cá tính của
nhà văn - người kể chuyện mang lại.
Bên cạnh quan điểm về ngôn ngữ người trần thuật, Từ điển thuật ngữ
văn học còn đưa ra quan điểm về ngôn ngữ nhân vật: “là một trong những
phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

25


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

tính nhân vật” và “trong tác phẩm nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân
vật bằng nhiều cách: nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt
của nhân vật, cho nhân vật lặp lại những từ, câu mà nhân vật thích nói kể cả
từ ngoại quốc và từ địa phương…”. Trong tác phẩm tự sự, nhà văn còn trực
tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân vật và dù tồn tại dưới dạng nào
hoặc được thể hiện bằng cách nào, ngôn ngữ nhân vật bao giờ cũng được đảm
bảo kết hợp sinh động giữa tính cá thể và tính khái quát, nghĩa là một mặt,
mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, có “lời ăn tiếng nói
riêng”; mặt khác, ngôn ngữ ấy lại phản ánh đặc điểm ngôn ngữ của một lớp
người nhất định gần gũi về nghề nghiệp, tâm lí, giai cấp, trình độ văn hóa.

Còn M.Bakhtin cho rằng: “Sự miêu tả nghệ thuật là sự miêu tả Sub
speae aetẻnitates (trước cái vĩnh hằng), chỉ có những ngôn từ, hình ảnh xứng
đáng để ghi nhớ muôn đời”.
Tóm lại, ngôn ngữ trần thuật đứng song song cùng với người trần thuật,
điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật để khẳng định tài năng, cá tính và
quan điểm nghệ thuật của tác giả. Và trong sự chuyển động mãnh liệt của văn
xuôi nước ta thời kì vừa qua thì ngôn ngữ nổi lên như một “chất liệu” mới
đánh giá trình độ vượt thoát của người nghệ sĩ.
1.2.4. Giọng điệu trần thuật
Như “một phạm trù thẩm mĩ” giọng điệu có “vai trò rất lớn tạo nên
phong cách nhà văn” [9, tr. 913]. Giọng điệu là một trong những yếu tố quan
trọng cấu thành nét đặc trưng riêng cho mỗi loại hình lời văn nghệ thuật.
Không những thế, giọng điệu trần thuật còn góp phần khu biệt đăc trưng
phong cách của mỗi nhà văn, mỗi một khuynh hướng sáng tác. Hơn thế nữa,
R.Barthes trong tiểu luận “cách viết là gì?” đã ghi nhận: “trong bất kì hình
thức văn học nào cũng đều có sự lựa chọn chung một giọng điệu”. Còn
M.Bakhtin qua các công trình nghiên cứu về thi pháp văn xuôi đã đưa ra khái

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

26


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

niệm đa âm (đa thanh) nhằm ghi nhận sự cách tân về giọng trong tiến trình tự
sự.
Còn Từ điển thuật ngữ văn học thì đưa ra khái niệm về giọng điệu

như sau: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của
nhà văn đối với hiện tựợng được miêu tả thể hiện trong lời văn suồng sã, ngợi
ca hay châm biếm… giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm
và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong
cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu
nhất định nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và
sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [6,tr.134 - 135].
Trong tác phẩm văn học giọng điệu là yếu tố đặc trưng của hình tượng
tác giả giúp người đọc nhận ra cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Giọng điệu
khác với tín hiệu âm thanh - dấu hiệu để nhận ra ngôn ngữ, ngữ điệu, giọng
nói của từng người. Giọng điệu là yếu tố không thể thiếu trong việc sắp xếp,
liên kết các yếu tố khác nhau làm cho tác phẩm cũng có một âm hưởng, một
khuynh hướng nào đó. Giọng điệu chính là biểu hiện sự kết hợp những yếu tố
riêng lẻ của hình thức và nội dung tạo nên đặc trưng phong cách. Đề tài, tư
tưởng hình tượng chỉ được thực hiện trong một môi trường giọng điệu nhất
định, trong phạm vi thái độ cảm xúc nhất định với đối tượng sáng tác. Đây
chính là cơ sở khách quan của giọng điệu, nó được quyết định bằng các sắc
tiếc… Giọng điệu là kết quả nhìn nhận của tác giả có khách quan đúng đắn
hay không và nó phản ánh phẩm chất thẩm mĩ nào của đối tượng. Tuy nhiên,
cùng một đối tượng, mỗi nhà văn lại có cảm quan khác nhau và đây chính là
cơ sở chủ quan của giọng điệu.
Theo tác giả Bích Thu: “Giọng điệu được thiết kế bởi mối quan hệ,
thái độ, lập trường, tình cảm của người kể với các hiện tượng, các sự kiện
được miêu tả cũng như người nghe tạo thành giọng điệu trần thuật”

Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn

27



×